intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách giáo dục phổ thông của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với các dân tộc thiểu số (1964-1967)

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

17
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Chính sách giáo dục phổ thông của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với các dân tộc thiểu số (1964-1967)" chỉ ra bản chất của chính sách giáo dục phổ thông của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với các dân tộc thiểu số, thực chất làm xoa dịu những mâu thuẫn và chính sách sai lầm của Ngô Đình Diệm đối với các dân tộc thiểu số. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách giáo dục phổ thông của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với các dân tộc thiểu số (1964-1967)

  1. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CỦA CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ (1964 - 1967) Nguyễn Bá Lương1 1. Lớp CH21LS01. Email: luongki550@gmail.com TÓM TẮT Chính sách giáo dục phổ thông (1964-1967) là bộ phận quan trọng trong chính sách đối với các dân tộc thiểu số của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Bài viết tìm hiểu về chính sách giáo dục phổ thông của chính quyền VNCH đối với các dân tộc thiểu số để thực hiện chính sách bình định và kiểm soát địa bàn chiến lược có các dân tộc thiểu số cư trú. Dựa trên tài liệu lưu trữ là các văn bản hành chính và các công trình công bố từ nhiều phía về chính sách giáo dục của chính quyền VNCH đối với các dân tộc thiểu số, bài viết mô tả về quá trình ra đời, tiến hành, kết quả và tác động chính sách giáo dục đối với các dân tộc thiểu số trong Chính sách “Dân tộc hòa đồng – Đồng tiến”. Bài viết chỉ ra bản chất của chính sách giáo dục phổ thông của chính quyền VNCH đối với các dân tộc thiểu số, thực chất làm xoa dịu những mâu thuẫn và chính sách sai lầm của Ngô Đình Diệm đối với các dân tộc thiểu số. Từ khóa: Chính sách giáo dục, Chính sách Thượng vụ, Các dân tộc thiểu số, Giáo dục phổ thông, Việt Nam Cộng hòa. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong hệ thống chính sách dân tộc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH), chính sách giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, trong suốt thời gian tồn tại chế độ VNCH rất chú trọng vào chính sách giáo dục phổ thông đối với các dân tộc thiểu số. Chính sách “dân tộc hóa” của chính quyền Ngô Đình Diệm đã tạo ra sự kỳ thị, phân biệt và có những sai lầm nhất định nên đã gặp phải sự phải kháng của các dân tộc thiểu sổ. Thời kỳ quân đội cầm quyền đã thực hiện chính sách “Dân tộc hòa đồng - Đồng tiến”, nhưng do sự bất ổn nên chính sách giáo dục chưa triển khai rộng rãi đến các dân tộc thiểu số. Trong giáo dục phổ thông đối với các dân tộc thiểu số, để tiến kịp với trình độ chung, xóa bỏ khoảng cách về trình độ nhận thức giữa các dân tộc thiểu số với người Kinh. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, đã tiến hành biên soạn chương trình học tiếng mẹ đẻ dành riêng và học song song với chữ Quốc ngữ; chính quyền VNCH ban hành các chính sách hỗ trợ về cộng điểm các kỳ thi tuyển sinh và giảm điều kiện cấp văn bằng, học bổng cho các con em học sinh dân tộc thiểu số nghèo và hiếu học, mở rộng các ký túc xá dành riêng cho con em dân tộc thiểu số có chỗ ở yên tâm học tập, với cung cấp tiền ăn nuôi. Chính quyền VNCH đã tiến hành bài bản, dung hòa giữa bản sắc của các dân tộc và nhưng thành tựu văn minh nên chính sách giáo dục phổ thông đối với dân tộc thiểu số đã có tác đến mọi lĩnh vực của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam. 97
  2. 2. NỘI DUNG 2.1. Bối cảnh ra đời Chính sách giáo dục phổ thông đối với các dân tộc thiểu số của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1964-1967) Sự kiện ngày 1-11-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ và thể chế Đệ Nhất Cộng hòa được thay thế bởi chính quyền Quân quản do các tướng lĩnh đảo chính nắm chính quyền. Những chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi đối với các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn năm 1955 đến năm 1963, tồn tại thực tế của đồng bào người Thượng sinh sống miền Nam được phân chia cụ thể cho từng mục tiêu của VNCH như sau: 1.Khối các dân tộc Cao Nguyên Trung Phần và Trung Nguyên Trung Phần gọi là các sắc tộc Thượng miền Nam; 2.Khối dân tộc Chàm được gọi là sắc tộc Chàm; 3.Khối dân tộc Khmer được gọi là người Việt gốc Miên; 4.Khối các dân tộc thiểu số miền Bắc di cư gọi là Sắc dân Thượng miền Bắc. Mục tiêu chính sách dân tộc của Ngô Đình Diệm đối với các dân tộc thiểu số được nêu rõ trong buổi lễ tuyên thệ ngày 12-6-1955 ở Buôn Mê Thuột, chủ trương “Dân tộc hóa”: “Trên phương diện chính trị, Kinh, Thượng đều là công dân của Việt Nam Cộng hòa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, tại khắp lãnh thổ Việt Nam đồng bào sơn cước cũng như đồng bào đồng bằng có quyền sinh sống và làm ăn như nhau”. Trên lĩnh vực văn hóa giáo dục, chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi chính sách đồng hóa trên tất cả phương diện: Pháp luật, phong tục tập quán, ngôn ngữ… Giáo dục phổ thông đối với người Thượng của Ngô Đình Diệm thực hiện đồng hóa cưỡng bức rõ rệt “Cùng với việc đưa hàng vạn người Kinh di cư lên Tây Nguyên chính quyền đã ban hành điều khoản: hạn chế dạy thổ ngữ Thượng tại bậc sơ học và tiểu học, lấy quốc ngữ căn bản dạy ở trường phổ thông Chính quyền Diệm cũng chấm dứt việc nâng đỡ con em đồng bào dân tộc vào học Học Viện Quốc Gia Hành Chính, từ năm 1958-1963 không nhận một thanh niên Thượng nào vào học” (Nguyễn Văn Tiệp, 2013). Chính sách “Dân tộc hóa” của Ngô Đình Diệm áp dụng phương châm “Vì Thượng, bởi Thượng” bắt buộc cưỡng chế trên tất cả phương diện đã phản tác dụng gây ra mẫu thuẫn lớn giữa đồng bào người Thượng với người Kinh và chính quyền VNCH. Sai lầm trên tạo ra phong trào của đồng bào các dân tộc thiểu số đấu tranh chống thể chế chính quyền Ngô Đình Diệm, nguyên nhân thành lập Mặt trận giải phóng dân tộc Thượng năm 1955 sau này là mặt trận Bajaraka năm 1958. Trên phương thức hoạt động chủ trương của VNCH: nặng nề về giáo dục, nhẹ về trừng trị; dùng người Thượng lôi kéo người Thượng; thực hiện “vết dầu loang”, bắt đầu từ vùng thấp, lần đến vùng trung và vùng cao; luôn luôn lưu ý đến phong tục tập quán tính tình, trình độ trí thức của người Thượng; tiến chậm nhưng phải chắc chắn. Từ khi chính sách dân tộc của chính quyền Ngô Đình Diệm đã vấp phải nhiều phản đối của các dân tộc thiểu số, thực hiện “Dân tộc hóa” đặt ra những chính sách bắt buộc các dân tộc thiểu số phải tuân thủ và chịu sự kỳ thị, bất quyền lợi, bất bình đẳng trên nhiều phương diện đã dẫn tới mâu thuẫn giữa chính quyền VNCH với các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam. “Năm 1957, các trí thức Thượng gồm đủ các thành phần công chức, quân nhân đã âm thầm đứng ra thành lập phong trào Bajaraka (hợp nhất bởi tên của 4 dân tộc Thượng lớn là Bana, Jarai, Rhadé và Kaho) do ông Y Bham Enuôl làm chủ tịch” (Phạm Thúc Sơn, 2019) các đồng bào dân tộc thiểu số đưa ra những yêu cầu đòi hỏi quyền lợi chính đáng và yêu cầu chính quyền Ngô Đình Diệm phải tổ chức Đại hội đồng bào Thượng để giải quyết vấn đề mâu thuẫn nhưng bị chính quyền Ngô Đình Diệm mạnh tay bắt những người đứng đầu phong trào Bajaraka và luân chuyển cán bộ viên chức 98
  3. có liên quan đến vụ việc. Với sự phân hóa của phong trào Bajaraka dẫn tới “sự hình thành phong trào Fulro (Front unifié de lutte la race opprimée, viết tắt là Fulro) vào năm 1964” (Phạm Thúc Sơn, 2019) do Y Dhơn Adrơng và Les Kosem cầm đầu ở Buôn Sarpa. Chế độ Ngô Đình Diệm để lại những mớ hỗn độn trong chính sách dân tộc, tạo ra sự bất mãn giữa các dân tộc thiểu số đối với chính quyền VNCH, trong khi đó các chính phủ quân sự liên tiếp nhau bị đảo chính sự bất ổn là kẻ hở vấn đề dân tộc bị bất cấp. Chính phủ Nguyễn Khánh khi nắm quyền lưu tâm chính sách Thượng vụ. Nhằm xoa dịu mẫu thuẫn dân tộc, Nguyễn Khánh đã trả tự do các thủ lĩnh dân tộc trong phong trào Bajaraka do Ngô Đình Diệm bắt giam. Tổ chức các cuộc họp đồng bào dân tộc thiểu số nhằm đáp ứng các nguyện vọng và ý kiến thúc đẩy những mâu thuẫn đang dâng cao. Sự kiện ngày 20-9-1964, Mặt trận giải phóng Champa- Fulro tấn công buôn Sarpa và các trại lính, chiếm đài phát thanh Buôn Mê Thuột giết chết 35 binh lính, sĩ quan và đưa ra các yêu sách đối với chính quyền VNCH. Trước tình hình đó, chính phủ VNCH đã chấp nhận những yêu cầu và Thủ tướng Nguyễn Khánh đã đưa ra một số nhận định về lực lượng Fulro với nhận thức: “Nhận rõ mưu đồ chính trị của Mặt trận Chăm pa-Fulro đề xướng, Nguyễn Khánh yêu cầu các cấp lãnh đạo Việt Nam phải tìm cách giải thích cho người Thượng biết họ không có liên hệ gì với lịch sử Chăm pa và chính phủ chỉ công nhận Fulro một tổ chức có mục tiêu đấu tranh bảo vệ quyền lợi các dân tộc Cao Nguyên chứ không đòi quyền độc lập ở khu vực này và thuyết phục người Thượng không theo chân Y Bham Enuôl nhân vật được xem là nhà lãnh đạo bù nhìn cho Les Kosem tạo dựng để bảo vệ quyền lợi cho dân tộc Chăm mà thôi”(Nguyễn Văn Tiệp, 2013). Những can thiệp của Mỹ vào nội bộ tình hình VNCH đối với các dân tộc thiểu số ở miền Nam, khi Mỹ lại những mưu toan riêng nhằm thực hiện những chính sách đối với các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam, thông qua hỗ trợ cho Mặt trận giải phóng Cao Nguyên Chăm pa-Fulro: “Việc thành lập “Khu quân sự bất khả xâm phạm” dành riêng cho Fulro xuất phát từ quan niệm chống du kích của Mỹ nhằm ngăn chặn một cách hữu hiệu sự đột nhập của Cộng sản trên đất Cao Nguyên. Nhưng đề nghị này làm cho tướng Vĩnh Lộc bực mình và không đồng tình với kế hoạch này. Cho thấy Mỹ muốn các lực lượng dân tộc thiểu số ngã về Mỹ trong cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam nhằm chống lại lực lượng Quân giải phòng miền Nam ở các vủng rừng núi và nông thôn” (Nguyễn Văn Tiệp, 2013). Vấn đề dân tộc bức bách dẫn tới chính phủ Nguyễn Khánh phải tổ chức ngay Đại hội các sắc tộc Thượng tại Plâyku ngày 17-10-1964 đưa ra những điều kiện thỏa mãn yêu cầu của các dân tộc thiểu số. Thông điệp chính sách của chính phủ Nguyễn Khánh đối với đồng bào Thượng: “Trên địa hạt này, chính phủ sẽ cho thiết lập thêm nhiều lớp và trường Tiểu học, cũng xây cất thêm ký túc xá để con em đồng bào Thượng có đủ chỗ học hành. Ngoài ra, chính phủ khuyến khích và thêm học bổng cho con em đồng bào Thượng theo học các trường Trung và Đại học trong và ngoài nước tùy theo khả năng. Trong các kỳ thi lấy văn bằng hoặc nhập học các trường chuyên môn con em đồng bào Thượng sẽ được hưởng nhiều sự nâng đỡ. Và tại bậc Tiểu học, các thổ ngữ sẽ được đặc biệt dạy kèm với chương trình Việt ngữ” (Paul-Nưr, 1966). Về sau, chính sách Thượng vụ được thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ là Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương khẳng định chính sách trong giai đoạn Quân quản là Chính sách Dân tộc hòa đồng – Đồng tiến trong tinh thần Quốc gia thống nhất. 2.2 Chính sách giáo dục phổ thông của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam (1964-1967) Sau khủng hoảng chính trị, đến giai đoạn 1963-1967, chính sách giáo dục phổ thông ở 99
  4. miền Nam đối với các dân tộc thiểu số của chính phủ Quân quản bị ngắt quãng, có sự không thông nhất từ trung ương đến địa phương. Mỗi khu vực có sự chênh lệnh hoặc giảm sút nghiêm trọng. Nguyên nhân của hiện tượng trên chính là do chính quyền giải quyết vấn đề đối với người Thượng chưa thỏa đáng từ kinh tế, xã hội, đến văn hóa. Đặc biệt trong giáo dục khi vấn đề mâu thuẫn ưu tiên học bổng, chương trình dạy thổ ngữ, ký túc xá cho các học sinh dân tộc thiểu số và còn là nguyên nhân kì thị của chính sách “Dân tộc hóa” từ thời Ngô Đình Diệm để lại làm cho giáo dục đối với các dân tộc thiểu số ở miền Nam luôn có những vấn đề lớn. Khi chính quyền VNCH thực thi chính sách “Dân tộc hòa đồng - Đồng tiến” đã tiến hành thực hiện chương trình dạy thổ, mở các ký túc, tăng cường học bổng cho các học sinh dân tộc thiểu số và mở thêm các trường lớp cho người Thượng. Sự kiện ngày 20-9-1964, do lực lượng Fulro bạo động xảy ra ở trại dân sự chiến đấu Sarpa và chính quyền Quân quản đã ký nghị định số 1935/TTP/VP ngày 7-10-1964 đặt Nha đặc trách Thượng vụ thuộc Phủ Thủ tướng. Chính phủ Nguyễn Khánh tổ chức Đại hội các Sắc dân Thượng tại Pleiku đưa ra chính sách căn bản: Kinh Thượng đoàn kết và bình đẳng thật sự; Đặc biệt nâng đỡ đồng bào Thượng mau chóng tiến kịp đồng bào Kinh; Tôn trọng phong tục tập quán đồng bào Thượng. Về giáo dục được quy định cụ thể ở văn bản theo nguyện vọng của đồng bào Thượng như sau: “Mở thêm trường tiểu học, trung học, kỹ thuật và chuyên môn. Xây dựng các ký túc xá cho học sinh Thượng. Cho học tiếng mẹ đẻ kèm theo chương trình quốc ngữ đến bậc tiểu học. Nâng đỡ học sinh Thượng trong các kỳ thi và đặc ân cho các học sinh Thượng vào các trường chuyên môn đại học. Cho học sinh Thượng du học. Mở thêm các lớp đệ thất đặc biệt. Xúc tiến thêm chương trình bình dân giáo dục. Tiếp tục cấp học bổng cho học sinh Thượng. Thành lập hội bảo trợ sinh viên, học sinh Thượng” (Nguyễn Văn Tiệp, 2013). Trong giai đoạn bất ổn nhưng chính quyền Quân quản đã thực thi ban hành nhiều văn bản nhằm giải quyết vấn đề giáo dục cho học sinh DTTS “Quyết định 17-10-1964, Công văn số 4445/BTP/Hiv 24-4-1965, Công văn số 962/VHGD/PC ngày 24-5-1966. Ưu tiên tiến hành các công tác: xây dựng cất trường học, ký túc xá, tăng cường số lớp học và cấp phát học bổng” (Nguyễn Thanh Huy, 2019). Giải quyết vấn đề bức bách của các dân tộc thiểu số ở miền Nam do các phong trào Sắc tộc chống đối chính quyền VNCH diễn ra phức tạp. 2.2.1. Chương trình sách giáo khoa Chương trình dạy học thổ ngữ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa thông qua các văn kiện, văn bản được ban hành cho các học sinh DTTS ở miền Nam Việt Nam: Thông điệp của Thủ tướng Chính Phủ ngày 17-10-1964 tại Đại hội các Sắc tộc tại Pleiku ngày 15, 16 tới ngày 17-10-1964 về văn hóa giáo dục phổ thông có những điều khoản quy định cụ thể: “...tại bậc Tiểu học, các thổ ngữ sẽ được đặc biệt dạy kèm với chương trình Việt ngữ”. Thông tư số 474- GD/KH-1 ngày 28-10-1964 của Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa đưa ra biện pháp nâng đỡ học sinh Thượng trong điều khoản 7: “Cho phép học sinh Thượng học tiếng mẹ đẻ hết bậc Tiểu học kèm theo với chương trình quốc ngữ”. Sắc luật 033/67 quy định cụ thể: “tại bậc Tiểu học, thổ ngữ sẽ được dạy kèm với chương trình Việt ngữ và chương trình dạy thổ ngữ sẽ chú trọng đến phong tục tập quán của Sắc dân” (Yapha Ban Đoc-sư). Trong chương trình sách giáo khoa, chính quyền VNCH đã thực thi chính sách “Kể từ niên khóa 1965-1966 học sinh các dân tộc thiểu số được học tiếng mẹ đẻ ở bậc sơ học, kèm theo chương trình quốc ngữ. Viện chuyên khảo ngữ học, Bộ Giáo dục và ngành Thượng vụ đã phân phối 30.000 cuốn sách Thượng ngữ” (Nguyễn Văn Tiệp, 2013). Đẩy nhanh tiến độ nâng 100
  5. đỡ cho học sinh người Thượng “Xúc tiến thực hiện chương trình dạy thổ ngữ Thượng trong bậc Tiểu học, soạn thảo sách giáo khoa bằng Thượng ngữ cho học sinh Thượng” (Paul-Nưr, 1966). Chương trình giáo dục phổ thông ở lớp 1 và lớp 2 bậc Tiểu học được cụ thể học chữ thổ ngữ, thông qua các môn học sách giáo khoa: 1) Lớp một: Thổ ngữ, toán học, khoa học, vệ sinh, đức dục, Việt văn và Việt ngữ đàm thoại; hầu như tất cả các môn được giáo viên dạy bằng thổ ngữ và dùng sách song ngữ, ngoài trừ môn Việt ngữ đàm thoại dạy Việt ngữ và dùng sách Việt ngữ. 2) Lớp hai: môn Văn hóa Sắc tộc được dạy bằng thổ ngữ, dùng sách về phong tục và văn hóa bằng chữ thổ ngữ kèm theo với bản chữ Việt ngữ; môn toán học được dạy và sách giáo khoa bằng chữ Việt ngữ; các môn khác: khoa học, vệ sinh, đức dục, địa lý, sử học, Việt văn được dạy bằng Việt ngữ và dùng sách giáo khoa Việt ngữ với kèm theo chữ thổ ngữ. Chương trình giáo dục thổ ngữ ở lớp ba: những sách giáo khoa vẫn dạy song ngữ, dạy bài bằng tiếng Quốc ngữ nhiều hơn thổ ngữ. Ở lớp bốn và lớp năm, tất cả những môn học sách giáo khoa đều được dạy bằng chữ Quốc ngữ, trừ môn văn hóa và phong tục tập quán được dạy và chữ thổ ngữ. Chính quyền Quân quản trong giai đoạn này cũng soạn được 4 bộ sách giáo khoa thổ ngữ bằng 4 thổ ngữ: Jarai, Rlsadé, Koho và Bahnar. Liên tiếp mở 4 khóa tu nghiệp giáo viên các sắc tộc về phương pháp dạy thổ ngữ. Thực thi can thiệp xin áp dụng các sách giáo khoa thổ ngữ cho các lớp 6 bậc tiểu học. Chương trình dạy thổ ngữ tại địa phương được chính quyền VNCH chấp nhận “một ban khảo ngữ Thượng tại Kontum được thành lập để soạn thảo sách giáo khoa Thượng ngữ từ mẫu giáo đến hết bậc tiểu học. Chương trình dạy thổ ngữ Thượng đã được áp dụng cho niên khóa 67, 68 tại các vùng có đồng bào Rhadé, Jarai, Koho và Bahnar” (Lê Đình Chi, 1969). 2.2.2. Chính sách hỗ trợ học bổng Từ năm 1964 đến 1967, Nha Đặc trách Thượng vụ đã thực hiện cấp phát học bổng cho học sinh DTTS và hệ thống hóa việc cấp học bổng này Phủ Đặc Uỷ Thượng vụ ban hành thông tư ngày 14-9-1967 số 5110/ĐUTV/CT/1/A. Đối với chính sách cấp phát học bổng được chia theo tỷ lệ các học sinh DTTS cụ thể: “Thượng miền Nam: 70%; Thượng miền Bắc: 15%; Chàm: 15%” (Đỗ Văn Tú, 1973). Tức cấp tối đa học bổng cho một gia đình nếu có nhiều người cấp học bổng như người Thượng miền Nam được 2 học bổng, người Thượng miền Bắc và người Chàm được 1 học bổng. Trong chính sách hỗ trợ học bổng của chính quyền Quân quản bổ ngân sách xuống địa phương “Niên khóa 1965, 1966 đã cấp phát 248 học bổng trị giá 2.000.000$00” và “Niên khóa 1967, 1968 đã cấp phát 459 học bổng trị giá 6.112.400$00 và 10 học bổng đặc biệt cho các học sinh Régina Pacis trị giá 500.000$00” (Lê Đình Chi, 1969) cho học sinh DTTS. Chính sách thực thi quy định “miễn cho sinh viên học sinh khỏi phải đóng khoản tiền nào tại học đường và còn được cấp học bổng nếu hội đủ điều kiện” (Yapha Ban Đoc-sư, 1972) của chính quyền VNCH ban hành. Hỗ trợ học bổng cho học sinh các dân tộc thiểu số đã được ấn định tại văn thư số 3506- UBHP/TV/HC ngày 14-9-1965, sau khi được tra xét dự án và được sự thỏa thuận của Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Đông và Thiểm nha với một ngân sách là 900.000$00 nhằm mục đích nâng đỡ các học sinh dân tộc thiểu số nghèo hiếu học có phương tiện theo học các trường học trong niên khóa 1965-1966. Cấp phát học bổng trong niên khóa 1965-1966 cho các học sinh chủ yếu là học sinh người Chàm và học sinh người Thượng đang theo học các trường Trung học. Quy định học bổng của Văn hóa Á Đông: mỗi học bổng có hiệu lực trong thời gian 9 tháng, bắt đầu từ niên học và chấm dứt cuối niên khóa; mỗi học sinh người Thượng đang theo học Ban Trung học được cấp một học bổng hằng tháng “1.000$00, trong vòng 9 tháng (1.000$00 x 9 = 101
  6. 9.000$00)” (Văn thư số 3506-UBHP/TV/HC ngày 14.9.1965, Cơ quan Thiểm Nha Kon Tum). Học sinh người Thượng thi hỏng một năm được tái cấp học bổng năm thứ hai. Nếu trường hợp học sinh thi hỏng hai năm liên tục sẽ không được trợ cấp học bổng nữa. Với học sinh rời khỏi nhà trường sẽ bị gạch tên trong danh sách trợ cấp học bổng. Với những điều kiện xem xét để hỗ trợ cấp học bổng cụ thể như sau: Ưu tiên cho các học sinh dân tộc thiểu số nghèo, mồ côi cha mẹ, hiếu học không nơi nương tựa, cô nhi quả phụ. Những học sinh thuộc gia đình đông con, nghèo và hiếu học. Theo đó số học bổng được cấp cho mỗi tỉnh được phân phối 1.000$00/ 1 tháng: “Tỉnh Kontum:10, Pleiku:10, Phú Bổn:10, Đarlac:10, Quảng Đức:05, Lâm Đồng:05, Tuyên Đức:10, Ninh Thuận:10, Khánh Hòa:02, Quảng Ngãi:02, Bình Thuận:05, Quảng Trị:02, Phước Long:02, Long Khánh:02, Bình Tuy:02, Bình Long:02” (Văn thư số 3506-UBHP/TV/HC ngày 14.9.1965, Cơ quan Thiểm Nha Kon Tum). Nhằm khuyến khích sự học tập của các học sinh DTTS, chính quyền VNCH đã tài trợ bằng học bổng ngân sách quốc gia do BPTST và cơ quan khác hỗ trợ cấp theo niên khóa: “Niên học 1964-1965: Ngân sách Quốc gia cấp: 147 học bổng; Niên học 1965-1966: Ngân sách Quốc gia cấp: 150 học bổng, Cơ quan Văn hóa Á Châu cấp: 100 học bổng; Niên học 1966-1967: Ngân sách Quốc gia cấp: 300 học bổng, Cơ quan Văn hóa Á Châu cấp: 150 học bổng” (Đỗ Văn Tú, 1973). Lượng học bổng cấp cho học sinh DTTS ngày càng tăng do ngân sách quốc gia có sự hỗ trợ của Cơ quan Văn hóa Á Châu. Giai đoạn “Niên khóa 1967, 1968 đã cấp phát 436 học bổng Quốc gia và văn hóa Á Châu” (Lê Đình Chi, 1969) trợ cấp các học sinh DTTS. 2.2.3. Chính sách hỗ trợ ký túc xá Ngày 28-10-1964, Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành thông tư số 474/GD/KH-1 đã có những biện pháp nâng đỡ chính sách ký túc xá được cụ thể cho học sinh DTTS như sau: “Thiết lập thêm Ký túc xá tại những nơi đông học sinh Thượng, ưu tiên cho những học sinh lớp lớn (nhì, nhất…) và ở xa trường; Tổ chức tại các Ký túc xá 3 bữa ăn: sáng, trưa, chiều” (Đỗ Văn Tú; 1973). Năm 1965, chính quyền Quân quản đã cấp ngân sách “một ngân khoảng 41.500.000$ được dùng để xây cất, tu bổ ký túc xá ở An Lộc (Bình Long), Phước Bình, Đôn Luân, Đức Trọng và Bố Đức (Phước Long)” (Nguyễn Thanh Huy, 2019). Theo thống kê của BPTST, niên khóa 1964-1965 đến 1966-1967, số lượng ký túc xá từ 39 tăng lên 41 và số lượng học sinh trú 6.000 tăng 6.595 em. Kể từ niên khóa 1965-1966, Chính phủ VNCH đã áp dụng biện pháp nâng đỡ học sinh DTTS trong đó “Yểm trợ 30.000.000$00 để sửa chữa các Ký túc xá tại Cao Nguyên” (Paul-Nưr; 1966). Trong giai đoạn này Bộ Văn hóa Giáo dục đã tiếp nhận quản trị các ký túc xá các học sinh người Thượng “8 ký túc xá trung học; 39 ký túc xá tiểu học với ngân khoản đài thọ nội trú lên đến 43.550.000$00” (Lê Đình Chi, 1969). Ký túc xá Cao Nguyên Trung phần tại tỉnh Kontum có 5 ký túc xá cho các học sinh Tiểu học người Thượng hiện có 550 em học sinh Thượng do Bộ Văn hóa Giáo dục chăm non nuôi dưỡng và cấp phát các học phẩm. Uỷ ban Hành pháp Trung ương đưa ra các văn bản nhằm dự trù kinh phí giúp đỡ các đồng bào Sắc tộc như ký túc xá: Phan Chu Trinh, Đakto, Đaksut và ngoài ra 2 ký túc xá bị Việt Cộng quản lý vùng kiểm soát là Toumorong và Chương nghĩa. Theo thi hành công văn số 40-TĐCTXH/KT/HĐXH ngày 11-2-1965 của tỉnh đoàn công tác xã hội tỉnh Kontum hỗ trợ các học sinh người Thượng như ký túc xá Thượng Uyển (Quận lỵ Chương nghĩa), Toumorong (Quận lỵ Toumorong), Đaksut (Quận lỵ Đaksut), Đakto (Quận lỵ Đakto) và Phan Chu Trinh (Thị xã Kontum). Bao gồm giường ngủ, mùng, chiếu và quần áo hỗ trợ cho 102
  7. học sinh người Thượng ở ký túc xá với quy đổi qua kinh phí “Thượng Uyển (Quận lỵ Chương nghĩa): 31.500$00, Toumorong (Quận lỵ Toumorong): 28.300$00, Đaksut (Quận lỵ Đaksut): 80.350$00, Đakto (Quận lỵ Đakto): 83.550$00 và Phan Chu Trinh (Thị xã Kontum): 122.800$00” (Thi hành công văn số 40-TĐCTXH/KT/HĐXH ngày 11-2-1965, Tỉnh đoàn công tác xã hội Kon Tum). Ngoài ra, hỗ trợ cho trung tâm trẻ em người Thượng M’lon (Đà Lạt) với kinh phí 20.000$00 để mua sắm giường ngủ và bàn ghế học sinh. Về hỗ trợ ký túc xá cho học sinh DTTS, Phủ Đặc Uỷ Thượng vụ ban hành Sắc lệnh số 21-SL/HP/VP. Theo quyết định này Bộ Giáo dục VNCH đã gửi văn thư số 6387GĐ/KTNS/2 về chuyển giao nhiệm vụ cho các ký túc xá Trung Tiểu học và chuyên môn Thượng cho Phủ Đặc Ủy Thượng vụ quản trị chịu trách nhiệm. Ký túc xã học sinh DTTS ở Trung Nguyên Trung phần, Cao Nguyên Trung phần và miền Đông Nam phần được cụ thể: Bậc Trung học có 5 trường với 600 học sinh; Bậc Tiểu học có 35 trường với 5140 học sinh. Như vậy, tổng cộng có 40 ký túc xá ở các trường Tiểu học và Trung học với 5.800 học sinh dân tộc thiểu số, trong số đó chưa kể đến ký túc xá học sinh DTTS ở Huế với số lượng học sinh là 150 học sinh Tiểu học và Trung học. Thống kê số liệu về kinh phí để điều hành các ký túc xá học sinh DTTS ở các trường Tiểu học và Trung học được ghi chép chi tiêu từng khoản tài khoán năm 1966 cụ thể: “Kinh phí thực phẩm 29.440.000$00; Kinh phí Y phục 2.115.000$00” (Đỗ Văn Tú, 1973). 2.2.4. Chính sách tuyển sinh và chính sách về bằng cấp Chính quyền Nguyễn Khánh đáp ứng nguyện vọng của các đồng bào người Thượng tại Pleiku ngày 15, 16 và 17-10-1964 với đại diện các sắc tộc Thượng trong cuộc họp Đại hội sắc tộc Thượng. Trong điều khoản có vấn đề giáo dục tuyển sinh học sinh các dân tộc thiểu số có nêu rằng: “Nâng đỡ học sinh Thượng trong các kỳ thi và đặc ân cho học sinh Thượng vào các trường Chuyên môn, Đại học” (Paul-Nưr, 1966). Đối với biện pháp nâng đỡ các học sinh dân tộc thiểu số trong các kỳ thi tuyển các cấp dành tỷ lệ hay miễn thi nhập học tăng điểm để được chấm đậu các học sinh Thượng. Trong niên khóa 1965-1966, số lượng học sinh dân tộc thiểu số tăng nhanh do chính sách khuyến kích trong các kỳ thi tuyển “936 học sinh trung học và 21.470 học sinh tiểu học” (Nguyễn Văn Tiệp, 2013). Về chính sách bằng cấp đối với các học sinh dân tộc thiểu số được chính quyền Nguyễn Khánh phát biểu cam kết tạo điều kiện “Trong các kỳ thi lấy văn bằng hoặc nhập học các trường chuyên môn con em đồng bào Thượng sẽ được hưởng nhiều sự nâng đỡ” (Paul-Nưr, 1966). Trong quá trình thực hiện tuyển sinh cho các con em học sinh đồng bào Thượng như sau: Trong các kỳ thi lấy văn bằng các địa phương nâng đỡ xem xét từng cấp học để con em học sinh đồng bào Thượng có cơ hội có bằng cấp là giảm điều kiện yêu cầu văn bằng đối với các dân tộc thiểu số. Từ đó, tạo cơ sở điều kiện cho các học sinh dân tộc thiểu số được học tập lên cao ở các bậc học khác và trong các cơ sở việc làm yêu cầu văn bằng đối với học sinh đồng bào Thượng. 3. KẾT LUẬN Chính sách giáo dục phổ thông ở miền Nam tác động tới các dân tộc thiểu số, đã có tác động nhất định đối với các dân tộc thiểu số, làm cho tình hình giáo dục của người Thượng được cải thiện. Nhưng ảnh hưởng văn hóa giáo dục thực dân mới kiểu Mỹ làm thay đổi về mặt nhận thức, đời sống văn hóa và gia đình dân tộc thiểu số biến đổi sâu sắc, làm méo mó tư tưởng nhận thức sai lầm để lại hậu quả về sau. Làm cho một số trí thức dân tộc thiểu số phản đối lại những tác động chính sách 103
  8. giáo dục nhòi nhét và lạm dụng mục đích riêng của chính quyền VNCH. Đối với chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì chính sách giáo dục phổ thông đem lại hiệu quả cho các vấn đề làm giảm sự đối kháng của người Thượng và lợi dụng lòng tin của các đồng bào dân tộc thiểu số phục vụ các mục đích quyền lợi trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng lại không được sự ủng hộ của nhân sĩ trí thức học sinh sinh viên người Thượng phản đối, những phong trào đấu tranh đòi quyền lợi cho người Thượng làm ảnh hưởng tới các chính sách và mất quyền lợi của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Qua kinh nghiệm lịch sử ta thấy rằng giáo dục phổ thông có vai trò quan trọng đối Việt Nam là nơi đào tạo những nhân tài kiệt xuất giúp đất nước phát triển mạnh hay yếu là yếu tố quan trọng. Dựa trên chính sách giáo dục với chính sách dân tộc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa phục vụ cho những mục đích quyền lợi riêng trái với ý muốn của các các dân tộc thiểu số ở miền Nam bất mãn với chính quyền VNCH. Nhìn thấy rằng, chính sách giáo dục đó là chính sách thực dân mới âm mưu và thủ đoạn nô dịch hóa toàn bộ các dân tộc thiểu số ở miền Nam trở thành công cụ. Đại đa số quần chúng nhân dân và các dân tộc thiểu số ở miền Nam thấy chế độ Việt Nam Cộng hòa bản chất là tay sai đế quốc không thể đáp ứng nguyện vọng. Từ thực tế của việc thực hiện chính sách giáo dục phổ thông của chính quyền VNCH và sự thất bại của nó cho thấy: Việc đề ra chính sách đối với đồng bào các dân tộc phải xuất phát từ mục tiêu chính đáng, động cơ đúng đắn, vì cuộc sống ổn định, phát triển, tiến bộ của đồng bào, đem lại lợi ích chính đáng cho đồng bào các dân tộc thiểu số; Phải tôn trọng phong tục tập quán và dựa vào những đặc điểm kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số khi đề ra chính sách kinh tế - xã hội, nhất là chính sách giáo dục phổ thông. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Đình Chi (1969). Vấn đề đồng bào thiểu số tại Việt Nam. Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM. 2. Cửu Long Giang – Toan Ánh (1974). Việt Nam chí lược miền Thượng Cao Nguyên Quyển Thượng. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 3. Cửu Long Giang – Toan Ánh (1974). Việt Nam chí lược miền Thượng Cao Nguyên Quyển Hạ. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 4. Nguyễn Thanh Huy (2019). Cộng đồng người Stiêng ở miền Đông Nam Bộ thời Việt Nam Cộng hòa (1967-1975). Trường Đại học Thủ Dầu Một. Bình Dương. 5. Hồ sơ trợ cấp ngân khoản để trang bị ký túc xá, đóng tiền thực tập, bảo hiểm học đường, học bổng, mua quà, bánh đi đường cho học sinh Thượng năm 1965. Phông Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Hồ sơ số: 22032. Trung tâm lưu trữ Quốc gia II. 6. Ngô Minh Oanh (2018). Giáo dục phổ thông ở miền Nam (1954-1975). Nxb Tổng hợp TPHCM. 7. Paul-Nưr (1966). Về chính sách Thượng vụ trong Lịch sử Việt Nam. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 8. Phạm Thúc Sơn (2019). Chính sách của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với phong trào đấu tranh của Fulro (1958 – 1969). Tạp chí Xưa nay, số 505, 33-39. 9. Đỗ Văn Tú (1973). Vấn đề giáo dục sinh viên học sinh các Sắc tộc. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 10. Nguyễn Văn Tiệp (2013). Chính sách dân tộc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Tác động của nó đối với vấn đề dân tộc và Quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên (1954-1975). Đại học Quốc gia TPHCM. 11. Yapha Ban Đoc-sư (1972). Sinh hoạt đồng bào Chàm và những chánh sách liên hệ. Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM. 104
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2