intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế

Chia sẻ: Ho Xuan Kien | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

537
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài viết "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế" dưới đây để nắm bắt được quan niệm chung về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế. Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế

Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị  là <br /> mối quan hệ biện chứng. Nếu không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất  <br /> định sẽ không giữ vững được sự thống trị của mình và không thể hoàn thành được nhiệm vụ <br /> trong xây dựng kinh tế. Chính trị là kinh tế được cô đọng lại; kinh tế có mạnh mới bảo đảm <br /> cho nền chính trị ổn định. Quyền lực chính trị có thể tác động tới kinh tế theo ba cách thức:  <br /> thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế; thúc đẩy mặt này, kìm hãm mặt khác; kìm hãm sự <br /> phát triển kinh tế.<br /> 1 ­ Quan niệm chung về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị<br /> Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản nhất, trọng yếu nhất, bao  <br /> trùm nhất chi phối các quan hệ khác trong đời sống xã hội.C.Mác đã chỉ rõ: " Phương thức <br /> sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh <br /> thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, <br /> tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ". Cơ sở hạ tầng xã hội bao giờ cũng là  <br /> nhân tố cơ bản quyết định kiến trúc thượng tầng, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn  <br /> sự thay đổi kiến trúc thượng tầng cũng sẽ  diễn ra. Ông viết: "Cơ sở kinh tế  thay đổi thì <br /> toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng ". Sự biến <br /> đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là cả một quá trình hết  <br /> sức phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó, xét cho cùng là sự phát triển của lực lượng sản  <br /> xuất.<br /> Cơ sở hạ tầng với tư cách là kết cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra <br /> kiến trúc thượng tầng tương ứng, mà còn quy định cả tính chất của kiến trúc thượng tầng ­ <br /> giai cấp nào giữ địa vị thống trị xã hội về mặt kinh tế thì nó cũng chiếm địa vị thống trị trong  <br /> kiến trúc thượng tầng xã hội; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu <br /> thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu <br /> hiện của những mâu thuẫn đối kháng trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, toàn bộ  kiến trúc  <br /> thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành của nó có tính độc lập tương đối, có sự tác động  <br /> qua lại lẫn nhau và tác động mạnh mẽ trở lại đối với cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các yếu tố <br /> nhà nước, đảng phái chính trị. Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là  <br /> tích cực khi nó tác động cùng chiều với sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan đó,  <br /> còn ngược lại thì nó sẽ là trở lực, gây tác hại cho sự phát triển của sản xuất và xã hội.<br /> Mối quan hệ  giữa kinh tế  và chính trị  là mối quan hệ  xuyên suốt lịch sử  phát <br /> triển của xã hội có giai cấp, nó quy định sự  vận động, biến đổi của các xã hội đó . <br />  C.Mác đã nhận định: "Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người  <br /> ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một <br /> giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ <br /> đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi  <br /> tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử  nhân  <br /> loại". Như vậy, quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế có ảnh hưởng quyết định tới sự <br /> biến đổi của chính trị. <br /> Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ biện chứng.  Một mặt, chính trị <br /> phụ thuộc vào kinh tế, sự chuyển biến về chính trị gắn liền với sự chuyển biến về chế <br /> độ kinh tế. Theo C.Mác "chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại". Kinh tế mạnh mới bảo <br /> đảm cho nền chính trị ổn định. Mặt khác, chính trị tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh  <br /> tế và có địa vị hàng đầu do tính giai cấp, tính đảng của các hoạt động kinh tế trong các  <br /> chế độ xã hội có giai cấp. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị còn thể hiện ở <br /> chỗ: chúng có thể phù hợp với nhau hoặc cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Nếu sự thống  <br /> nhất, phù hợp giữa chúng tạo nên sự ổn định và phát triển xã hội thì sự không phù hợp giữa  <br /> chúng tạo nên sự bất ổn định, sự trì trệ, thậm chí còn là sự rối loạn xã hội. <br /> 2 ­ Vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế<br /> Trước hết, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua mối  <br /> quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. <br /> Vai trò của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nói chung có tác động hai mặt  <br /> của nó. Nếu kiến trúc thượng tầng có tác động thuận chiều cùng với sự vận động của những  <br /> quy luật kinh tế khách quan, thì kiến trúc thượng tầng sẽ có ảnh hưởng và vai trò tích cực  <br /> trong việc thúc đẩy sự phát triển ngày càng nhanh của kết cấu kinh tế ­ xã hội và ngược lại.<br /> Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác ­ Lê­nin đã phân tích về vai trò của chính trị đối với sự <br /> phát triển kinh tế như sau: "Tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển  <br /> kinh tế có thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng ­ khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh <br /> hơn; nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế ­ khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, <br /> nó sẽ tan vỡ sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là nó có thể cản trở sự phát triển kinh  <br /> tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng khác. Trường hợp này rốt  <br /> cuộc dẫn đến một trong hai trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và  <br /> thứ ba, quyền lực chính trị có thể gây tác hại lớn cho sự phát triển kinh tế và có thể gây ra sự <br /> lãng phí to lớn về sức lực và vật chất" (5). Ph.Ăng­ghen đã phân tích rõ vai trò và ảnh hưởng  <br /> của nhà nước thông qua hình tượng của bạo lực như sau: Sau khi bạo lực chính trị đã trở thành  <br /> độc lập đối với xã hội, sau khi đã từ đày tớ trở thành người chủ rồi, thì nó có thể tác động theo <br /> hai chiều hướng. Thứ nhất, nó tác động theo hai ý nghĩa và chiều hướng của sự phát triển kinh <br /> tế có tính quy luật. Như thế giữa bạo lực chính trị và sự phát triển kinh tế không có sự xung <br /> đột nào và sự phát triển kinh tế được đẩy mạnh hơn. Thứ hai, nó chống lại sự phát triển kinh <br /> tế và khi đó trừ một vài ngoại lệ ra, thường thường nó chịu sức ép của sự phát triển kinh tế.<br /> Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, vai trò quyết định thuộc về các quan hệ <br /> kinh tế như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, chính trị cũng có tính độc lập tương đối trong mối  <br /> quan hệ với kinh tế. Tính độc lập tương đối đó biểu hiện ra thông qua tác động trở lại của  <br /> chính trị đối với kinh tế. "Tất cả các chính phủ, ngay cả những chính phủ chuyên chế nhất... <br /> có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm sự phát triển kinh tế cùng với những hệ quả về chính trị và  <br /> pháp luật bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế ấy, song rút cục họ vẫn phải tuân theo sự phát <br /> triển ấy". <br /> Thứ hai, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế còn thể hiện trong mối quan  <br /> hệ giữa quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế.  Khi xem xét mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và  <br /> quyền lực chính trị C.Mác và Ph.Ăng­ghen đã chỉ ra rằng lợi ích kinh tế quy định quyền lực <br /> chính trị và một khi đã tồn tại như chính nó quyền lực chính trị lại tác động rất lớn đến kinh  <br /> tế. Tính quy định của lợi ích kinh tế  đối với quyền lực chính trị  được thể  hiện qua những  <br /> điểm sau. Một là, lợi ích kinh tế là sự phản ánh và biểu hiện trực tiếp của quan hệ sản xuất,  <br /> mà trong xã hội thì quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, chi phối các quan hệ xã hội còn lại, <br /> trong đó có quan hệ về tương quan lực lượng chính trị. Hai là, cơ sở và nội dung của quyền  <br /> lực chính trị là lợi ích kinh tế. Theo các nhà kinh điển mác­xít thì đằng sau những hành động  <br /> chính trị là sự thúc đẩy của lợi ích vật chất, để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực  <br /> chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần. Ba là, sự vận động, phát triển của lợi  <br /> ích kinh tế quy định sự phát triển và vận động của quyền lực chính trị. Song với tư cách là nhà  <br /> duy vật biện chứng, C.Mác không bao giờ  quan niệm mối quan hệ  giữa lợi ích kinh tế  và <br /> quyền lực chính trị là mối quan hệ một chiều. Hai nhân tố lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị <br /> luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau. C.Mác chỉ rõ rằng, quyền lực chính trị có thể tác động tới  <br /> kinh tế theo ba cách thức: thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế; thúc đẩy ở mặt này, kìm <br /> hãm ở mặt khác; kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ông kết luận "sự vận động của kinh tế chịu <br /> ảnh hưởng một bên là sự vận động của quyền lực nhà nước, còn một bên là của lực lượng  <br /> đối lập sinh ra đồng thời với quyền lực  ấy. Chính vì vậy, trong chính trị  vấn đề  quyền lực <br /> chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà nước) là một mục tiêu trọng tâm trực tiếp mà <br /> giai cấp nào, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm và chi phối. Vì nắm được quyền lực chính trị là  <br /> nắm được công cụ  cơ  bản, trọng yếu để  giải quyết quan hệ  lợi ích với các giai cấp khác,  <br /> nhóm xã hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình, nhóm xã hội mình. Do đó, tác động của <br /> chính trị đối với kinh tế thể hiện ở sự tác động của quyền lực chính trị đối với kinh tế.<br /> Thứ ba, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế thể hiện qua vai trò lãnh đạo <br /> của đảng chính trị đối với đời sống xã hội. Khi phân tích, nhận xét đánh giá về hệ quả của <br /> cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, các nhà kinh điển mác­xít đã đi đến kết luận rằng: Trong <br /> cuộc đấu tranh giai cấp  ấy nhất định sẽ  dẫn đến việc hình thành các đảng chính trị  và các <br /> đảng chính trị đó sẽ đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Đảng chính trị là tổ chức có  <br /> mục đích chính trị rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, tập hợp lôi cuốn quần chúng cùng hành động  <br /> chung để đạt mục đích đề ra. C.Mác đã chỉ ra rằng, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giành <br /> được quyền lực chính trị sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội. <br /> C.Mác và Ph.Ăng­ghen đã chỉ ra rằng, trong việc nhận thức và giải quyết quan hệ chính trị với  <br /> kinh tế, bên cạnh việc ý thức tới vị trí và lợi ích của giai cấp cầm quyền thì yêu cầu cơ bản, <br /> nền tảng trước hết mà đảng chính trị cầm quyền phải hướng tới là: quan hệ và sự tác động  <br /> của chính trị đối với kinh tế, phải vì mục tiêu phát triển sức sản xuất, phát triển xã hội, tạo ra <br /> những điều kiện vật chất của một xã hội mới. Đối với đảng chính trị tiến bộ là đại diện cho <br /> lợi ích của toàn thể  nhân dân lao động thì chủ  trương, đường lối chính sách phát triển đất <br /> nước của nó phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội, nên vai trò thúc đẩy xã hội tiến  <br /> lên là vô cùng to lớn. Đối với đảng chính trị phản tiến bộ thì vai trò của nó đối với xã hội chỉ là  <br /> sự kìm hãm. <br /> Do đó, đường lối, chủ trương, chính sách, các biện pháp chính trị của đảng cầm quyền  <br /> có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế. Như V.I. Lê­nin đã phân tích: "Trong một  <br /> nước tiểu nông... trao đổi... sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản,  <br /> một sự phát triển tư bản chủ nghĩa... tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển <br /> của sự trao đổi tư nhân... tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh được  <br /> khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng  <br /> nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể  nào  <br /> thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ <br /> bị phá sản". <br /> C.Mác đánh giá cao vai trò tích cực của Đảng của giai cấp vô sản đối với sự phát triển  <br /> xã hội nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Theo C.Mác, đảng của giai cấp vô sản lãnh <br /> đạo cuộc đấu tranh chính trị thực chất là lãnh đạo sự nghiệp giải phóng kinh tế. Trong điều lệ <br /> tạm thời của Hội liên hiệp công nhân quốc tế do C.Mác soạn thảo viết: "...việc giải phóng <br /> giai cấp công nhân về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong trào chính trị nào cũng  <br /> đều phải phục tùng với tư cách là một thủ đoạn"(8). Đảng của giai cấp vô sản luôn có đường <br /> lối, chính sách hợp lý. Cơ sở của đường lối, chính sách đấu tranh của chính đảng cách mạng <br /> của giai cấp vô sản là lợi ích cách mạng của giai cấp vô sản, đồng thời có tính toán một cách  <br /> khách quan đến tất cả mọi quan hệ xã hội. Nhờ có sách lược đúng đắn của đảng cộng sản đã  <br /> thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào quá trình phát triển xã hội nhằm  <br /> mục đích phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no cho nhân dân...<br /> Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lê­nin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính  <br /> trị, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thấy rõ vai trò to lớn của chính trị trong phát triển kinh tế, đã  <br /> vận dụng sáng tạo những quan điểm đó vào thực tế của Việt Nam. Đảng ta luôn đặt mối quan <br /> hệ giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ trọng tâm trong quá trình phát triển đất nước, giữ <br /> vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế, phát triển kinh tế để giữ vững ổn định chính trị đã <br /> trở  thành nguyên tắc trong quá trình Đảng lãnh đạo tiến trình cách mạng nước ta. Điều đó <br /> được thể hiện rõ nhất trong đường lối đổi mới của Đảng và thực tiễn qua hơn 20 năm đổi <br /> mới đất nước đã chứng minh điều đó./. <br /> * Đặc điểm mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay<br /> Từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và tiếp tục đổi mới hơn 20 năm qua, mối  <br /> quan hệ giữa kinh tế và chính trị ngày càng thể hiện tầm quan trọng của nó trong những thành <br /> tựu đổi mới cũng như trong những sai lầm, khuyết điểm đã vấp phải. Vì vậy, để chủ động <br /> giải quyết mối quan hệ này có hiệu quả cả về kinh tế và chính trị, cần thiết nhận rõ những <br /> đặc điểm của mối quan hệ này.<br /> 1 ­ Trước hết, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ giữa khách quan và  <br /> chủ quan.<br /> Mỗi hình thái kinh tế ­ xã hội vận động, phát triển dưới hình thức một phương thức <br /> sản xuất nhất định, bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Lực lượng  <br /> sản xuất trong kinh tế thị trường dựa trên nền tảng cơ sở kỹ thuật nhất định do đòi hỏi của  <br /> cạnh tranh. Ngày nay, sự phát triển của lực lượng sản xuất nhờ những tiến bộ và cách mạng  <br /> khoa học và công nghệ, nhờ sự phù hợp của thể chế kinh tế và quản lý. C. Mác coi đó là "quá <br /> trình lịch sử ­ tự nhiên". Những thời kỳ phồn vinh hay suy thoái kinh tế đều có chung nguồn  <br /> gốc từ mối quan hệ giữa yêu cầu của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và thể  chế <br /> quản lý. Đó là mối quan hệ giữa khách quan (kinh tế) và chủ  quan (chính trị) thể hiện trong <br /> suốt tiến trình đổi mới vừa qua.<br /> Trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) V.I. Lê­nin đã rút ra nguyên  <br /> lý về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính  <br /> trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế"(1).<br /> Nguyên lý đó chỉ rõ rằng: đường lối, chính sách phải phản ánh được nhu cầu và quy  <br /> luật kinh tế. Chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh tế có hiệu quả, mới <br /> giữ  được vai trò chính trị. Thực tiễn những thời kỳ sau này đã xác nhận tính đúng đắn của  <br /> nguyên lý ấy biểu hiện ở những thất bại của các đảng cầm quyền rơi vào chủ quan duy ý chí  <br /> trong lãnh đạo và quản lý kinh tế ­ xã hội.<br /> 2 ­ Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị còn là mối quan hệ giữa xã hội với chính trị <br /> Quá   trình   phát   triển   kinh   tế   thị   trường   tác   động   đến   phát   triển   xã   hội   từ   hai   mặt:<br /> Một là, sự phát triển phân công lao động xã hội dần dần làm thay đổi cơ cấu xã hội dân cư. Xã  <br /> hội Việt Nam sau hơn 20 năm chuyển sang kinh tế thị trường đã khác xã hội trước đổi mới về <br /> phân tầng xã hội và cơ cấu xã hội dân cư. Sự biến đổi này sẽ dẫn đến những thay đổi về yêu <br /> cầu việc làm và hưởng thụ, về nhân sinh quan, thế giới quan của xã hội, trước hết là thế hệ <br /> trẻ.<br /> Hai là, sự phát triển kinh tế sẽ dần dần làm thay đổi nhu cầu của dân cư về cơ cấu và  <br /> chất lượng sản phẩm. Do đó nó làm thay đổi mức sống và lối sống của dân cư, sự phát triển <br /> xã hội và cá nhân. Như vậy, sự phát triển kinh tế thị trường nảy sinh những đòi hỏi mới về <br /> mặt xã hội mà chính trị phải giải quyết.<br /> Do phân công lao động phát triển, nên xã hội dần dần được tổ chức thành các hội nghề <br /> nghiệp, đại biểu cho lợi ích và nguyện vọng của hội viên. Đó là xã hội dân sự, đóng góp ngày  <br /> càng tăng cho phát triển kinh tế  và  ổn định xã hội...  Ở  các nước phát triển kinh tế  thị <br /> trường, mối quan hệ  giữa chính trị  và xã hội thể  hiện  ở  mối quan hệ giữa nhà nước pháp <br /> quyền và xã hội dân sự. Đó là một trong ba trụ cột của nền dân chủ.<br /> Như vậy, mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị còn bao gồm cả mối quan hệ xã hội  <br /> với chính trị. Nếu chỉ quan tâm chạy theo tăng trưởng kinh tế một chiều, không đồng hành với  <br /> phát triển xã hội thì chính trị sẽ kìm hãm phát triển kinh tế và tạo ra nguy cơ mất ổn định xã  <br /> hội.<br /> 3 ­ Mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị ­ một khía cạnh ở chiều sâu của mối quan hệ <br /> kinh tế với chính trị.<br /> Kinh tế thị trường phát triển theo một quá trình xã hội hóa từ thấp lên cao. Vì vậy, sự <br /> phát triển kinh tế thị trường luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển nền văn hóa mới.  <br /> Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn đầu gắn liền với thời kỳ Văn hóa Phục hưng.  <br /> Quá trình phát triển sau này của kinh tế gắn liền với các cuộc cách mạng khoa học và công  <br /> nghệ, phát triển giáo dục, văn học ­ nghệ thuật. ở đâu không có những thành tựu về phát triển <br /> văn hóa thì ở đó chỉ là những thị trường hoang dại, đầy rẫy lừa đảo và tham nhũng, quan liêu.<br /> Sự phát triển văn hóa trong kinh tế thị trường hiện đại còn thể hiện ở hệ thống tiêu chí <br /> chất lượng trong cạnh tranh thị trường, làm cơ sở cho thể chế minh bạch, công khai và kiểm <br /> kê, kiểm soát các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể, giữa nhà nước với doanh nghiệp và người <br /> dân.<br /> Bước vào thế kỷ XXI, văn hóa ngày càng có ảnh hưởng nổi trội đối với phát triển và <br /> chính trị, thể hiện ngày càng nhiều trong các tiêu chí quy định sức cạnh tranh của doanh nghiệp  <br /> và quốc gia. Nét mới của tác động văn hóa không chỉ ở trình độ phát triển khoa học và công  <br /> nghệ, giáo dục và đào tạo, văn học và nghệ thuật mà còn ở sự phát triển hài hòa "mối quan hệ <br /> giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên". Chỉ  khi "mối quan hệ kép" đó <br /> phát triển đồng thời, thì bộ mặt Người của xã hội và cá nhân mới hiện lên đầy đủ. Với những  <br /> bước phát triển kinh tế tri thức, xu hướng tác động của văn hóa nói trên ngày càng hiện thực <br /> thông qua sự phát triển cạnh tranh kinh tế và đấu tranh chính trị. Chỉ sự phát triển đó mới có  <br /> tính chất bền vững. Sự phát triển như vậy bắt đầu từ  mỗi cá nhân trong xã hội. Chính phát <br /> hiện xu hướng này mà C. Mác đã dự báo xã hội tương lai là "xã hội mà sự phát triển tự do của <br /> mỗi   người   là   điều   kiện   cho   sự   phát   triển   tự   do   của   tất   cả   mọi   người".<br /> Xu hướng văn hóa ấy đang trở thành một sức ép lớn và ngày càng tăng trong cạnh tranh kinh tế <br /> (phải hướng tới nền "kinh tế xanh" (green economy) và trong chính trị  (hướng tới một nền  <br /> chính trị nhân văn). Sức mạnh văn hóa này đang là một đòi hỏi công bằng có tính chất toàn cầu  <br /> do những tệ nạn về xã hội và tàn phá môi trường đến mức độ nguy hiểm cho cả loài người.<br /> Sự phát triển của Việt Nam hiện nay cũng không thể ra ngoài xu hướng chủ đạo nói <br /> trên về kinh tế và chính trị. Sau hai thập kỷ cần thiết phải coi trọng tăng trưởng về số lượng,  <br /> nay đã đến lúc phải thay đổi định hướng cụ thể với mô hình phát triển bền vững. Trước thập  <br /> kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, cái cần nhất cho Việt Nam là một môi trường văn hóa nhân văn  <br /> trong quan hệ kinh tế và chính trị, trong mỗi người dân và người lãnh đạo để sử dụng vốn đầu <br /> tư và nguồn nhân lực theo hướng phát triển bền vững. Đó là hiện thực hóa định hướng xã hội <br /> chủ nghĩa.<br /> Những bài học kinh nghiệm của Việt Nam về nhận thức và vận dụng mối quan hệ <br /> giữa kinh tế với chính trị<br /> Thử thách lớn nhất đối với đảng cầm quyền trong thời bình xây dựng đất nước là nhận  <br /> thức và vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị phù hợp với những đặc điểm dân tộc <br /> và bối cảnh thời đại. Nhìn lại lịch sử  từ  năm 1975 đến nay, có thể  rút ra hai bài học kinh <br /> nghiệm   lớn   về   giải   quyết   mối   quan   hệ   giữa   kinh   tế   và <br /> chính trị.<br /> 1 ­ Giai đoạn 1975 – 1986<br /> Đây là thời kỳ chuyển từ  mối quan hệ giữa chính trị  với quân sự  sang quan hệ  giữa  <br /> chính trị với kinh tế. Đảng và Nhà nước đã bỏ nhiều công sức vào việc tìm tòi một chiến lược  <br /> kinh tế làm cơ sở cho việc thực hiện mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự quan tâm đó là đúng <br /> đắn. Nhưng lựa chọn mô hình kinh tế nào để thực hiện mục tiêu đó thì gặp nhiều khó khăn.  <br /> Mô hình kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào trì trệ, suy thoái dần, nhiều biến động <br /> chính trị phát sinh từ kinh tế, thậm chí rối loạn chính trị như ở Trung Quốc vào cuối thập kỷ <br /> 60, đầu thập kỷ 70. Cuối cùng thì Đảng lựa chọn chiến lược công hữu hóa, nhà nước hóa toàn  <br /> bộ lĩnh vực kinh tế thông qua cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng mô hình kinh tế 500 huyện, <br /> bỏ qua thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh lâu dài. Kết cục là kinh tế trì trệ và suy thoái, <br /> đời sống nhân dân nghèo nàn trong cơ chế bao cấp tràn lan, không được bảo đảm về nhu cầu y <br /> tế và giáo dục. <br /> Nguyên nhân thất bại trong thực hiện mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thời kỳ này  <br /> được   Đại   hội   VI   của   Đảng   chỉ   ra   một   cách   tổng   quát   là   bệnh   chủ   quan   duy   ý   chí.<br /> Đi sâu hơn về nguyên nhân thất bại thì thấy rõ đây là bài học chung của các đảng cộng sản  <br /> cầm quyền trong thế kỷ XX. Sai lầm này kéo dài nhiều thập kỷ kể từ sau khi V.I. Lê­nin mất  <br /> (năm 1924) và xóa bỏ NEP. V.I. Lê­nin từng phê phán sai lầm này, gọi đó là "bệnh ấu trĩ tả <br /> khuynh" của người cộng sản, không có gì giống với lý luận chủ nghĩa Mác coi sự phát triển  <br /> kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sẽ đi tới chủ  nghĩa xã hội là "một quá trình lịch sử ­ tự <br /> nhiên".<br /> Thành công bước đầu của công cuộc cải cách ở Trung Quốc (từ năm 1978) và đổi mới <br /> ở Việt Nam (từ năm 1986) đã xác định luận điểm khoa học của C. Mác. Ngay ở cuộc khủng  <br /> hoảng tài chính, kinh tế thế giới hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu và chính trị cũng phải "trở về <br /> với Mác" để tìm lối thoát.<br /> Bài học kinh nghiệm này của Việt Nam (cũng như của các nước khác) chỉ ra rằng: công <br /> tác lý luận, tư tưởng và tổ chức ­ cán bộ có tầm quan trọng quyết định đến chất lượng chính  <br /> trị. Chừng nào công tác này còn yếu kém thì chưa thể đặt mối quan hệ giữa chính trị với kinh  <br /> tế trên cơ sở khoa học và thực tiễn thời đại hiện nay.<br /> 2 ­ Giai đoạn đổi mới<br /> Mốc quan trọng trong nhận thức và đổi mới "mối quan hệ kinh tế với chính trị" là Đại  <br /> hội VI của Đảng (năm 1986). Những giá trị của Đại hội VI có ý nghĩa lâu dài trong công cuộc  <br /> đổi mới của Việt Nam. Những giá trị tiêu biểu nhất là:<br /> a ­ Để có quan điểm, tư tưởng chính trị  đúng cần "Nhìn thẳng vào sự  thật, nói rõ sự <br /> thật. Tôn trọng quy luật khách quan".<br /> Giá trị này đặt tầm nhìn chính trị vào thực tiễn (dân tộc và thời đại) đang vận động theo <br /> quy luật khách quan. Giá trị này là sự phê phán nghiêm khắc đối với khuynh hướng giáo điều  <br /> sách vở và cơ hội chính trị trong bộ máy cầm quyền.<br /> b ­ Thực tiễn cho thấy, Việt Nam cần chuyển sang kinh tế thị trường mới phát huy <br /> được nội lực, mới đồng hành với thời đại. Chuyển sang quỹ đạo kinh tế thị trường mới có cơ <br /> hội đi lên chủ nghĩa xã hội, khác với kinh tế nhà nước hóa chỉ tạo ra chủ nghĩa bình quân phổ <br /> biến đi đôi với đặc quyền đặc lợi của một nhóm người.<br /> c ­ Yêu cầu chính trị là lấy "nhiệm vụ phát triển kinh tế làm trung tâm". "Chính trị phải <br /> là biểu hiện tập trung của kinh tế (V.I. Lê­nin) chứ không phải chỉ là đồng thuận của số đông <br /> xa rời yêu cầu của quy luật kinh tế. Giá trị này của Đại hội cần được chi phối quyết định công <br /> tác tổ chức ­ cán bộ của Đảng. Bộ máy lãnh đạo, quản lý phải được cấu thành từ các nhân tài,  <br /> chuyên gia về kinh tế và chính trị, chứ không phải là quan hệ thân quen hay "đến hẹn lại lên"  <br /> trong các nấc thang quyền lực.<br /> d ­ Đại hội VI đề cao một nguyên tắc "đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới chính trị". Giá  <br /> trị này thể hiện tính hệ thống, tính phát triển của mối quan hệ kinh tế với chính trị. Thực tiễn <br /> quá trình đổi mới chỉ ra rằng: thời gian nào Đảng coi trọng và nghiêm túc thực hiện nguyên tắc <br /> trên thì đổi mới đạt chất lượng tốt, còn lúc nào nguyên tắc trên bị coi nhẹ thì tiềm ẩn nhiều <br /> vấn đề cả trong kinh tế và chính trị.<br /> Nhìn lại quá trình đổi mới, Đại hội VI là bước đi đặc biệt của sự  chuyển biến mối <br /> quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Tuy vậy, tính đa dạng, phong phú và phức tạp của kinh tế thị <br /> trường trong điều kiện hội nhập ngày càng đặt ra những thách thức mới. Để vượt qua thực tế <br /> hiện nay, mối quan hệ kinh tế với chính trị cần được nhận thức và vận dụng ở tầm cao hơn <br /> trước thực tiễn loài người đang tiến mạnh vào kinh tế tri thức và cuộc đấu tranh cho mô hình  <br /> phát triển bền vững.<br /> Những vấn đề chủ yếu và cơ  chế  giải quyết nâng cao mối quan hệ giữa kinh tế và  <br /> chính   trị<br /> Hiện nay, kinh tế nước ta đang đứng trước bước ngoặt với những thách thức và cần các giải  <br /> pháp sau đây:<br /> 1 ­ Phải chuyển từ quá trình phát triển về lượng (chỉ lo tăng trưởng) sang quá trình phát <br /> triển về  chất (thể  hiện  ở  trình độ  công nghệ  cao trong các doanh nghiệp, chất lượng sản  <br /> phẩm với thương hiệu Việt Nam, hình thành lực lượng lao động và lực lượng quản lý chuyên <br /> nghiệp trình độ cao v.v..).<br /> 2 ­ Sớm chuyển từ hướng phát triển phiến diện hiện nay (nhiều vấn đề xã hội và môi  <br /> trường nặng nề) sang định hướng phát triển đồng thuận giữa kinh tế  với xã hội và môi <br /> trường, gọi là phát triển bền vững vì sự phát triển con người và cộng đồng.<br /> 3 ­ Thúc đẩy hình thành tổ chức và thể chế Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì <br /> dân. Nên lưu ý rằng: chỉ  khi đi vào hướng kinh tế  phát triển bền vững và Nhà nước pháp  <br /> quyền có hiệu quả thì mới có nội hàm "định hướng xã hội chủ nghĩa" trên thực tế.<br /> 4 ­ Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, các hội trong thực hiện chiến lược phát  <br /> triển, nhằm thực hiện mục tiêu "nhân dân làm chủ" của Đảng đã đề ra.<br /> 5 ­ Tiền đề của việc thực hiện các giải pháp trên là một bước đổi mới tư duy kinh tế <br /> chính trị dựa trên vận dụng phép biện chứng giữa kinh tế và chính trị (nêu ở mục I). Đồng thời  <br /> đổi mới phương pháp lãnh đạo, quản lý theo phương pháp hệ thống, khắc phục tình trạng cục <br /> bộ, địa phương. Yêu cầu này phải bắt đầu từ quá trình đào tạo cán bộ cao cấp và từ công tác  <br /> tổ chức ­ cán bộ./.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0