TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 60 - 66<br />
<br />
CHỦ TRƢƠNG TIẾP NHẬN ĐỒNG BÀO MIỀN XUÔI THAM GIA<br />
PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN NÖI CỦA ĐẢNG BỘ KHU TÂY BẮC<br />
Bùi Mạnh Thắng8<br />
Trường Đại học Tây Bắc<br />
Tóm tắt: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960), Khu Tự trị Thái - Mèo<br />
là địa phương đầu tiên trên miền Bắc tổ chức tiếp nhận đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi.<br />
Bài viết tìm hiểu bối cảnh lịch sử và chủ trương tiếp nhận đồng bào miền xuôi của Đảng bộ Khu Tây Bắc.<br />
Từ khóa: chủ trương, đồng bào miền xuôi, kinh tế miền núi, Tây Bắc<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Khu Tự trị Thái - Mèo đƣợc thành lập ngày 7-5-1955, là địa bàn miền núi biên giới, đất<br />
rộng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, nhƣng lại gặp<br />
nhiều khó khăn, nhất là tình trạng thiếu hụt lực lƣợng lao động. Nhận thức rõ thực trạng đó,<br />
Đảng bộ Khu Tây Bắc đã chủ động tiếp thu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III về<br />
chủ trƣơng tổ chức đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi, khẩn trƣơng cụ<br />
thể hóa thành phƣơng hƣớng của Khu Tự trị.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Bối cảnh lịch sử hình thành chủ trương của Đảng bộ Khu Tây Bắc<br />
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) kết thúc thắng lợi, nƣớc Việt<br />
Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Trong tình hình mới, Trung ƣơng Đảng xác định phải<br />
củng cố vững chắc miền Bắc, đƣa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm chỗ dựa cho cuộc<br />
đấu tranh giải phóng miền Nam.<br />
Để củng cố miền Bắc, một nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với Đảng và Nhà nƣớc phải<br />
quan tâm tới sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa miền núi. Báo cáo chính trị tại Đại hội<br />
Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960) đã khẳng định: “Xây dựng miền núi chủ yếu và<br />
trước hết là một vấn đề kinh tế nhằm sử dụng những khả năng dồi dào của miền núi vào việc<br />
tăng cường sức mạnh kinh tế của cả miền Bắc nước ta và nâng cao mức sống của đồng bào<br />
các dân tộc thiểu số” [5]. Đồng thời, để khắc phục khó khăn của miền núi là tình trạng đất<br />
rộng ngƣời thƣa, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhƣng thiếu lực lƣợng lao động, Đại hội<br />
Đảng toàn quốc lần thứ III đã quyết nghị: “Phải phân bố hợp lý sức sản xuất ở đồng bằng,<br />
trung du và miền núi, điều chỉnh sức người giữa các vùng, quy hoạch từng bước các vùng<br />
kinh tế, thực hiện sự phân công phối hợp giữa các vùng kinh tế với nhau” [5]. Chủ trƣơng đó<br />
sẽ đƣợc tiến hành trong một thời gian dài, nhƣng phải bắt đầu với một tinh thần thật sự<br />
khẩn trƣơng.<br />
Ngày nhận bài: 8/5/2017. Ngày nhận đăng: 8/7/2017<br />
<br />
8<br />
<br />
Liên lạc: Bùi Mạnh Thắng, e - mail:buithangdhtb@gmail.com<br />
<br />
60<br />
<br />
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954), cùng với các địa phƣơng trên miền Bắc,<br />
toàn bộ khu Tây Bắc đƣợc giải phóng. Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội<br />
trong giai đoạn mới.<br />
Tuy nhiên, do hậu quả thống trị, bóc lột của đế quốc, phong kiến và sự tàn phá của<br />
chiến tranh, nên sau ngày hòa bình lập lại, Tây Bắc chìm trong cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Đời<br />
sống của đồng bào các dân tộc hết sức khó khăn. Tàn dƣ chế độ cũ cùng các hủ tục lạc hậu<br />
còn ảnh hƣởng nặng nề trong đời sống nhân dân. Do có vị trí chiến lƣợc quan trọng, lực lƣợng<br />
thổ phỉ, biệt kích thám báo cùng các phần tử phản động điên cuồng chống phá cơ sở Đảng,<br />
chính quyền ở Tây Bắc. Trong khi đó, chính quyền cơ sở ở Tây Bắc còn rất non yếu, thiếu cán<br />
bộ cốt cán, nhất là cán bộ ngƣời dân tộc. Cá biệt, ở một số địa phƣơng biên giới, chính quyền<br />
cơ sở non yếu đến mức không có khả năng tổ chức và lãnh đạo nhân dân phát triển sản xuất,<br />
xây dựng cuộc sống, ổn định xã hội. Đó là một nguy cơ mới đối với Tây Bắc.<br />
Trƣớc tình hình trên, ngay sau khi hòa bình lập lại, Đảng, Chính phủ khẩn trƣơng thực<br />
hiện các biện pháp “cứu đói”, “cứu rách” đối với đồng bào Tây Bắc, huy động quân đội tiễu<br />
trừ thổ phỉ, tiêu diệt các toán biệt kích thám báo, củng cố chính quyền cơ sở, giữ vững an ninh<br />
chính trị; mặt khác, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ để nâng cao nhận thức trong<br />
đồng bào.<br />
Ngày 28-9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về việc thành lập Khu Tự trị Thái - Mèo và<br />
vận động đồng bào các dân tộc thực hiện. Ngày 29-4-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc<br />
lệnh số 230/SL thành lập Khu Tự trị Thái - Mèo. Đến ngày 7-5-1955, Hội đồng nhân dân Khu<br />
họp kỳ đầu tiên, công bố Sắc lệnh thành lập Khu Tự trị.<br />
Khu Tự trị Thái - Mèo là một bộ phận trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, một đơn vị<br />
hành chính của Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thời điểm thành lập, Khu Tự trị gồm 16<br />
châu (Mƣờng Tè, Mƣờng Lay, Sình Hồ, Điện Biên, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Tuần Giáo, Thuận<br />
Châu, Mƣờng La, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu, Phù Yên, Phong Thổ, Than Uyên, Văn<br />
Chấn), đến tháng 10-1955, lập thêm 2 châu Tủa Chùa và Mù Cang Chải, tổng cộng có 18<br />
châu. Thời kỳ 1955 - 1962, Khu Tự trị không có cấp tỉnh, hệ thống hành chính gồm 3 cấp:<br />
Khu - châu - xã. Ngày 27-10-1962, Quốc hội Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua<br />
Nghị quyết đổi tên Khu Tự trị Thái - Mèo thành Khu Tự trị Tây Bắc và thành lập ba tỉnh<br />
thuộc khu, bao gồm: Lai Châu, Sơn La và Nghĩa Lộ; đổi cấp châu thành cấp huyện. Hệ thống<br />
hành chính của Khu từ cuối năm 1962 gồm có 4 cấp: Khu - tỉnh - huyện - xã.<br />
Khu Tự trị Thái - Mèo có diện tích 36.759 km2 với tài nguyên thiên nhiên phong phú.<br />
Nhà báo Hữu Thọ đã miêu tả: “Đất đai Tây Bắc rộng. Dân số Tây Bắc có 44 vạn người nhưng<br />
rộng tới 3 vạn 6 nghìn cây số vuông, nơi thưa thớt dân cư nhất miền Bắc. Đất đai trồng trọt ở<br />
Tây Bắc mới chiếm khoảng 3% diện tích cả khu. Số đất còn lại, trừ một số núi đá không nhiều<br />
lắm, còn đều có thể sử dụng để trồng trọt... Tây Bắc có nhiều đất hoang chưa khai phá. Mới<br />
chỉ tính ở một số huyện thì đất hoang có thể khai phá trồng trọt đã được 59.000 mẫu tây...”<br />
[8;9]. Có thể thấy, tiềm năng của Khu Tự trị Thái - Mèo là rất lớn. Nhƣng việc phát triển kinh<br />
tế - xã hội của Khu Tự trị trong những năm đầu thập kỷ 60 khi bƣớc vào thời kỳ cách mạng xã<br />
hội chủ nghĩa gặp nhiều khó khăn, trong đó, khó khăn lớn nhất là tình trạng thiếu hụt lực<br />
61<br />
<br />
lƣợng lao động. Mặc dù chiếm tới 1/5 diện tích toàn miền Bắc nhƣng dân số của Khu Tự trị<br />
chƣa bằng một nửa dân số tỉnh Hƣng Yên và chỉ bằng một phần ba dân số tỉnh Thái Bình<br />
[4;5]. Kết quả điều tra dân số năm 1960 cũng khẳng định: Khu Tự trị Thái - Mèo là khu vực<br />
đất rộng, ngƣời thƣa nhất trên miền Bắc. Báo cáo phân tích số liệu điều tra dân số năm 1960<br />
của Khu Tự trị Thái - Mèo chỉ rõ: “Mật độ dân số chung là 12 người trên 1 km2… Tình hình<br />
đó rất là khó khăn, không nói so sánh với miền xuôi như Thái Bình, Nam Định trên 800 người<br />
1 km2, nhưng nếu so với các tỉnh miền núi khác như Bắc Cạn 17 người 1 km2, Cao Bằng 29<br />
người 1 km2, Lạng Sơn 42 người 1 km2, Hà Giang 24 người 1 km2 thì cũng thấy được vấn đề<br />
một cách rõ rệt và cũng thấy cần thiết phải xóa bỏ tình trạng đó” [7].<br />
Nhận thức rõ thực trạng nêu trên và thấy đƣợc sự “cần thiết phải xóa bỏ tình trạng đó”,<br />
cấp ủy Đảng và chính quyền Khu Tự trị Thái - Mèo đã sớm đề ra hƣớng giải quyết: “cần thiết<br />
phải tăng thêm lực lượng sản xuất, tăng thêm nhiều nhân lực để không những đảm bảo khai<br />
thác, đẩy mạnh sản xuất mà còn củng cố quốc phòng, xây dựng xã hội chủ nghĩa ở khu ta tiến<br />
nhanh hơn nữa” [7]. Đó là nhận thức kịp thời, là định hƣớng đƣợc hình thành sớm, phù hợp<br />
với chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng.<br />
2.2. Chủ trương tiếp nhận đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi của<br />
Đảng bộ Khu Tây Bắc<br />
Ngay sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, tháng 11-1960, tỉnh Hƣng Yên đã cử đoàn<br />
cán bộ lên Khu Tự trị Thái - Mèo thực hiện thăm dò, điều tra địa điểm và xây dựng kế hoạch<br />
để tổ chức đồng bào tham gia phát triển kinh tế miền núi. Theo dự kiến, đợt điều chỉnh nhân<br />
lực đầu tiên của tỉnh Hƣng Yên gồm 900 đồng bào sẽ lên tới Khu Tự trị vào tháng 12-1960.<br />
Sau khi xin ý kiến của Trung ƣơng và Khu ủy Tây Bắc Tỉnh ủy Hƣng Yên đã nhất trí bố trí<br />
đồng bào tập trung vào khu vực từ Nà Sản đến Ngã ba Mai Sơn để thuận lợi cho công tác chỉ<br />
đạo. Đây là đợt thí điểm đầu tiên thực hiện chủ trƣơng tổ chức đồng bào miền xuôi tham gia<br />
phát triển kinh tế miền núi nên Ban Chấp hành Khu ủy Tây Bắc xác định phải đặc biệt chú<br />
trọng công tác tuyên truyền giáo dục nhằm gây đƣợc ảnh hƣởng chính trị tốt, tạo điều kiện<br />
thuận lợi cho những đợt bổ sung nhân lực tiếp theo.<br />
Ngày 5-12-1960, Ban Tuyên huấn Khu ủy Tây Bắc ban hành Kế hoạch số 86/HC-TH<br />
tuyên truyền giáo dục về việc điều chỉnh nhân lực xây dựng mở mang khu tự trị tiến lên chủ<br />
nghĩa xã hội. Bản kế hoạch nêu rõ mục đích, ý nghĩa của việc điều chỉnh nhân lực từ miền<br />
xuôi lên Khu Tự trị, trong đó nhấn mạnh: “Việc điều chỉnh nhân lực ở miền xuôi lên khu ta<br />
xuất phát từ yêu cầu xây dựng mở mang Khu Tự trị để nâng cao không ngừng mức sống cho<br />
đồng bào các dân tộc; đồng thời cũng xuất phát từ yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền<br />
Bắc để làm cơ sở đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà” [3].<br />
Kế hoạch dự báo những diễn biến tƣ tƣởng xung quanh việc điều chỉnh nhân lực lên<br />
Khu Tự trị, nêu rõ 4 thuận lợi căn bản: Nhân dân các dân tộc sẵn có truyền thống đoàn kết; có<br />
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III soi sáng và cổ vũ; nhân dân các dân tộc căn<br />
bản đã đƣợc giác ngộ xã hội chủ nghĩa đến mức độ nhất định; nhân lực điều chỉnh đợt đầu<br />
tiên đã đƣợc thử thách và rèn luyện trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Cùng với đó,<br />
62<br />
<br />
kế hoạch cũng xác định rõ những khó khăn phải giải quyết: Trình độ nhận thức của nhân dân<br />
các dân tộc còn hạn chế; ảnh hƣởng của những va chạm, xích mích dân tộc do bọn đế quốc<br />
phong kiến reo rắc và để lại vẫn còn; hoạt động phản tuyên truyền của các thế lực phản động,<br />
cùng với quan điểm tƣ hữu cục bộ của ngƣời nông dân có thể nảy sinh những biểu hiện của tƣ<br />
tƣởng dân tộc hẹp hòi và tƣ tƣởng dân tộc lớn đối với cả đồng bào địa phƣơng và đồng bào<br />
miền xuôi lên Tây Bắc. Trên cơ sở đó, Kế hoạch xác định yêu cầu của công tác tuyên truyền<br />
giáo dục, trƣớc hết phải làm cho nhân dân nhận thức rõ ý nghĩa, mục đích của việc bổ sung<br />
nhân lực, từ đó, nâng cao một bƣớc giác ngộ xã hội chủ nghĩa, phấn khởi chấp hành chủ<br />
trƣơng của Đảng, vui mừng tiếp đón đồng bào miền xuôi, giúp đỡ nhau thực hiện nhiệm vụ<br />
chung, đấu tranh chống mọi biểu hiện tƣ tƣởng dân tộc hẹp hòi và dân tộc lớn, tăng cƣờng<br />
tinh thần đoàn kết dân tộc.<br />
Kế hoạch nêu rõ nội dung tuyên truyền là giáo dục sâu rộng ý nghĩa của việc điều chỉnh<br />
nhân lực (sự cần thiết của việc điều chỉnh nhân lực; sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đối<br />
với sự phát triển của miền núi và các dân tộc thiểu số); nâng cao nhiệt tình yêu nƣớc và giác<br />
ngộ xã hội chủ nghĩa. Đối với đồng bào các dân tộc, phải giúp họ thấy đƣợc tiền đồ phát triển<br />
của Khu Tự trị và nhiệm vụ đoàn kết giúp đỡ đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế<br />
miền núi. Đối với đồng bào miền xuôi, cần giáo dục chính sách dân tộc của Đảng để có quan<br />
niệm và thái độ đúng đắn với đồng bào miền núi; phổ biến những điều cần thiết về phong tục<br />
tập quán, những thuận lợi và khó khăn, truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân các<br />
dân tộc trong Khu Tự trị; giáo dục truyền thống anh hùng, tự lực cánh sinh để nâng cao tinh<br />
thần chịu đựng gian khổ, sẵn sàng vƣợt qua những khó khăn ban đầu, phấn đấu hoàn thành<br />
nhiệm vụ.<br />
Kế hoạch chỉ rõ những biện pháp để thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục, trong đó<br />
nhấn mạnh: Đảng chỉ đạo chặt chẽ từ khu đến các châu. Riêng với 3 châu (Mƣờng La, Mai<br />
Sơn, Thuận Châu), nhất là các xã bản xung quanh nơi tiếp nhận nhân lực đợt đầu tiên, cần cử<br />
cán bộ xuống tận nơi để tổ chức tuyên truyền giáo dục bằng hình thức học tập, trao đổi, mạn<br />
đàm rộng rãi. Tích cực chuẩn bị những điều kiện để đón tiếp, giúp đỡ đồng bào mới lên; tổ<br />
chức tốt việc đón tiếp từ khâu chuẩn bị khẩu hiệu hoan nghênh, thăm hỏi động viên khi đồng<br />
bào dừng chân nghỉ ngơi, chuẩn bị tốt các điều kiện giúp đỡ đồng bào tại nơi đến; phối hợp tổ<br />
chức liên hoan văn nghệ nếu có điều kiện; tổ chức kết nghĩa giữa đồng bào miền xuôi với<br />
đồng bào địa phƣơng.<br />
Ngay sau kế hoạch của Ban Tuyên huấn, ngày 26-12-1960, Ban Chấp hành Khu ủy Tây<br />
Bắc ban hành Nghị quyết số 18/NQ-TB về Đề án điều chỉnh nhân lực miền xuôi lên góp phần<br />
củng cố, mở mang Khu Tự trị. Nghị quyết khẳng định điều chỉnh nhân lực là yêu cầu khách<br />
quan của miền Bắc trong thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội, là một công tác vận động và tổ<br />
chức quy mô lớn để chấp hành chính sách dân tộc của Đảng trong giai đoạn mới. Chủ trƣơng<br />
điều chỉnh nhân lực miền xuôi lên Khu Tự trị Thái - Mèo là: “trong một thời gian nhất định<br />
phải tiếp thu từng bước với tinh thần vững chắc nhưng mạnh dạn, tích cực một lực lượng lớn<br />
khoảng nửa triệu người. Trong năm 1961, dự định sẽ đưa lên từ 15.000 đến 20.000 người...<br />
số nhân lực tăng thêm cho Khu ta trong thời gian tới sẽ nhằm chủ yếu góp phần ra sức phát<br />
63<br />
<br />
triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, đồng thời phát triển công nghiệp địa phương” [1;6].<br />
Nghị quyết xác định rõ phƣơng hƣớng tổ chức: “Ngay từ lúc đầu nhân dân miền xuôi lên đi<br />
thẳng vào thành lập các hợp tác xã nông nghiệp cấp cao dựa trên cơ sở công hữu toàn bộ tư<br />
liệu sản xuất (đất cửa nhà nước, nông cụ, trâu bò, thóc giống, tiền vốn... do các hợp tác xã<br />
miền xuôi cấp vốn hoặc do nhà nước cho vay rồi trả dần). Các hợp tác xã này sẽ kinh doanh<br />
nhiều mặt: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủ công nghiệp, góp phần vào sự phát triển<br />
kinh tế địa phương” [1].<br />
Nhiệm vụ của các hợp tác xã miền xuôi là sản xuất và cung cấp sản phẩm nông nghiệp,<br />
thủ công nghiệp cho địa phƣơng; tích lũy vốn mở rộng tái sản xuất đi đôi với cải thiện từng<br />
bƣớc đời sống cho xã viên; đoàn kết chặt chẽ với các hợp tác xã và nhân dân địa phƣơng, hỗ<br />
trợ lẫn nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Các hợp tác xã khai hoang của đồng bào miền xuôi<br />
cần nắm vững phƣơng châm: “Trên cơ sở nâng cao nhiệt tình yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội<br />
và tình đoàn kết giữa các dân tộc, tiến hành phải khẩn trương tích cực nhưng chắc chắn, lấy<br />
tự lực cánh sinh là chính đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, từ quy mô<br />
nhỏ đến quy mô lớn, nơi dễ làm trước, nơi khó làm sau, kinh doanh nhiều mặt, lấy ngắn nuôi<br />
dài, lực lượng lên trước chuẩn bị cơ sở cho lực lượng lên sau” [1].<br />
Nghị quyết chỉ rõ nguyên tắc triển khai các hợp tác xã của nhân dân miền xuôi là: Nơi<br />
dễ làm trƣớc, nơi khó làm sau, gần đƣờng giao thông làm trƣớc, các vùng sâu làm sau, bảo<br />
đảm chắc thắng bƣớc đầu để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở sản xuất, từ đó,<br />
mở rộng diện tích ra những nơi xa, sâu, trong toàn Khu. Đồng thời, cần có sự điều hòa thích<br />
đáng với kế hoạch mở rộng của các nông trƣờng quốc doanh để vừa tiện cho việc khai hoang<br />
của đồng bào, vừa không cản trở việc thực hiện quy hoạch của các nông trƣờng. Khu vực bố<br />
trí bƣớc đầu cho các hợp tác xã miền xuôi là một số châu dọc đƣờng cái tƣơng đối gần sự chỉ<br />
đạo, sau sẽ dần mở rộng ra toàn Khu.<br />
Những nội dung nêu trên là phác thảo ban đầu của Đảng bộ Khu Tây Bắc hƣởng ứng<br />
chủ trƣơng tổ chức đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi của Trung ƣơng<br />
Đảng, mở ra khả năng và cơ sở tiếp nhận đồng bào miền xuôi lên khai hoang, tổ chức sản<br />
xuất, xây dựng và phát triển Khu Tự trị.<br />
Ngày 14-11-1961, Hội nghị Ban Chấp hành Khu ủy Tây Bắc ban hành Nghị quyết số<br />
11-NQ/TB về vấn đề phát triển nông lâm nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 1965). Về phƣơng hƣớng tổ chức và hoạt động của các cơ sở khai hoang của đồng bào miền<br />
xuôi, Nghị quyết khẳng định: “Khai hoang sẽ làm ở vùng thấp, nơi gần dễ làm trước, sau sẽ<br />
làm ở vùng cao, nơi xa. Về đơn vị tổ chức, tùy theo quy mô của hợp tác xã, có thể tổ chức<br />
thành một xã mới hoặc thành một bản của một xã; nơi nào hợp tác xã địa phương đã lên quy<br />
mô tương đối lớn và củng cố tốt, chi bộ lãnh đạo vững, trình độ giác ngộ của quần chúng xã<br />
viên khá và yêu cầu nhân lực thì có thể tiến hành điều chỉnh thẳng vào các hợp tác xã địa<br />
phương. Chú trọng bố trí xen kẽ lực lượng khai hoang với hợp tác xã địa phương cho liền cư,<br />
liền canh để tạo điều kiện sau này mở rộng quy mô hợp tác xã, lợi cho phát triển sản xuất và<br />
đoàn kết dân tộc” [6;799].<br />
64<br />
<br />