intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chương 3: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG

Chia sẻ: Bui Huyen Dieu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:43

759
lượt xem
63
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu lịch sử địa phương để thấy được những đóng góp cụ thể của nhân dân các địa phương trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. - Nghiên cứu lịch sử địa phương góp phần giáo dục các thế hệ sau tình yêu đối với quê hương đất nước, với dân tộc, lòng kính trọng đối với tổ tiên và các thế hệ đi trước. Người học tự hào với lịch sử quê hương qua đó cũng thấy được trách nhiệm của mình với địa phương, với dân tộc, với tổ tiên và các thế hệ mai...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chương 3: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG

  1. Chương 3: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG 1.1. Tầm quan trọng của việc tìm hiểu lịch sử địa phương - Nghiên cứu lịch sử địa phương để thấy được những đóng góp cụ th ể của nhân dân các địa phương trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. - Nghiên cứu lịch sử địa phương góp phần giáo dục các th ế hệ sau tình yêu đ ối với quê hương đất nước, với dân tộc, lòng kính trọng đối với tổ tiên và các thế hệ đi trước. Người học tự hào với lịch sử quê hương qua đó cũng thấy được trách nhiệm của mình với địa phương, với dân tộc, với tổ tiên và các thế hệ mai sau. 1.2. Khái lược lịch sử khu vực Bắc Trung Bộ - Đối tượng nghiên cứu của lịch sử Bắc Trung Bộ là các thời kỳ lịch sử của Bắc Trung Bộ. Theo quan điểm lôgíc và quan điểm lịch sử, các thời kỳ này được phân chia về mặt thời gian, tương ứng với các thời kỳ lịch sử dân tộc Việt Nam. Nội dung nghiên cứu là các vấn đề chung về lịch sử Bắc Trung Bộ: sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử... - Các thời kỳ lịch sử được phân chia thành các mốc quan trọng sau: Thời ti ền sử và sơ sử; Thời Bắc thuộc; Thời kỳ độc lập tự chủ (từ năm 905 đến năm 1858); thời kỳ từ 1858 đến 1945; Thời kỳ từ năm 1945 đến nay. - Trong tiến trình của lịch sử dân tộc, khu vực B ắc Trung Bộ cùng v ới các khu vực khác luôn diễn ra các sự kiện lịch sử tiêu biểu, mang ý nghĩa toàn dân tộc. Bên cạnh đó, khu vực này cũng sản sinh ra những anh hùng dân tộc, những chiến sĩ yêu nước và cách mạng có nhiều đóng góp cho lịch sử dân t ộc. Trong đó, khu v ực Thanh - Nghệ - Tĩnh có phần đóng góp xứng đáng hơn cả. 1.3. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong tiến trình lịch sử dân tộc 1.3.1. Thanh - Nghệ - Tĩnh thời tiền sử và sơ sử * Thời tiền sử: -1-
  2. Ngay từ rất sớm, người nguyên thuỷ đã xuất hiện và sinh sống ở địa bàn các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh. 1. Khảo cổ học đã phát hiện được nhiều công cụ chặt thô sơ của người vượn ở Núi Đọ, Quan Yên, Núi Nuông (Thanh Hoá)... Trong đó, người vượn ở Núi Đ ọ dần dần đạt tới hình thức xã hội tiền thị tộc (có niên đại cách ngày nay khoảng 30 đến 20 vạn năm). Dấu vết người nguyên thủy cũng được tìm thấy ở hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu - Nghệ An). Phát hiện dấu tích người vượn ở Thẩm Ồm chứng tỏ Nghệ An đã có mặt cùng cả nước từ thuở bình minh xa xưa của lịch sử dân tộc. 2. Dấu tích của văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn cũng được tìm thấy khá dày đặc ở đất Thanh Hóa, Nghệ An. Điều này chứng tỏ quá trình đ ịnh cư liên t ục c ủa người nguyên thủy ở Thanh Hóa, Nghệ An từ thời đại đá cũ sang thời đại đá mới. - Văn hóa Sơn Vi (có niên đại cách ngày nay 30.000 đ ến 11.000 năm) đ ược tìm thấy ở hang núi Một (Cẩm Thủy - Thanh Hóa); mái đá Điều, mái đá Nước, hang Anh Rồ (Bá Thước – Thanh Hóa); hang Con Moong (Th ạch Thành – Thanh Hóa); đồi Dùng, đồi Rạng (Thanh Chương – Nghệ An)… - Văn hóa Hòa Bình (có niên đại cách ngày nay 11.000 năm) được tìm th ấy t ại 31 di chỉ ở khắp các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa và trong các hang núi đá vôi ở các huyện Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương, Tân Kỳ, Quỳ Châu (Ngh ệ An). Thời kỳ này, con người đã biết nấu chín thức ăn, định cư một thời gian dài, s ống trong chế độ công xã thị tộc mẫu hệ, bắt đầu có trồng trọt và chăn nuôi. - Văn hóa Bắc Sơn (có niên đại cách ngày nay 8000 đến 7000 năm) được tìm thấy ở mái đá Thạch Sơn, hang Điền Hạ… (Cẩm Th ủy – Thanh Hóa); mái đá Điều (Bá Thước – Thanh Hóa); hang Con Moong (Th ạch Thành – Thanh Hóa). C ư dân nơi đây đã sử dụng rất nhiều đồ gốm, nông nghiệp sơ khai đã bắt đầu xuất hiện. - Vào cuối thời kỳ đá mới, khảo cổ học đã phát hiện trên địa bàn Thanh – Ngh ệ – Tĩnh có nhiều di chỉ hết sức quan trọng (có niên đại cách ngày nay 6000 đ ến -2-
  3. 5000 năm): Đa Bút, núi Mông Cù (Vĩnh Lộc – Thanh Hóa); Quỳnh Văn (Ngh ệ An); Trại Ổi (Quỳnh Hồng – Quỳnh Lưu – Nghệ An)… Tại các di chỉ này, người ta phát hiện các công cụ bằng xương, bằng sừng, có vết tích chài lưới… chứng tỏ người nguyên thủy thời kỳ này đã vươn mạnh mẽ xuống đồng bằng và ven biển. 3. Sơ kỳ thời đại đồ đồng: Sau quá trình lâu dài đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn và phát tri ển, c ư dân trên lãnh thổ nước ta bước vào thời đại đồ đồng, theo đó, trên địa bàn Thanh – Nghệ – Tĩnh, các nhà khoa học cũng đã tìm thấy được những bằng ch ứng thuy ết phục về thời kỳ này ở đây. Tại lưu vực sông Mã, khảo cổ học đã phát hiện được các nơi cư trú của các bộ lạc sơ kỳ thời đại kim khí. Cư dân ở đây tụ cư ở vùng cửa suối dọc đôi bờ sông Mã kéo dài khoảng 10 km từ xã Mường Lầm đến Nà Nghìn. Tại các tụ điểm cư dân này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ đá mài, đồ gốm với những hoa văn phong phú. Đặc biệt ở Quỳ Chữ (xã Hoằng Quỳ, huy ện Ho ằng Hóa) là di chỉ có nhiều chiến cụ rìu cân, rìu xéo, mũi giáo, mũi lao và mũi tên b ằng đồng có trang trí bằng hoa văn đúc nổi, có cả các dụng cụ để nấu và đúc đồng… Tại lưu vực sông Lam, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một số di tích thuộc sơ kỳ thời đại đồng thau như nhóm di tích Đồi D ền (Tương D ương – Ngh ệ An); Trại Ổi (Quỳnh Lưu – Nghệ An); lèn Hai Vai (Diễn Châu – Nghệ An); Rú Trăn (Nam Đàn – Nghệ An)… Các di tích văn hóa đ ồ đ ồng trên đây thu ộc giai đoạn tiền Đông Sơn là những bước chuẩn bị để tiến tới văn hóa Đông Sơn. Nó bắt nguồn trực tiếp của văn hóa thời đại đồ đá mới trước đó và mang nh ững s ắc thái riêng của các bộ lạc hay nhóm bộ lạc vùng sông Lam. Nó vừa phân biệt với những dòng văn hóa tiền Đông Sơn thuộc lưu vực sông Hồng (Phùng Nguyên - Đồng Đậu – Gò Mun), sông Mã và những vùng khác của đất nước, vừa thể hiện những mối quan hệ tiếp xúc giao lưu văn hóa và trao đổi sản ph ẩm gi ữa Ngh ệ Tĩnh với các địa bàn trên. Một số đồ gốm ở Trại Ổi, lèn Hai Vai có phong cách và đồ án trang trí giống đồ gốm Hoa Lộc ở Thanh Hóa. Gốm Đồi D ền có một s ố -3-
  4. hình trang trí gần gũi với gốm Phùng Nguyên ở lưu vực sông Hồng. Một số đ ồ gốm Rú Trăn cũng tìm thấy ở Thanh Hóa qua trao đổi. Quá trình ti ếp xúc giao l ưu văn hóa đó cũng là quá trình xích lại gần nhau giữa các nhóm bộ l ạc và các khu vực trong quá trình tiến tới một nền văn hóa thống nhất – văn hóa Đông Sơn. Có thể nói, cùng với lưu vực sông Hồng thì lưu vực sông Mã, sông Lam là m ột trong những dòng chảy văn hóa dẫn đến văn hóa Đông Sơn, góp ph ần t ạo nên văn hóa Đông Sơn sau này * Thời sơ sử: Niên đại: Từ thế kỷ VII TCN đến thế kỷ II TCN. Th ời Hùng V ương, Thanh Hoá thuộc bộ Cửu Chân, Nghệ An thuộc bộ Hoài Hoan và phần b ắc b ộ C ửu Đ ức, Hà Tĩnh thuộc bộ Cửu Đức của nước Văn Lang. Di chỉ khảo cổ Đông Sơn (nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa). Lần đầu tiên ở Việt Nam, có một nền văn hóa bao trùm trên một đ ịa bàn rộng lớn từ Hoàng Liên Sơn đến miền Nam Việt Nam. Di tích văn hoá Đông Sơn tập trung đậm đặc ở l ưu v ực các con sông: sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Có 379 di tích, trong đó Thanh Hoá có 104 di tích, Ngh ệ An có 25 di tích... Các di tích văn hóa Đông Sơn ở Thanh Hóa phân bố rộng t ừ vùng núi đ ến vùng đồng bằng thuộc các huyện: Đông Sơn, Hoằng Hóa, H ậu L ộc, Qu ảng X ương, Nông Cống, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Hà Trung… Trên đất Nghệ An và Hà Tĩnh cũng đã phát hiện được rất nhi ều di tích văn hóa Đông Sơn mà tiêu biểu nhất là Làng Vạc (Nghĩa Đàn – Ngh ệ An), Đ ồng M ỏm (Diễn Châu – Nghệ An), Xuân An (Nghi Xuân – Hà Tĩnh)… Vào giai đoạn Đông Sơn, nghề đúc đồng đạt đến mức c ực th ịnh. Ở Làng V ạc tìm thấy khuôn đúc rìu và đúc dao găm bằng sa th ạch. Ở Đ ồng M ỏm người ta tìm thấy môi đúc đồng bằng đất nung còn dính xỉ đồng. Đồ đồng Đông Sơn gồm đủ bộ từ công cụ, nhạc cụ đến chiến cụ. Trên các đồ đồng này đều có khắc chạm đúc nổi các hoa văn trang trí, đặc biệt là các hình vẽ mô t ả sinh ho ạt, đ ời s ống văn -4-
  5. hóa tĩn ngưỡng của người Việt thời bấy giờ. Người thợ đúc đồng th ời kỳ này đã chế tạo được nhiều loại công cụ sản xuất bằng đồng như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, thuổng, rìu, đục, mũi nhon…; nhiều loại đồ đựng bằng đồng nh ư th ạp, th ố, âu, chậu, sành; những đồ dùng đẹp như khóa thắt lưng, môi bằng đồng; nhiều th ứ vũ khí bằng đồng như dao găm, giáo, mũi lao, mũi tên… Vào thời kỳ này, người Đông Sơn trên địa bàn Thanh - Nghệ - Tĩnh không những phải đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn mà còn thường xuyên đối phó với nạn ngoại xâm. Do vậy, trong một số di chỉ có niên đại Đông S ơn, t ỉ l ệ vũ khí trong tổng số hiện vật khá cao: Đông Sơn có 519 vũ khí trong số 1026 hiện vật; Làng Vạc có 120 vũ khí trong số 475 hiện vật. Nhìn chung, t ỉ l ệ vũ khí lên t ới trên 50% tổng số hiện vật. Nghề luyện sắt cũng đã xuất hiện và có những bước phát triển đáng kể trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn. Sự phát triển của nghề luy ện kim đã thúc đ ẩy s ự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và dẫn đến những chuyển biến sâu xa trong đời sống xã hội. Trong các nghề thủ công, nghề làm đồ đá dần dần mất đi vai trò của nó. Ngh ề làm đồ gốm, nghề kéo sợi dệt vải tiếp tục phát triển, cung c ấp các lo ại đ ồ đ ựng, đồ dùng trong sinh hoạt và đồ may mặc cho con người. C ơ s ở kinh t ế ch ủ y ếu là nông nghiệp trồng lúa nước có nhiều tiến bộ quan trọng. Những lưỡi cày đ ồng đã thay thế dần những chiếc cuốc đá và nền nông nghiệp dùng cuốc đã chuy ển d ần sang nông nghiệp dùng cày. Cây lúa trồng lúc bấy gi ờ gồm c ả lúa t ẻ, lúa n ếp. Cùng kết hợp với nông nghiệp trồng lúa, có các ngh ề hái l ượm, săn b ắn, đánh cá, chăn nuôi. Trâu, bò, lợn, gà đã trở thành gia súc quen thuộc của con người. Những tiến bộ về kỹ thuật, những thành tựu về kinh tế đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng phong phú hơn. Tượng phụ nữ trên cán dao găm, hình người chạm khắc trên trống đồng, nh ững đồ án trang trí trên đ ồ đồng, đồ gốm, hình dáng của các công cụ, vũ khí chứng tỏ một bước phát triển cao của tư duy, thẩm mĩ và nghệ thuật tạo hình. Công xã th ị t ộc tan rã nh ường -5-
  6. chỗ cho công xã nông thôn mà trong tiếng Việt cổ gọi là k ẻ, ch ạ, chi ềng. Con người sống gắn bó trong những quan hệ cộng đồng của xóm làng, họ hàng với những hội mùa hàng năm rộn ràng tiếng trống đồng, tiếng chiêng, tiếng lục lạc, say sưa trong điệu múa và những sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước.  Kết luận: - Người Đông Sơn đã chiếm lĩnh các đồng bằng, dọc lưu vực các con sông lớn, ngã ba sông, vùng trung du, miền núi và hải đảo. C ư dân Đông S ơn s ống t ập trung thành từng làng trù mật, rộng lớn. - Công nghệ luyện kim đạt đến đỉnh cao, đúc nhiều đồ đồng: trống, thạp, thố, dao găm, mũi tên, cày... Thành th ục kỹ thuật làm khuôn, t ạo v ật pha ch ế h ợp kim và bước đầu phát triển nghề luyện sắt. - Nghề nông nghiệp lúa nước phát triển rộng rãi, nghề làm vườn và chăn nuôi gia súc. Nông nghiệp dùng cày kim loại và dùng sức kéo của động vật. - Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương là Nhà nước đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam á, có tổ chức quân đội, trang bị nhiều loại vũ khí, cung n ỏ. Kinh đô Cổ Loa đã có thành, hào bao bọc xung quanh. Có thể nói, lưu vực sông Mã, sông Cả là một trong những trung tâm của văn hóa Đông Sơn, đã góp phần xứng đáng và là một bộ phận hữu cơ không th ể tách rời của đất nước Văn Lang - Âu Lạc. 1.3.2. Thanh - Nghệ - Tĩnh thời Bắc thuộc a. Chính sách đô hộ và đồng hoá của phong kiến phương Bắc - Sau khi chiếm được Âu Lạc, năm 179 TCN, Triệu Đà chia nước ta thành 2 quận: Giao Chỉ (vùng châu thổ Bắc Bộ) và Cửu Chân (Thanh Hoá, Ngh ệ An, Hà Tĩnh). Mục đích nhằm biến nước ta thành quận huyện của Trung Qu ốc. Năm 111 TCN, nhà Hán đánh bại Triệu Đà, đô hộ nước Nam. -6-
  7. Chính sách của nhà Hán là chế độ lạc tướng, người Việt quản lý ở cấp huy ện. Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đưa quan lại nhà Hán sang cai trị đến cấp huyện. Năm 905, Khúc Thừa Dụ đánh thắng nhà Đường, chấm dưt 1000 năm Bắc thuộc trên đất nước ta và vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. - Chính sách đồng hoá trên mọi phương diện: +/. Di dân người Hán đến ở lẫn với người Việt để đồng hoá, lai máu, thay đ ổi phong tục tập quán của người Việt. Các quan lại nhà Hán (Nhâm Diên, S ỹ Nhi ếp, Tích Quang...) đã tổ chức đám cưới cho người Việt và người Hán, con cái c ủa h ọ sau lấy họ của những người này. Tên họ của người Việt cũng ảnh hưởng của Trung Hoa bắt đầu từ đây. +/. Nho giáo được truyền vào nước ta, là hệ tư tưởng của b ộ máy cai tr ị phong kiến Trung Hoa. Về sau, các triều đại phong kiến nước ta vẫn lấy h ệ tư tưởng Nho giáo để điều hành đất nước. +/. Chữ Hán và văn học Trung Quốc cũng được truy ền vào nước ta. V ề sau nhân dân ta trên cơ sở 214 bộ thủ chữ Hán đã sáng tạo ra ch ữ Nôm, là th ứ ch ữ riêng của người Việt. b. Tên gọi: Xứ Thanh là một cách gọi dân gian chỉ tỉnh Thanh Hoá, là một thực th ể địa lý tự nhiên và văn hoá, khiến Pierre Pasquier - viên Toàn quyền Đông Dương người Pháp trước kia coi Thanh Hoá không chỉ là một tỉnh mà là m ột xứ (pays). Cái nhìn địa – văn hoá này đã được ông cha ta từ xa xưa thấu tỏ, do vậy, dù trải qua bao nhiêu triều đại, qua bao cuộc sát nhập và phân chia thì x ứ Thanh v ẫn là x ứ Thanh, Thanh Hoá vẫn là Thanh Hoá. Trước thời Hán, Thanh Hoá thuộc quận Cửu Chân, thời Hán quận Cửu Chân thuộc bộ Giao Chỉ. Thời nhà Lương đổi Cửu Chân thành Ái Châu. Xứ Nghệ là một cách gọi dân gian giống như xứ Huế, xứ Thanh để chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. X ứ Ngh ệ còn có tên g ọi khác là Nghệ Tĩnh (đây là cách gọi rút ngắn từ hai tên riêng của hai tỉnh là Ngh ệ An và Hà -7-
  8. Tĩnh. Khác với tên xứ Nghệ, tên Nghệ Tĩnh không chỉ là cách gọi thông th ường, mà có thời kỳ được làm tên gọi chính thức của một tỉnh – tỉnh Ngh ệ Tĩnh, do sự sát nhập hai tỉnh Nghệ An và Hà Tình làm một, tồn tại từ năm 1975 đến 1991. Thời nhà Hán cai trị nước ta, vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh được coi là Hàm Hoan, coi đó như là một huyện của quận Cửu Chân (bao gồm cả Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay). Đến th ế kỷ III, người Hán đ ổi tên Hàm Hoan thành Cửu Đức, đến thời đường đổi thành Hoan Châu. Đến cuối thế kỷ VIII, đô hộ nhà Đường lại tách Hoan Châu thành hai phần, phần Bắc gọi là Diễn Châu, phần Nam vẫn giữ tên cũ là Hoan Châu. Suốt thời kỳ Bắc thuộc, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các t ỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng chịu sự bóc lột, vơ vét tàn bạo và chính sách đông hoá dân tộc, khủng bố, đàn áp tàn bạo của các triều đại phong kiến ph ương Bắc nh ằm biến nước ta thành quận, huyện của chúng, biến dân tộc Việt thành dân tộc Hán, người Việt thành người Hán. c. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của nhân dân: *. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248. Năm 248, một cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân Cửu Chân đã bùng nổ. Lãnh tụ của nghĩa quân là Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh. Bà Triệu quê ở huy ện Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa), là người phụ nữ có chí khí hơn người, có hoài bão đánh giặc ngoại xâm giành lại độc lập cho đất nước. Đêm đêm, bà th ường cùng anh là Triệu Quốc Đạt vào rừng tập luyện quân sĩ, chuẩn bị khởi nghĩa. Năm vừa tròn 19 tuổi, Triệu Thị Trinh cùng anh hô hào nhân dân trong vùng nổi dậy. Cuộc khởi nghĩa được dân chúng Cửu Chân hưởng ứng nhiệt liệt và nhanh chóng lan tỏa ra quận Giao Chỉ. Nghĩa quân chiến đấu liên tiếp nhiều trận, thế lực ngày càng mạnh, quân số có tới hàng vạn người. Nhà Ngô lo sợ, phải điều động hơn 8000 quân do An Nam hiệu úy, thứ giả Giao Châu là L ục D ận ch ỉ huy sang đàn áp. Triệu Quốc Đạt bị hi sinh trong trận chiến đấu với quân Ngô, Triệu Th ị Trinh thay anh chỉ huy nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng trong nhi ều tr ận, nh ưng -8-
  9. lực lượng bị tiêu diệt dần, liệu thế không chiến đấu nổi, bà đã ch ạy lên núi Tùng Sơn tự vẫn. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại, nhưng đã khẳng định tinh thần yêu nước, bất khuất sáng ngời của nhân dân Thanh Hóa nói riêng và nhân dân ta nói chung từ thời Trung nữ vương. Nó đánh dấu bước trưởng thành của phong trào đấu tranh vũ trang giành độc lập của nhân dân ta lúc bấy giờ. Tùng Sơn nắng quyện mây trời Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh Sử sách đã ghi lại rằng: Bà mặc áo giáp vàng, cài trâm vàng, đi gu ốc ngà, c ưỡi voi trận, nói lời khí phách: “ Ta chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình biển đông, đánh đuổi giặc Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô l ệ chớ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp...”. *. Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu năm 722. - Nguyên nhân: Từ nửa cuối thế kỷ VII, dưới sự cai trị hà khắc và tham lam của viên An Nam đô hộ Lưu Diên Hựu, nhân dân nhiều nơi đã nổi dậy khởi nghĩa. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ VIII, bọn quan lại nhà Đường lại càng ra s ức hoành hành, cướp ruộng đất, hạch sách nhân dân. Ách lao dịch nặng n ề, c ống n ạp phi ền nhiễu. Nhân dân hàng năm còn phải vận chuyển nhiều thức ngon, vật lạ cống nạp cho nhà Đường. Điều này làm cho nhân dân ta rất căm phẫn, đó là lí do d ẫn đ ến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Mai Thúc Loan người Thiên Lộc (Hà Tĩnh), sau theo mẹ đến trú ngụ ở huyện Nam Đàn (Nghệ An) làm nghề đốn củi kiếm sống, rồi ở đợ cho nhà giàu. Ông là một thanh niên có sức khỏe, nhanh nhẹn, da đen nên sau này nhân dân gọi là Mai Hắc Đế (vua Đen). Năm 713, Mai Thúc Loan hiệu triệu dân phu nổi dậy khởi nghĩa. Cu ộc kh ởi nghĩa được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Nhiều nghĩa sĩ, nhân tài kh ắp vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh đã kéo về tụ nghĩa dưới cờ của Mai Thúc Loan. Nhiều quân lính thuộc các quốc gia Chămpa, Chân Lạp, Kim Lân cùng với 32 châu quanh vùng -9-
  10. đã liên kết với nghĩa quân. Mai Thúc Loan tự xưng là hoàng đ ế, xây thành trên núi và lấy vùng Sa Nam hiểm yếu làm căn cứ chống giặc. Nhà Đường được tin đã cử Dương Tư Húc cùng An Nam đô h ộ phủ là Quang Sở Khách đem 10 vạn quân tiến sang đàn áp. Nghĩa quân sau nhi ều trận chi ến đ ấu đã thất bại, tan rã, chạy vào rừng, Mai Thúc Loan ch ết ở đó, kết thúc một cuộc khởi nghĩa khá tiêu biểu của nhân dân ta chống lại nhà Đường ở nửa đầu thế kỷ VIII. 1.3.3. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thời kỳ độc lập tự chủ (từ 905 đến 1858) - Tên gọi: Bắt đầu từ thời phong kiến độc lập tự chủ, Thanh Hoá vẫn thuộc Ái Châu. Đến thời Lý, đổi thành phủ Thanh Hoá, danh xưng Thanh Hoá bắt đầu có từ đó (Thanh: trong sáng; Hoá: biến hoá). Sau này, trải qua các triều đại, có lúc Thanh Hoá được gọi là phủ, trấn, lộ, trại, thừa tuyên, thậm chí, cái tên Thanh Hoá có t ừ thời Lý cũng có lúc đổi thành Thanh Đô, Tây Đô, Thanh Hoa. Năm 1802, g ọi là trấn Thanh Hoá, năm 1831, đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh Hoá (Hoa: tinh hoa). Năm 1841, lại đổi thành tỉnh Thanh Hoá. Thời kỳ đầu của phong kiến tự chủ Đại Việt vẫn dùng địa danh Hoan Châu và Diễn Châu để chỉ vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, đ ến th ời Lý Thái Tông (1033), nhà nước gộp Hoan Châu và Diễn Châu thành một đơn vị hành chính, đặt tên mới là châu Nghệ An, cái tên Nghệ An chính th ức ra đời từ th ời nhà Lý, thế kỷ XI. Đến năm 1469, Lê Thánh Tông gọi vùng đất này là th ừa tuyên Ngh ệ An, đến thời Gia Long, đổi thừa tuyên Nghệ An thành trấn Ngh ệ An. Thời Minh Mạng tách trấn Nghệ An thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, tên gọi hai t ỉnh này tồn tại cho đến năm 1975. - Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm tiêu biểu của nhân dân Thanh - Ngh ệ - Tĩnh: a. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong khởi nghĩa Lam Sơn: - 10 -
  11. Lam Sơn (Thọ Xuân - Thanh Hóa) lúc bấy giờ theo tên Nôm là làng Cham thuộc huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa. Lam Sơn là quê h ương của người anh hùng Lê Lợi và là căn cứ buổi đầu của cuộc kháng chi ến ch ống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo. Năm 1416, Lê Lợi và 18 người đã tổ chức Hội thề Lũng Nhai (làng Mé, cách Lam Sơn 10km), nêu cao quyết tâm đoàn kết đánh giặc Minh. Đầu năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là Bình Định vương, truyền Hịch kêu gọi nhân dân đứng lên cứu nước. Bình Định vương cùng nghĩa quân đã chiến đấu ở Thanh Hóa 6 năm. Trong 6 năm đầu gian khó ấy, tại Thanh Hóa đã diễn ra các trận đánh lớn: Lam Sơn, Mường Một (Thường Xuân); Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông Âm); Ba Lẫm (Bá Thước); Kình Động (Bá Thước); Úng Ải (Bá Thước); Sách Khôi (Bá Thước); Đa Càng (Thọ Xuân). Trong đó, có trận đánh phía địch có 10 vạn tên như ở Kình Động. Mùa đông năm 1424, Bình Định vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích. Như vậy, Thanh Hóa là địa bàn hoạt động đầu tiên của nghĩa quân Lam S ơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Địa bàn này diễn ra nh ững trận chiến đấu quyết liệt của nghĩa quân với quân Minh. Tuy nhiên, với tài năng, uy tín của người đứng đầu và lòng yêu nước của nhân dân đã đưa cuộc kh ởi nghĩa vượt qua thời kỳ đầu đầy gian khó, củng cố căn cứ địa, không cho giặc đàn áp, dập tắt cuộc khởi nghĩa. Vượt qua thời kỳ đầu củng cố căn cứ địa, năm 1424, nghĩa quân chuyển sang giai đoạn phát triển, theo kế của Nguyễn Chích, tiến xuống vùng đồng bằng Nghệ An. Theo đúng kế hoạch, tháng 10 - 1424, nghĩa quân đã tiến công thành Trà Lân (Tương Dương, Con Cuông - Nghệ An) do ngụy quan Cầm Bành với h ơn 1000 quân trấn giữ. Sau 2 tháng bị bao vây, Cầm Bành ph ải đ ầu hàng. Chi ếm đ ược - 11 -
  12. thành Trà Lân, nghĩa quân đã khai thông và kiểm soát được con đường từ mi ền núi xuống vùng đồng bằng. Sau khi diệt địch trong trận phục kích ở Khả Lưu, B ồ Ải (Anh S ơn), nghĩa quân tiến xuống giải phóng toàn bộ các châu, huyện của Ngh ệ An, đ ồng th ời vây hãm chặt thành Nghệ An trong nhiều tháng. Thành này do t ướng gi ặc Tr ần Trí và sau là Phương Chính trấn giữ. Nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh nh ất t ề n ổi d ậy tham gia, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, tự nguyện và hăng hái góp phần vào sự nghiệp cứu nước. Nghĩa quân đến đâu, nhân dân ở đó đứng lên gia nh ập nghĩa quân, ti ếp thêm lương thực và góp sức cùng nghĩa quân giải phóng các châu, huyện. Những lực lượng chống quân Minh đang hoạt động trong vùng đều gia nhập vào hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn như Phan Liêu, Lộ Văn Luật (ở miền tây Hà Tĩnh), Nguy ễn Biên (Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh), Nguyễn Vĩnh Lộc ở Trang Niên (Yên Thành)… Có nơi, nhân dân còn nổi dậy tự vũ trang để phối hợp với nghĩa quân giải phóng quê hương, tiêu biểu là trường hợp của Nguyễn Tuấn Thiện ở Đỗ Gia (Hương Sơn – Hà Tĩnh). Từ các xóm làng miền xuôi đến các bản m ường mi ền núi, các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc đều quy tụ lại dưới lá cờ cứu nước của Bình Định vương Lê Lợi. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, toàn phủ Nghệ An đã trở thành căn c ứ c ủa cuộc khởi nghĩa. Chỉ huy sở của Lê Lợi lúc đầu đặt ở động Tiên Hoa (H ương Sơn) sau dời về thành Lục Niên trên núi Thiên Nhẫn. Tại đây, bộ tham m ưu c ủa nghĩa quân chỉ đạo quân, dân hết lòng xây dựng, bảo vệ căn cứ địa và chuẩn b ị mọi mặt để đưa cuộc chiến tranh yêu nước đến toàn thắng. Từ phủ Nghệ An, tháng 6 - 1425, nghĩa quân tiến ra giải phóng phủ Diễn Châu, căn cứ địa của cuộc kháng chiến được mở rộng trên quy mô lớn, nhờ đó, lực lượng của nghĩa quân trưởng thành về mọi mặt và cuộc khởi nghĩa phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu r ộng, có căn c ứ địa vững chắc, hùng hậu. - 12 -
  13. Với “đất đứng chân” của Nghệ An - Hà Tĩnh, năm 1425, nghĩa quân Lam Sơn tiến ra giải phóng Thanh Hóa, tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa, rồi năm 1426, mở cuộc tiến công ra Bắc. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi lãnh đạo phát triển rộng ra quy mô cả nước và giành th ắng l ợi quy ết đ ịnh vào cuối năm 1427 với chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang vang dội. Như vậy, trong thắng lợi huy hoàng của sự nghiệp “bình Ngô” của dân tộc đầu thế kỷ XV, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã th ể hiện rõ là một đ ịa bàn chi ến lược quan trọng. Nhân dân các tỉnh nơi đây đã có những đóng góp quy ết đ ịnh cho cuộc khởi nghĩa ngay từ những ngày đầu đầy gian khó cho đ ến th ắng l ợi cu ối cùng. 1.3.4. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong phong trào giải phóng dân t ộc t ừ 1858 - 1945: a. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong Phong trào Cần Vương: Ngày 1 - 9 - 1858, thực dân Pháp chính th ức nổ súng xâm l ược Vi ệt Nam, trong khi đó, triều Nguyễn lại đang chìm vào khủng hoảng, suy vong. Với ưu th ế hơn hẳn của một nước tư bản đang trên đà phát triển, thực dân Pháp đã lấn át, g ặm dần, nuốt trỏng Việt Nam, biến Việt Nam từ một nước độc lập, tự chủ thành một nước thuộc địa vẫn còn tàn dư phong kiến. Hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, văn thân, sĩ phu và nhân dân Nghệ Tĩnh đã đứng dậy phò vua , cứu nước. Chính nơi đây là địa bàn quan trọng nhất, diễn ra các cuộc khởi nghĩa quyết liệt nhất trong phong trào Cần V ương chống Pháp cuối thế kỷ XIX. *. Khởi nghĩa Hương Khê: Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nh ất và kéo dài nh ất trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Địa bàn hoạt đ ộng c ủa nghĩa quân bao gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Qu ảng Bình, trong đó, đ ịa bàn chính là Nghệ An, Hà Tĩnh. Cuộc khởi nghĩa phát triển qua hai th ời kì: t ừ 1885 - 13 -
  14. đến 1888 là thời kỳ xây dựng và tổ chức lực lượng; từ 1889 đến 1895 là nh ững năm chiến đấu của nghĩa quân. Sau khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương (7 – 1885), ở Hà Tĩnh đã bùng nổ nhiều phong trào đấu tranh vũ trang. Cuộc khởi nghĩa đầu tiên là của Lê Ninh ở Trung Lễ (Đức Trung - Đức Th ọ). Cuối năm 1885, Lê Ninh tổ chức tấn công vào thành Hà Tĩnh, gi ết ch ết tên B ố chánh Lê Đại. Sau đó, nghĩa quân kéo lên Hương Khê, vừa để tránh sự truy nã, vây hãm của giặc Pháp, vừa nhằm phối hợp tác chiến với đội quân c ủa Phan Đình Phùng. Nhưng không may, đến giữa năm 1886, Lê Ninh bị bệnh m ất, em ông là Lê Trực đã thay ông, sau này trở thành một thủ lĩnh của nghĩa quân Hương Khê. Cùng với khởi nghĩa của Lê Ninh, còn có các cu ộc kh ởi nghĩa khác nh ư: Khởi nghĩa của Cao Thắng, Cao Nữu ở Hàm Lại, Sơn Lễ (H ương S ơn); Kh ởi nghĩa của Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh ở Can Lộc; Khởi nghĩa của Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân; Khởi nghĩa của Nguy ễn Hữu Thuận ở Th ạch Hà; Ở làng Đông Thái (Đức Thọ) có đội quân Phan Đình Phùng. Tại Nghệ An, cũng xuất hiện nhiều lực lượng chống Pháp, tiêu biểu nhất là đội quân của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ. Cuộc kh ởi nghĩa c ủa hai ông t ồn tại đến năm 1887. Trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa đó, Phan Đình Phùng đã t ập h ợp và phát triển thành một phong trào có quy mô rộng lớn khắp bốn tỉnh bắc Trung Kì, với địa bàn chính ở Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn tại suốt 10 năm liên tục. Vượt qua thời kỳ khó khăn ban đầu, lực lượng của nghĩa quân sau m ột th ời gian đã phát triển tới hàng ngàn người. Lực lượng nghĩa quân phân bố thành 15 quân thứ, tuân theo những quy định về kỷ luật do cụ Phan thảo ra. Đạiu bản doanh của Phan Đình Phùng đặt tại khu Ngàn Trươi, Vụ Quang. Kh ởi nghĩa Hương Khê trở thành nơi hội tụ của một số lực lượng vũ trang ch ống Pháp ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. - 14 -
  15. Các đồn giặc ở tỉnh lị Hà Tĩnh, Trường Lưu (Can L ộc), Nầm (H ương S ơn), Linh Cảm (Đức Thọ), Voi (Kỳ Anh)… bị nghĩa quân tấn công liên tiếp. Lo sợ trước sự phát triển của phong trào, thực dân Pháp đã tập trung l ực lượng, mở nhiều cuộc tấn công ác liệt vào trung tâm căn cứ và tìm cách cắt đứt liên lạc của nghĩa quân với nhân dân vùng xuôi. Để phá thế bị bao vây, cuối năm 1893, Cao Thắng đề nghị với Phan Đình Phùng một kế hoạch táo bạo đánh thẳng vào Ngh ệ An. Trên đ ường ti ến quân, nghĩa quân đã tổ chức đánh chiếm đồn Nu ở Thanh Chương. Trong trận này, Cao Thắng bị thương nặng và hi sinh. Từ đây, khởi nghĩa Hương Khê ngày càng khó khăn. Bước vào những năm 90 của thế kỷ XIX, giặc Pháp h ầu nh ư đã d ập t ắt được những cuộc khởi nghĩa ở các nơi khác nên rảnh tay đối phó với nghĩa quân Phan Đình Phùng. Chúng kết hợp nhiệu thủ đoạn, vừa tấn công quân s ự, vừa ra sức dụ hàng, ly gián nhân dân với nghĩa quân. Tuy nhiên, đêm đêm, các đ ội ti ếp t ế vẫn bí mật chuyển lương thảo lên căn cứ Ngàn Trươi, V ụ Quang. Giữa vòng vây của giặc, vượt qua muôn vàn gian khổ, hi sinh, nghĩa quân đã chi ến đ ấu oanh li ệt, làm nên những chiến thắng vang dội ở Đại Hàm, Cây Kh ế và nhất là tr ận V ụ Quang nổi tiếng. Tháng 8 – 1895, thực dân Pháp cấu kết với phong kiến Nam triều, phái Nguyễn Thân với danh nghĩa Khâm sai tiết chế, kéo thêm 3000 lính kh ố xanh ra phối hợp với lực lượng của Pháp ở Hà Tĩnh khép chặt vòng vây, ch ặn đ ường ti ếp tế, tìm mọi thủ đoạn tiêu diệt nghĩa quân. Trong một trận giao chiến với giặc, Phan Đình Phùng bị thương nặng. Ngày 28 - 12 - 1895, ông đã qua đời tại đại bản doanh Núi Quạt (Vụ Quang). Khởi nghĩa Hương Khê tiếp tục kéo dài thêm một thời gian, sang đến năm 1896 mới hoàn toàn chấm dứt. Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nh ất trong phong trào Cần Vương chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. - 15 -
  16. *. Khởi nghĩa Ba Đình: Khởi nghĩa Ba Đình dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt và một số tướng lĩnh khác. Căn cứ Ba Đình cách huyện lị Nga Sơn 4 km, phía tây bắc giáp huyện Hà Trung, được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê. Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, t ừ làng này có th ể nhìn thấy đình của hai làng kia. Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã cho bao bọc xung quanh căn cứ lũy tre dày đặc và một h ệ th ống hào r ộng, c ắm đầy chông tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3 m, chân rộng t ừ 8 đ ến 10 m. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận động khi chiến đấu. Tại các nơi xung yếu đều có công sự vững ch ắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng theo hình chữ “chi”, nhằm hạn chế th ương vong. Ở mỗi làng, tại vị trí ngôi đình được xây dựng một đồn đóng quân: Thượng Thọ có đồn Thượng; Mậu Thịnh có đồn Trung; Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có th ể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng thời cũng có thể chi ến đ ấu đ ộc lập. Có thể nói rằng, căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nh ất, là một chi ến tuy ến phòng ngự quy mô nhất thời kì Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Ngoài Ba Đình còn có các căn cứ hỗ trợ: Căn cứ Phi Lai của Cao Điển, căn cứ Qu ảng Hóa c ủa Tr ần Xuân Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao. Lực lượng nghĩa quân Ba Đình gồm khoảng 300 người, tuyển từ ba làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán. Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo, mác, cung, nỏ. - 16 -
  17. Nghĩa quân của Đinh Công Tráng đã đánh nhiều trận giành thắng lợi. Năm 1886, nghĩa quân liên tiếp tấn công các phủ, thành, huyện lị, chặn đánh các đoàn xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 – 3 – 1886, l ợi dụng phiên chợ, nghĩa quân đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa. Từ ngày 18 – 12 – 1886 đến ngày 20 – 1 – 1887, quân Pháp đã đi ều 76 sĩ quan và 3.500 quân vây hãm và tiến đánh Ba Đình. Quân Pháp đã nã t ới 16.000 qu ả đ ại bác trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa. Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm ch ống l ại k ẻ thù đông gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân, hiện đại. Trong những trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã m ưu trí dũng cảm, bám trụ từng tấc đất, đập tan nhiều cuộc tấn công, gây tổn thất nặng nề cho quân đội Pháp, làm ch ấn động tinh thần binh lính Pháp ở Việt Nam và còn là n ỗi lo s ợ cho b ọn Pháp ở chính quốc. Tuy nhiên, vì lực lượng quá nhỏ không thể đương đầu với quân đội Pháp vừa đông vừa mạnh nên lực lượng của nghĩa quân Ba Đình bị thương vong rất nhiều. Để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở con đ ường máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút khỏi lên căn cứ Mã Cao nh ằm c ủng cố lực lượng và chuẩn bị cuộc chiến đấu mới. Đến sáng ngày 21 – 1 – 1887, quân Pháp mới chi ếm đ ợc Ba Đình. Sau đó, quân Pháp đã triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho quân truy kích nghĩa quân ở Mã Cao, rồi tiếp tục đến Thung Voi, Thung Khoai và cu ối cùng là tận miền tây Thanh Hóa – nơi đóng quân của Cầm Bá Thước. Các thủ lĩnh như Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt hi sinh; Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát; Đinh Công Tráng chạy về Nghệ An, quân Pháp treo giải cái đầu ông với trị giá tiền thởng rất cao. Mùa hè năm 1887, vì tham tiền nên viên Lí trưởng làng Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và sát h ại Đinh Công Tráng. - 17 -
  18. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình nói chung và lãnh tụ Đinh Công Tráng đ ược lịch sử đánh giá rất cao, nó thể hiện lòng yêu n ước, tinh thần bất khuất của nhân dân Thanh Hóa trong Phong trào Cần Vương. Chính người Pháp đã phải thừa nhận: “1886 – 1887, cuộc công hãm Ba Đình là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhiều nhất”. b. Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh: - Hoàn cảnh lịch sử: Là một nước tư bản phát triển, thực dân Pháp cũng chịu ảnh hưởng r ất lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933). Thực dân Pháp đã trút gánh nặng cuộc khủng hoảng kinh t ế th ế giới (1929 – 1933) lên vai các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam làm cho đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, nhất là nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Chính sách kh ủng b ố n ặng nề của thực dân Pháp, nhất là sau khởi nghĩa Yên Bái thất bại đã làm cho nhân dân ta càng căm thù và quyết tâm đấu tranh giành độc lập, giành quy ền sống. Trong lúc đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kịp thời lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân đứng lên đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Trong nh ững nguyên nhân chung kể trên, ở Nghệ Tĩnh còn có những nguyên nhân riêng của nó. Chính những nguyên nhân riêng đó đã khiến cho phong trào cách mạng 1931 – 1931 ở Nghệ – Tĩnh phát triển đến đỉnh cao và là nơi diễn ra nhiều cuộc đấu tranh c ủa công nông quyết liệt nhất. - Các cuộc đấu tranh tiêu biểu của nhân dân Nghệ Tĩnh: + Ngày 1 - 5 - 1930, diễn ra cuộc đấu tranh của hơn 1000 nông dân hai huy ện Hưng Nguyên, Nghi Lộc do công nhân Vinh - Bến Thủy làm nòng cốt với yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm sưu thuế. + Ngày 30 - 8 - 1930, 3000 nông dân huyện Nam Đàn biểu tình, vũ trang kéo đến huyện lị, phá huyện đường, mở cửa nhà giam, giải phóng tù chính trị. - 18 -
  19. + Ngày 1 - 9 - 1930, trên 2 vạn nông dân huyện Thanh Ch ương rầm rộ tổng biểu tình vào huyện đường. Với khí thế cách mạng ngút trời, quần chúng đã tràn vào phá nhà giam, thiêu hủy huyện đường. + Ngày 12 - 9 - 1930, hơn 8000 nông dân các xã trong huy ện H ưng Nguyên có vũ trang kéo lên huyện lị. Máy bay của Pháp đã ném bom khi đoàn biểu tình vừa tới làng Thái Lão (cách huyện lị 2 km) làm nhiều người ch ết và bị th ương. Đ ến chiều, khi đồng bào ra tìm nhặt xác các người chết thì máy bay địch lại tới ném bom lần thứ hai. Cả hai lần làm 217 người chết và 125 người bị thương. Như vậy, từ cuộc tổng đình công của công nhân Vinh - Bên Th ủy đ ến cu ộc tổng biểu tình của nông dân hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương, cao trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh đã đạt tới cao điểm. Bằng bạo lực cách mạng với hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp ch ặt ch ẽ giữa thành th ị v ới nông thôn, quần chúng cách mạng Nghệ Tĩnh đã tấn công dồn dập vào th ực dân phong ki ến, làm rung chuyển bộ máy chính quyền của chúng từ tỉnh, huy ện xu ống đ ến xã. Trước khí thế xung thiên của quân chúng cách mạng, bọn phủ, huyện nhiều nơi trong tỉnh đều bỏ trốn. Tổng lý các xã như rắn mất đầu, hoang mang khi ếp sợ, nhiều tên đã mang sổ sách, triện bạ nộp cho cách mạng. Ban ch ấp hành nông h ội đỏ (xã bộ nông) đứng ra quản lí mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở nông thôn, làm nhiệm vụ của chính quyền nhân dân theo kiểu chính quyền Xô Viết. Từ tháng 9 - 1930 đến đầu năm 1931, chính quyền Xô Viết đã ra đời ở nhiều địa phương thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nó đã làm đúng ch ức năng c ủa một chính quyền cách mạng, chính quyền của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, trong cuộc đọ sức hết sức chênh lệch này, các chính quy ền Xô Vi ết đã nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp và gìm trong bi ển máu. Nhi ều cán b ộ, đảng viên bị bắt, bị tù đày, các cơ sở Đảng bị tan rã, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. - 19 -
  20. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh có một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta nói chung, của nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng. 1.3.5. Thanh - Nghệ - Tĩnh từ 1945 đến nay: a. Cách mạng Tháng Tám: Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua các thời kỳ thăng trầm của cách mạng. Năm 1945, khi th ời cơ cách mạng ngàn năm có một đến với dân tộc, với sự chuẩn bị chu đáo, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đứng lên giành chính quyền cách mạng. Sau khởi nghĩa tháng Tám 1945 giành thắng lợi, cùng với nhân dân c ả n ước, Thanh - Nghệ - Tĩnh bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, ch ống Mỹ. Trong hai cuộc kháng chiến này, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh với t ư cách là h ậu phương, luôn có những đóng góp rất lớn về người và của để làm nên những chiến công hiển hách của dân tộc.  Ý nghĩa: - Cách mạng tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong l ịch sử dân t ộc. Nó phá tan xiềng xích của thực dân Pháp và phát xít Nh ật trên đất nước ta. N ước ta giành được độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hoà. - Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đánh dấu bước nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới: giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. - Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ tinh th ần đ ấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới. b. Kháng chiến chống Mỹ cứu nước: - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tu ệ con ng ười, - 20 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2