JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 10, pp. 127-133<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0094<br />
<br />
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH TRỒNG TRỌT<br />
CỦA TỈNH VĨNH LONG GIAI ĐOẠN 2005 – 2013<br />
Huỳnh Phi Yến<br />
<br />
Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Vĩnh Long<br />
<br />
Tóm tắt. Trong những năm qua, ngành trồng trọt của tỉnh Vĩnh Long đã có bước phát triển<br />
vượt bậc, được ví như là một “kì tích”, đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của<br />
ngành nông nghiệp. Mặc dù đang ở thời kì “đỉnh cao”, nhưng ngành trồng trọt đã bộc lộ<br />
không ít hạn chế, bất cập khiến tốc độ tăng trưởng của ngành chậm lại, các sản phẩm của<br />
ngành trồng trọt ngày càng phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Vì thế để phát triển<br />
bền vững, ngành trồng trọt của Vĩnh Long sẽ phải làm gì để lập nên một “kì tích” mới?<br />
Cũng như các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, trong những năm qua trong bối cảnh chịu<br />
ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp, giá các sản phẩm nông nghiệp luôn<br />
biến động thiếu ổn định, tốc độ phát triển trên các lĩnh vực không đồng đều,. . . nhưng nhìn<br />
chung sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Long đã đạt được bước phát triển đáng kể, chuyển dịch<br />
cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Vĩnh Long đang khởi sắc, đặc biệt vấn đề chuyển dịch cơ cấu<br />
cây trồng có những thay đổi tích cực, góp phần phát triển kinh tế – xã hội cho tỉnh Vĩnh<br />
Long.<br />
Từ khóa: Ngành trồng trọt, chuyển dịch cơ cấu, Vĩnh Long, kinh tế nông nghiệp.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Là một tỉnh đất hẹp người đông, nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Long có xuất phát điểm thấp với<br />
quỹ đất nông nghiệp là 118.658 ha. Để xây dựng nền nông nghiệp đa dạng về cây trồng, vật nuôi,<br />
ngành nghề dịch vụ nhằm từng bước phá thế thuần nông và độc canh cây lúa, đồng thời chuyển từ<br />
nền nông nghiệp tự cấp, tự túc sang nền nông nghiệp hàng hóa, tỉnh Vĩnh Long đã thực hiện nhiều<br />
biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đặc biệt trong ngành trồng trọt.<br />
Trong những năm gần đây, tỉnh Vĩnh Long đã đạt được một số thành tựu nhất định, đặc biệt<br />
là việc chuyển dịch cơ cấu trong ngành trồng trọt. Tuy nhiên sự chuyển dịch đó còn nhiều hạn chế.<br />
Trong khuôn khổ của bài báo này, xin phân tích những thành tựu và hạn chế về chuyển dịch cơ cấu<br />
ngành trồng trọt để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa ngành sản xuất này ở<br />
tỉnh Vĩnh Long.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 15/5/2016. Ngày nhận đăng: 20/9/2016<br />
Liên hệ: Huỳnh Phi Yến, e-mail: phiyenhuynh007@gmail.com<br />
<br />
127<br />
<br />
Huỳnh Phi Yến<br />
<br />
2.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
<br />
2.1.<br />
<br />
Nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt giai đoạn 2005-2013<br />
<br />
2.1.1. Tổng quan về ngành nông nghiệp<br />
a. Một vài thông tin<br />
Nông nghiệp là ngành quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh Vĩnh Long. Năm 2013 ngành<br />
này cùng với các ngành lâm nghiệp và thủy sản chiếm hơn 1/3 GDP của tỉnh. Phác thảo bức tranh<br />
về ngành nông nghiệp của Vĩnh Long năm 2013 được thể hiện qua một vài số liệu dưới đây:<br />
- Diện tích đạt giá trị sản xuất là 50 triệu/ha/năm: 34.305,5 ha, chiếm 29,3% diện tích đất<br />
nông nghiệp. Mô hình canh tác cụ thể như sau:<br />
+ Cây ăn trái: 41.088,6 ha (chiếm 57,6% diện tích cây ăn trái), có thu nhập từ 50 – 140 triệu<br />
đồng/ha.<br />
+ Đất lúa luân canh màu: 10.400 ha, có thu nhập từ 50 - 55 triệu đồng/ha; đất chyên màu:<br />
1.799,4 ha, có thu nhập từ 73 – 120 triệu đồng; đất trồng cỏ: 60 ha, có thu nhập từ 50 – 75 triệu<br />
đồng/ha.<br />
- Diện tích chuyển đổi:<br />
+ Diện tích chuyển từ lúa sang màu: 10 ha, nâng tổng số diện tích chuyên màu: 1.598 ha;<br />
diện tích màu luân canh trên ruộng lúa: 16.250 ha.<br />
+ Diện tích chuyển từ lúa sang cây ăn trái lâu năm: 562 ha, nâng tổng diện tích vườn cây<br />
lâu năm: 45.331 ha, trong đó diện tích cây ăn trái: 38.559 ha, cây dừa: 6.732 ha.<br />
+ Diện tích chuyển từ chuyên sản xuất nông nghiệp sang thủy sản: 160 ha, nâng tổng diện<br />
tích nuôi thủy sản lên 301 ha.<br />
+ Phong trào sản xuất nấm rơm được phát triển rộng rãi: tổng diện tích là 14.869 ha, tập<br />
trung nhiều ở Bình Minh (4.975 ha), Tam Bình (3.532 ha), Vũng Liêm (5.787 ha), Trà Ôn (550<br />
ha), Mang Thít (25 ha). Sản lượng đạt gần 6.859 tấn nấm tươi.<br />
b. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp<br />
Bảng 1. Cơ cấu và giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giai đoạn 2005 – 2013<br />
Năm<br />
<br />
Cơ cấu (%)<br />
Chăn nuôi<br />
Dịch vụ<br />
Trồng trọt<br />
2005<br />
73,71<br />
23,59<br />
3,10<br />
2007<br />
72,97<br />
22,82<br />
4,21<br />
2009<br />
69,07<br />
26,26<br />
4,67<br />
2011<br />
71,70<br />
23,23<br />
5,07<br />
70,17<br />
24,03<br />
5,80<br />
2013<br />
Tỉ lệ chuyển dịch (%)<br />
-3,46<br />
-0,44<br />
-2,70<br />
Tốc độ tăng trưởng giá trị bình quân (%)<br />
9,5<br />
10,1<br />
18,7<br />
(Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê và tài liệu của Sở Nông nghiệp<br />
& Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Long năm 2013)<br />
<br />
Trong nông nghiệp, trồng trọt vẫn chiếm ưu thế với tỉ trọng dao động từ 69% đến 74% giá<br />
trị sản xuất nông nghiệp và có chiều hướng giảm. Trong khi đó, chăn nuôi lại tăng lên, nhưng<br />
không ổn định. Dịch vụ nông nghiệp có xu hướng tăng, nhưng lại chiếm tỉ trọng không đáng kể.<br />
128<br />
<br />
Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2005 – 2013<br />
<br />
2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt<br />
Như phần trên đã nêu, trồng trọt luôn chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu giá trị sản xuất nông<br />
nghiệp, trong đó chủ yếu là cây lương thực mà cây lúa giữ vị trí số 1. Kế đến là cây lâu năm, chủ<br />
yếu là cây ăn trái, sau cùng là rau đậu, gia vị. Trong giai đoạn 2005 – 2013, cây lương thực có tốc<br />
độ tăng trưởng thấp nhất, cây lâu năm có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Năm 2013, giá trị sản xuất<br />
của ngành trồng trọt là 11.507.935 triệu đồng, trong đó cây lương thực là 5.470.921 triệu đồng,<br />
cây lâu năm là 4.502.680 triệu đồng, rau đậu các loại là 2.760.946 triệu đồng (giá hiện hành).<br />
Bảng 2. Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt giai đoạn 2005 – 2013<br />
<br />
Năm<br />
2005<br />
2007<br />
2009<br />
2011<br />
2013<br />
<br />
Cơ cấu (%)<br />
Cây lương thực<br />
Cây lâu năm<br />
Rau đậu<br />
Khác<br />
33,34<br />
33,42<br />
25,64<br />
7,6<br />
33,13<br />
33,82<br />
25,49<br />
7,56<br />
42,57<br />
28,96<br />
18,11<br />
10,36<br />
44,21<br />
26,13<br />
17,81<br />
11,85<br />
38,93<br />
32,04<br />
19,65<br />
9,38<br />
(Nguồn: Xử lí số liệu từ Niên giám thống kê và tài liệu của Sở Nông nghiệp<br />
& Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Long năm 2013)<br />
<br />
Qua số liệu ở Bảng 2 có thể thấy rõ cơ cấu và sự chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất ngành<br />
trồng trọt của tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn 2005 – 2013. Trong cơ cấu giá trị sản xuất của ngành<br />
trồng trọt, nhóm cây lương thực chiếm tỉ trọng cao nhất và có xu hướng tăng, nhưng không ổn định:<br />
cao nhất vào năm 2011 (44,21%) và thấp nhất là năm 2007 (33,13%). Sau nhóm cây lương thực<br />
là nhóm cây lâu năm (gồm cây ăn quả và cây công nghiệp dài ngày). Tỉ trọng của nhóm cây này<br />
cũng không thật ổn định: năm cao nhất là 2007 (33,82%) và thấp nhất là 2009 (28,96%). Nhóm<br />
cây thực phẩm (rau, đậu các loại) có xu hướng giảm tỉ trọng (từ 25,64% năm 2005 xuống 19,65%<br />
năm 2013). Nhóm các loại cây khác tuy tỉ trọng có tăng, nhưng lại giữ vai trò thứ yếu. Xin lần lượt<br />
phân tích các nhóm cây nêu trên.<br />
a. Cây lương thực<br />
Cây lương thực có tốc độ tăng trưởng bình quân thấp nhất do trong những năm qua, diện<br />
tích trồng lúa đều giảm. Cây lúa được gieo trồng từ 3 vụ chính là đông xuân, hè thu và thu đông.<br />
Trong những năm qua nhờ chuyển giao khoa học kĩ thuật, áp dụng nhiều biện pháp canh tác tiến<br />
bộ và được sự hỗ trợ của tỉnh về máy móc, thuốc bảo vệ thực vật và các chương trình khuyến nông<br />
nên nông dân đã tích góp được nhiều kinh nghiệm sản xuất lúa, năng suất qua các năm đều tăng.<br />
Tuy nhiên sâu bệnh trên cây lúa vẫn còn là nỗi lo của bà con. Bệnh vàng lùn, xoắn lá, rầy nâu để<br />
lại di chứng nặng nề. Diện tích gieo trồng cây lượng thực giảm, từ gần 204 nghìn ha năm 2005<br />
xuống còn hơn 183 nghìn ha năm 2013. Giảm diện tích gieo trồng đi đôi với tăng năng suất trong<br />
điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, sâu bệnh phá hoại là sự nỗ lực vượt bậc của người sản xuất.<br />
Ngành nông nghiệp đã thực hiện khá tốt việc tuyên truyền vận động nông dân làm đất kĩ trước khi<br />
gieo sạ, xuống giống tập trung theo lịch thời vụ, đảm bảo nguồn nước tưới tiêu, kiểm soát chặt chẽ<br />
sâu bệnh để nâng cao năng suất.<br />
Giá lúa trong những năm qua tuy có tăng, nhưng không ổn định. Trong khi đó, giá nguyên<br />
liệu đầu vào như phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu phục vụ sản xuất lúa đều tăng mạnh dẫn đến<br />
chi phí sản xuất cao nên lợi nhuận thực tế của người trồng lúa là thấp.<br />
b. Cây ăn quả<br />
Có thể nói cây ăn quả là nhóm cây có vị trí quan trọng thứ hai sau cây lúa ở tỉnh Vĩnh Long.<br />
129<br />
<br />
Huỳnh Phi Yến<br />
<br />
Tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao và đạt hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường.<br />
Xét về giá trị sản xuất, nhóm cây ăn quả có vai trò quan trọng trong ngành trồng trọt. Về tốc<br />
độ tăng trưởng bình quân trong nội bộ nhóm cây ăn quả giai đoạn 2005 – 2013, cây bưởi có sản<br />
lượng tăng trưởng cao nhất (49,33%), kế đến là xoài (36,64%), chôm chôm (11,82%),. . .<br />
Xét về diện tích, trong giai đoạn 2005 – 2013, nhóm cây ăn quả có xu hướng tăng, dẫn đến<br />
sản lượng cũng tăng và đưa giá trị kinh tế vườn tăng gấp nhiều lần. Nguyên nhân chủ yếu là do<br />
hiện nay ngành nông nghiệp đang tập trung đẩy mạnh thâm canh cây ăn quả. Cách làm này đem<br />
lại thu nhập và lợi nhuận tăng gấp 3 – 5 lần so với trước kia. Với thế mạnh của vườn cây ăn quả<br />
đặc sản, Vĩnh Long đang quy hoạch, định hướng phát triển vườn cây theo hướng chất lượng cao,<br />
có lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt là chủ trương vận động nông dân phát triển mạnh mô hình sản xuất<br />
thành vùng chuyên canh lớn, đáp ứng nhu cầu thị trường trong thời kì hội nhập, khắc phục tình<br />
trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún,... Chính vì thế, công tác chuyển giao khoa học kĩ thuật là nhiệm<br />
vụ quan trọng hàng đầu. Năm 2013 các ngành chức năng của tỉnh đã tổ chức tập huấn kĩ thuật cho<br />
trên 200 nhà vườn, hướng dẫn kĩ thuật, phương pháp sản xuất nhằm phát triển vùng sản xuất hàng<br />
hóa bền vững, đồng đều về chủng loại, đảm bảo về chất lượng, đẹp về hình thức. Đồng thời trên<br />
địa bàn của tỉnh tiến hành nhân rộng các mô hình hợp tác xã trồng cây ăn quả, kết hợp thực hiện<br />
các giải pháp khẳng định thương hiệu trái cây Vĩnh Long. Bên cạnh đó là việc vận động bà con<br />
mở rộng vùng sản xuất trái cây hàng hóa theo tiêu chuẩn nông nghiệp sạch của châu Âu (GAP)<br />
như: bưởi Năm Roi Bình Minh; cam sành Tam Bình, Trà Ôn; quýt đường Trà Ôn; bòn bon, măng<br />
cụt ở các xã cù lao của huyện Vũng Liêm; xoài Cát Chu, nhãn ở Mang Thít,. . . Cùng với các tỉnh<br />
Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Sóc Trăng, Hậu Giang, Vĩnh Long đang tiếp tục triển khai dự<br />
án nâng cao chất lượng 9 loại trái cây đặc sản trong vùng. Mỗi tỉnh sẽ chọn và phát triển từ 1 đến 3<br />
cây chủ lực, khuyến khích nhà vườn đầu tư cùng dự án dẫn đến hình thành các vùng chuyên canh<br />
cây ăn trái đặc sản cho sản lượng cao, chất lượng tốt.<br />
c. Cây công nghiệp<br />
Cây công nghiệp dài ngày chủ yếu ở Vĩnh Long là cây dừa. Đây là nguồn nguyên liệu chủ<br />
yếu cho công nghiệp chế biến dầu ăn. Tuy nhiên, Vĩnh Long chỉ sản xuất cùi dừa và dầu dừa thô<br />
vì không có nhà máy chế biến nên trong giai đoạn 2005 – 2013, sản lượng dừa giảm. Một nguyên<br />
nhân nữa là do đất vườn trồng cây ăn quả có hiệu quả hơn trồng dừa. Do đó, khả năng phát triển<br />
cây dừa đã bị hạn chế.<br />
Cây công nghiệp ngắn ngày có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu, thúc đẩy<br />
công nghiệp chế biến phát triển. Do đó sự chuyển dịch cơ cấu cây công nghiệp ngắn ngày nói lên<br />
khả năng chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Vĩnh Long có 5 loại cây<br />
công nghiệp ngắn ngày là: mía, đậu nành, đậu phộng (lạc), cói, thuốc lá.<br />
Trong số các cây công nghiệp ngắn ngày thì cây mía có sự thay đổi rất lớn về diện tích và<br />
sản lượng. Diện tích mía giảm từ 191,4 ha năm 2005 xuống còn 184,8 ha năm 2013. Nguyên nhân<br />
là do giá đường trong nước cao hơn giá đường nhập khẩu, giống mía trồng có chất lượng thấp,<br />
công nghiệp chế biến lạc hậu. Điều đó dẫn đến tỉ lệ thu hồi đường thấp, giá thành cao, không đủ<br />
sức cạnh tranh với đường nhập khẩu.<br />
Trong khi đó, cây đậu nành có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm cao nhất và ổn định<br />
về sản lượng cũng như diện tích trong số các loại cây công nghiệp ngắn ngày của tỉnh. Nguyên<br />
nhân là do đã áp dụng và chuyển đổi, nhân rộng mô hình chuyên canh màu trên đất lúa, trong đó<br />
đậu nành phát triển mạnh nhằm cải tạo độ phì cho đất và tăng thêm thu nhập trên 1 ha đất canh<br />
tác. Nhiều huyện đã triển khai mô hình này và mang lại hiệu quả cao, đặc biệt là huyện Bình Minh.<br />
Đồng thời do nhu cầu lớn về thực phẩm của người dân nên việc tiếp tục phát triển cây đậu nành cả<br />
130<br />
<br />
Chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2005 – 2013<br />
<br />
về diện tích gieo trồng lẫn công nghiệp chế biến trở thành một đòi hỏi khách quan, cấp thiết.<br />
Đối với cây đậu phộng (lạc), diện tích năm 2013 tăng so với năm 2005 là 28,8 ha, nhưng<br />
sản lượng lại tăng 81 tấn do năng suất tăng. Năng suất đậu phộng năm 2005 là 17,69 tạ/ha, năm<br />
2013 tăng lên 24,55 tạ/ha.<br />
d. Rau đậu các loại<br />
Mặc dù nhóm cây này chiếm tỉ trọng không thật cao trong cơ cấu ngành trồng trọt, nhưng<br />
lại là loại thực phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hằng ngày của nhân dân. Vì thế phát triển<br />
các loại rau đậu có ý nghĩa quan trọng trong việc đa dạng hóa cây trồng và thỏa mãn nhu cầu ngày<br />
càng tăng của người dân trong tỉnh. Tuy vậy, tỉ trọng của nó lại giảm. Nguyên nhân chủ yếu là do<br />
trong những năm qua người dân tập trung sản xuất các loại cây công nghiệp hằng năm hay cây<br />
màu lương thực (như khoai lang) hay đầu tư vào nuôi trồng thủy sản.<br />
Hiện nay trên địa bàn của tỉnh đã hình thành vùng chuyên canh rau, đậu thuộc các xã phía<br />
bắc Quốc lộ 1A thuộc huyện Bình Minh và các xã phía đông Quốc lộ 53 thuộc huyện Vũng Liêm.<br />
Vùng rau đậu còn phát triển mạnh ở các xã dọc tuyến sông Măng thuộc huyện Trà Ôn, Tam Bình<br />
và dọc tuyến sông Tiền thuộc thành phố Vĩnh Long.<br />
e. Đánh giá chung<br />
- Kết quả đạt được:<br />
Trong giai đoạn 2005 – 2013, ngành trồng trọt của tỉnh Vĩnh Long đã có sự chuyển dịch về<br />
cơ cấu giá trị sản xuất theo hướng tăng tỉ trọng của nhóm cây lương thực, giảm tỉ trọng của nhóm<br />
cây lâu năm, cây thực phẩm (rau, đậu). Việc chuyển dịch như vậy là theo chiều hướng tích cực,<br />
nhằm góp phần đưa ngành trồng trọt nói riêng và nông nghiệp nói chung theo hướng sản xuất hàng<br />
hóa, hội nhập với thị trường.<br />
- Hạn chế:<br />
Tuy kết quả đạt được là khả quan, nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ một số hạn chế. Đó là:<br />
+ Chuyển dịch cơ cấu trong ngành trồng trọt còn chậm. Đối với cây lúa, vốn đã chiếm tỉ<br />
trọng cao trong cơ cấu, nhưng do tác động giá cả thị trường thì nay lại càng tỏ ra có ưu thế vượt<br />
trội.<br />
+ Kinh tế thuần nông, nhỏ lẻ, phân tán, chuyên canh lúa là đặc trưng cơ bản của kinh tế<br />
nông thôn tỉnh Vĩnh Long. Con đường để gia tăng sản lượng và giá trị sản xuất thông qua thâm<br />
canh, tăng vụ lúa đã tới ngưỡng là một trong những nguyên nhân sâu xa làm chậm tốc độ tăng giá<br />
trị của ngành trồng trọt.<br />
+ Công tác giống cây trồng chậm được đổi mới về chất lượng. Cũng tương tự như thế là<br />
công nghệ sản xuất và hệ thống phân phối.<br />
+ Quá trình ứng dụng các tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn gặp khó khăn nên<br />
khi trái cây Vĩnh Long xuất sang thị trường các nước khó vượt qua hàng rào vệ sinh an toàn thực<br />
phẩm...<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Một số giải pháp<br />
<br />
Để góp phần nâng cao hiệu quả của ngành trồng trọt cũng như chuyển dịch cơ cấu trong<br />
ngành này, xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu dưới đây:<br />
- Quy hoạch, bố trí lại việc sử dụng đất nông nghiệp: Bố trí sử dụng đất nông nghiệp hợp<br />
lí và phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng trong tỉnh nhằm phát triển sản xuất toàn diện, kết<br />
hợp hài hòa giữa các nhóm cây trồng, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế cao nhất trên một đơn vị diện<br />
131<br />
<br />