intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cô lập một số hợp chất phenolic từ cao acetone thô của loài địa y Parmotrema Tsavoense

Chia sẻ: ĐInh ĐInh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

15
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xuất phát từ những ứng dụng y học quý giá và kế thừa những nghiên cứu đã có về chi Parmotrema trong nước cũng như nghiên cứu hóa học trên loài địa y Parmotrema tsavoense, trong nghiên cứu này, tác giả tiếp tục nghiên cứu trên loài địa y Parmotrema tsavoense (Krog & Swincow) Krog & Swincow nhằm tìm kiếm các hợp các hợp chất mới và thử nghiệm hoạt tính sinh học của chúng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cô lập một số hợp chất phenolic từ cao acetone thô của loài địa y Parmotrema Tsavoense

  1. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH CÔ LẬP MỘT SỐ HỢP CHẤT PHENOLIC TỪ CAO ACETONE THÔ CỦA LOÀI ĐỊA Y PARMOTREMA TSAVOENSE Nguyễn Thị Quỳnh Như, Nguyễn Thị Thanh Hương (Sinh viên năm 3, Khoa Hóa học) GVHD: TS Dương Thúc Huy TÓM TẮT Từ cao acetone thô của loài địa y Parmotrema tsavoense thu hái ở tỉnh Bình Thuận, hợp chất mới parmosidone-F được cô lập. Cấu trúc hóa học của hợp chất này được xác định bằng các phương pháp phổ nghiệm cũng như so sánh với các tài liệu tham khảo. Parmosidone-F được thử nghiệm hoạt tính ức chế enzyme -glucosidase mạnh với giá trị IC50 5.86±1.40 g/ mL. 9 O 8' 7 O O 5 1 3 3' OH HO O 5' 1' 10 8 7' OH 11 9' O O 12 Hình 1. Cấu trúc hóa học của parmosidone-F 1. Tổng quan Trong những năm gần đây, những nghiên cứu hóa học và sinh học về địa y trên thế giới trở nên phổ biến. Ngay từ thời trung đại, nhiều người làm nghề y đã sử dụng các loài địa y làm thuốc chữa bệnh. Ngoài công dụng chữa bệnh, địa y còn được sử dụng làm thực phẩm, mĩ phẩm, phẩm nhuộm, nước hoa [1]. Theo các tác giả Muller (2001) [1], Boustie (2007) [2], Huneck (1999) [3], từ xưa cho đến nay có khoảng gần 1000 hợp chất địa y đã được cô lập và thử nghiệm các hoạt tính sinh học như kháng khuẩn, kháng virus, chống oxy hóa, kháng ung thư, kháng viêm, kháng enzyme… Xuất phát từ những ứng dụng y học quý giá và kế thừa những nghiên cứu đã có về chi Parmotrema trong nước cũng như nghiên cứu hóa học trên loài địa y Parmotrema tsavoense (Huynh BLC 2014 [4], Duong T.H. 2015 [5]), chúng tôi tiếp tục nghiên cứu trên loài địa y Parmotrema tsavoense (Krog & Swincow) Krog & Swincow nhằm tìm kiếm các hợp các hợp chất mới và thử nghiệm hoạt tính sinh học của chúng. 14
  2. Năm học 2016 - 2017 2. Thực nghiệm 2.1. Máy móc, thiết bị Phổ 1H-NMR, 13C-NMR, HSQC, HMBC được ghi bằng máy Bruker Avance 500 tại Phòng Phân tích trung tâm, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TPHCM (phổ 1H-NMR được đo ở tần số 500 MHz và phổ 13C-NMR được đo ở tần số 125 MHz). Dung môi sử dụng được cung cấp bởi hãng Chemsol (Việt Nam). Sắc kí cột pha thuận sử dụng silica gel kích thước hạt (0.040–0.063 mm, Merck). Sắc kí lớp mỏng sử dụng bản mỏng 20 cm x 20 cm phủ silica gel 60 F254 (Merck). Hình 2. Loài địa y Parmotrema tsavoense 2.2. Thu hái và xử lí mẫu nguyên liệu, li trích và cô lập các hợp chất Loài địa y Parmotrema tsavoense (Krog & Swinscow) Krog & Swinscow thu hái trên đá trên núi Tà Cú, tỉnh Bình Thuận (tháng 8/2012-12/2012). Tên khoa học được xác định bởi tiến sĩ Wetchasart Poliiam, Tổ nghiên cứu địa y, Bộ môn Sinh học, Khoa Khoa học, Đại học Ramkhamhaeng, Bangkok, Thái Lan. Mẫu kí hiệu số US-B027 và được lưu trong quyển tiêu bản thực vật tại Bộ môn Hóa hữu cơ, Khoa Hóa, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQG TPHCM. Bột khô địa y nghiền nhỏ (1.350 g) được ngâm dầm trong methanol và dịch chiết cô quay dưới áp suất thấp. Trong quá trình methanol bay hơi, tủa trắng P (30.3 g) xuất hiện dần và được lọc riêng. Phần dung dịch lọc còn lại được tiếp tục cô quay thu được cao methanol thô (249.8 g). Phần cao methanol thô đã được tiến hành nghiên cứu bởi Duong T.H. (2015) [5]. Phần bột địa y khô còn lại tiếp tục được ngâm dầm trong acetone thu được cao acetone thô AC (8.54 g). Tiến hành sắc kí cột silica gel pha thường trên cao acetone, giải li với hệ dung môi n-hexane: ethyl acetate: acetone: acetic acid (12:5:1:1) để thu được 9 phân đoạn AC1 (1.2 g), AC2 (2.3 g), AC3 (209.0 mg), AC4 (264.9 mg), AC5 (1.31 g), AC6 (476.3 mg), AC7 (971.1 mg), AC8 (1.2 g) và AC9 (1.1 g). Phân đoạn AC5 (1.31 g) được thực hiện sắc kí cột, giải li với hệ dung môi n- hexane: ethyl acetate: acetone: acetic acid (30:5:1:1) để thu được 8 phân đoạn kí hiệu từ AC9.1 - AC9.8. Từ Phân đoạn AC9.5 (2.0 mg) thực hiện sắc kí lớp mỏng điều chế, 15
  3. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH giải li với hệ dung môi chloroform: ethyl acetate: acetone: acetic acid (10:4:2.4:0.8) thu được hợp chất T2A. 3. Kết quả và thảo luận Phổ 1H–NMR ở vùng từ trường yếu cho thấy sự hiện diện tín hiệu của một proton vòng thơm tại δH 6.76 (1H, s), hai proton của nhóm olefin tại δH 8.01 (1H, d, J=16.5 Hz) và δH 7.13 (1H, d, J=16.5 Hz), một proton của nhóm hydroxy tại δH 11.66 (1H, s). Ngoài ra, phổ 1H–NMR còn cho thấy tín hiệu của một nhóm oxymethylene –CH2–O– tại δH 4.49 (2H, s), một nhóm methoxy tại δH 3.23 (3H, s) và hai tín hiệu của hai nhóm methyl gắn với vòng thơm tại δH 2.44 (3H, s) và δH 2.33 (3H, s). Phổ 13C–NMR kết hợp với phổ HSQC cho thấy hợp chất có 22 carbon, gồm có 1 nhóm carbonyl (δC 198.5), 2 nhóm carboxyl (δC 170.3, 161.5), 2 carbon olefin (δC 132.9, 131.1), 1 nhóm methylene (δC 62.2), 1 nhóm methoxy (δC 57.4), 3 nhóm methyl (δC 27.7, 20.7, 15.5) và các carbon tứ cấp khác (δC 161.8, 161.3, 155.2, 145.9, 145.4, 142.5, 130.7, 116.0, 115.7, 115.5, 112.0, 111.3). So sánh dữ liệu phổ 1H–NMR và phổ 13C-NMR của hợp chất T2A và của hợp chất 8’-O-methylprotocetraric acid nhận thấy dữ liệu phổ của chúng có sự tương đồng trên nhân thơm B. Điều này được củng cố bằng tương quan HMBC của proton H-8’ với các carbon tại δC 155.2 (C-2’), δC 115.7 (C-3’), δC 145.9 (C-4’) và proton H-9’ với các carbon tại δC 115.5 (C-1’), δC 142.5 (C-5’), δC 130.7 (C-6’). Nhân thơm A của hợp chất T2A có sự khác biệt tại nhóm thế trên C-3 so với hợp chất 8’-O- methylprotocetraric acid. Trên nhân thơm A, nhóm methyl CH3-9 tương quan với các carbon tại δC 115.5 (C-1), δC 116 (C-5), δC 145.4 (C-6). Proton H-5 tương quan với carbon tại δC 20.7 (C-9), δC 161.8 (C-4), δC 111.3 (C-3). Từ đó giúp xác định hợp chất T2A cũng mang khung sườn depsidone. Phổ 1H-NMR kết hợp với phổ HSQC giúp xác định hai tín hiệu proton olefin ghép trans với nhau với hằng số ghép 16.5 Hz tại δH 8.01 (δC 132.9, C-8) và δH 7.13 (δC 131.1, C-10). Ngoài ra phân tích độ dịch chuyển hóa học của 2 proton này chứng tỏ phải có sự cộng hưởng với nhóm C=O lân cận (–CH=CH-C(O)-). Trên phổ HMBC, proton H-8 tương quan với những carbon tại δC 111.3 (C-3), δC 161.8 (C-4), δC 131.1 (C-10), δC 198.4 (C-11), proton H-10 tương quan với những carbon tại δC 111.3 (C-3), δC 161.8 (C-4), δC 132.9 (C-8), δC 198.4 (C-11), δC 27.7 (C-12), giúp xác định sự hiện diện của nhóm thế but-1-en-3-onyl (-CH=CH-C(O)-CH3) tại C-3. Từ tất cả dữ liệu trên, cấu trúc của hợp chất T2A được xác định như trong Hình 3. Đây là một hợp chất mới, được đặt tên là parmosidone-F. Parmosidone-F được thử nghiệm ức chế enzyme -glucosidase [6] thực hiện bởi Đinh Minh Hiệp, Ban Quản lí khu NN chất lượng cao. Kết quả cho thấy hợp chất có hoạt tính mạnh với giá trị IC50 5.86±1.40 g/ mL. 16
  4. Năm học 2016 - 2017 Hình 3. Một số tương quan HMBC trong hợp chất T2A Bảng 1. So sánh số liệu phổ NMR của hợp chất T2A và 8’-O-methylprotocetraric acid T2A 8’-O-methylprotocetraric acid [5] N δH δC δH δC 1 112.0 112.5 2 161.3 161.5 3 111.3 112.5 4 161.8 164.4 5 6.76 (s) 116.0 6.84 (s) 117.6 6 145.9 152.2 7 161.5 164.6 8 8.01 (d, J=16.5) 132.9 10.58 (s) 192.0 9 2.33 (s) 20.7 2.42 (s) 21.8 10 7.13 (d, J=16.5) 131.1 11 198.4 12 2.35 (s) 27.7 1’ 115.5 116.5 2’ 155.2 155.9 3’ 115.7 116.3 4’ 145.9 146.0 5’ 142.5 142.6 6’ 130.7 131.4 7’ 170.5 170.8 8’ 4.49 (s) 62.2 4.50 (s) 62.8 9’ 2.44 (s) 15.5 2.40 (s) 15.0 8’-OCH3 3.23 (s) 57.4 3.22 (s) 57.9 Cả hai hợp chất được đo trong cùng dung môi DMSO-d6 17
  5. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH Hình 4. Phổ 1H-NMR của T2A Hình 5. Phổ 13C-NMR của T2A 18
  6. Năm học 2016 - 2017 Hình 6. Phổ HMBC của T2A 4. Kết luận Một hợp chất mới parmosidone-F đã được cô lập từ loài địa y Parmotrema stavoense. Parmosidone-F được thử nghiệm ức chế enzyme -glucosidase với giá trị IC50 5.86 ± 1.40 g/ mL. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Muller .K. (2001), “Pharmaceuticalli relevant metabolites from lichens”, Applied Microbiology and Biotechnology, 56, 916. 2. Boustie J., Grube M. (2007), “Lichens - a promising source of bioactive secondary metabolites”, Plant Genetic Resources, 3(2), 273287. 3. Huneck S., Yoshimura I. (1997), Identification of lichen substsances, Springer Verlag, Berlin. 4. Duong T. H., Warinthorn Chavasiri, Joel Boustie, Nguyen K. P. P. (2015), “New meta-depsidones and diphenyl ethers from the lichen Parmotrema tsavoense (Krog & Swinscow) Krog & Swinscow, Parmeliaceae”, Tetrahedron,71, 96849691. 5. Bùi Linh Chi Huỳnh, Thuc Huy Duong, Thi My Lien Do, Travis George Pinnock, Lawrence Michael Pratt, Shigeki Yamamoto, Hitoshi Watarai, Takao Tanahashi, Kim Phi Phung Nguyen (2016), “New γ-lactone carboxylic acids from the lichen Parmotrema praesorediosum (Nyl.) Hale, Parmeliaceae”. Records of Natural Products, 10(3), 332–340. 6. Ma H.Y., Gao H.Y., Sun L., Huang J., Xu X. M., Wu L.J. (2011), “Constituents with alphaglucosidase and advanced glication end-product formation inhibitory activities from Salvia miltiorrhiza Bge”, J. Nat. Med., 65(1), 37-42. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2