Mệnh vận<br />
<br />
Trại mồ côi là một tu viện nhỏ bỏ hoang gần đồi Xương rồng, một cái dốc rất gấp lên một<br />
con đường ngoằn ngoèo chạy từ ga xe lửa. Để tiết kiệm sức lừa, ông Vệ bắt tôi đi bộ cây<br />
số cuối cùng. Khi ông chào tạm biệt và để tôi ở lại là lúc tôi bắt đầu một cuộc sống mới.<br />
Đó là vào mùa thu, những thân cây gầy guộc trơ trụi trông giống như đội lính xương khô<br />
canh giữ quả đồi có khu nhà trên đó. Khi tôi đi qua cổng, chẳng ai chào hỏi tôi. Trước mặt<br />
tôi là một cái đền thờ bằng gỗ mà lớp sơn đã tróc lở hết, ở ngoài sân có một bọn con gái áo<br />
trắng quần xanh đứng thành hàng ngay ngắn như những người lính. Chúng cúi xuống<br />
ngang thắt lưng – về phía trước, quay sang phải, về phía sau, quay sang trái – cứ như là<br />
tuân lệnh theo một ngọn gió. Còn có một cảnh tượng khác lạ hơn, hai người đàn ông, một<br />
người ngoại quốc, một người Hoa. Đấy là lần thứ hai tôi nhìn thấy một người ngoại quốc<br />
ở cự ly gần. Họ đi ngang qua sân, tay cầm bản đồ theo sau là một đội quân với những cây<br />
gậy dài. Tôi sợ rằng tôi rơi vào đội quân bí mật của đảng Cộng sản. Khi tôi bước qua<br />
ngưỡng cửa, tôi suýt nhảy lên vì sợ. Xác người trong những tấm vải liệm, hai mươi hoặc<br />
ba mươi cái xác cả thảy, đứng giữa phòng dọc theo hai bức tường, một số cái xác cao, một<br />
số cái thấp. Ngay lập tức tôi nghĩ đó là những cái chết trở về. Một lần, dì Báu kể cho tôi<br />
nghe là hồi dì còn bé có một số gia đình thuê pháp sư đến làm bùa phép trên người chết<br />
buộc hồn ma quay trở lại vào nhà thờ tổ. Thầy pháp chỉ dẫn họ đi vào ban đêm, dì nói, để<br />
người chết không thể gặp một người sống nào mà ám. Ban ngày, người chết ở lại trong<br />
đền. Dì không tin vào chuyện này, cho đến khi dì nghe tiếng một pháp sư gõ mõ vào ban<br />
đêm. Thay vì ù té chạy như những dân làng khác, dì lại trốn sau một bức tường để xem rõ<br />
mọi chuyện. Cốc, cốc, và rồi dì nhìn thấy họ, sáu người tất cả, giống như những con bọ<br />
khổng lồ, nhảy lên mấy mét vào không trung. Dì không thể tin chắc vào điều mình trông<br />
thấy, dì Báu bảo tôi. Tất cả những điều mà dì biết là trong một thời gian dài, dì không còn<br />
là mình nữa. Tôi đang định co cẳng chạy thì tôi thấy một ánh sáng loé lên ở những ngón<br />
chân vàng. Tôi nhìn chăm chú hơn. Ồ, đó là tượng các vị thánh thần chứ không phải người<br />
chết. Tôi đi về phía một bức tượng kéo mảnh vải che. Thần Văn Xương với cái đầu có<br />
sừng, một tay cầm bút lông, tay cầm một cái mũ cánh chuồn sừng sững hiện ra. “Tại sao<br />
chị làm thế?” một giọng nói cất lên, tôi quay lại và thấy một cô gái nhỏ hơn tôi. “Sao lại<br />
trùm ông ấy lại?”<br />
“Thầy giáo nói rằng ông ta không có ảnh hưởng tốt với chúng ta, không nên tin vào những<br />
vị thần cũ, chỉ tin vào các thánh của đạo Thiên Chúa thôi”.<br />
“Thầy giáo của bạn đâu?”<br />
“Chị đến để gặp ai?”<br />
<br />
“Bất cứ ai nhận Lưu Linh này là một đứa trẻ bị bỏ rơi.” Cô gái chạy đi, một lát sau có hai<br />
phụ nữ nước ngoài đứng trước mặt tôi.<br />
Những người truyền giáo người Mỹ này không trông đợi được gặp tôi, mà tôi cũng không<br />
ngờ họ là người Mỹ. Và bởi tôi chưa bao giờ nói chuyện với người nước ngoài, tôi không<br />
thể nói gì chỉ nhìn họ chằm chằm. Cả hai đều để tóc ngắn, một người tóc bạch kim, người<br />
kia tóc đỏ dợn sóng, cả hai đều mang kính, chúng làm cho tôi nghĩ họ bằng tuổi nhau.<br />
“Rất tiếc là chẳng có thoả thuận nào về việc này” bà tóc trắng bảo tôi bằng tiếng Hoa.<br />
“Thật uổng là” người kia chen thêm, “hầu hết trẻ mồ côi ở đây đều ít tuổi hơn em”.<br />
Khi họ hỏi tuổi tôi, tôi vẫn chưa thể mở miệng được, tôi dùng ngón tay vẽ mấy chữ trong<br />
không khí. Họ trao đổi với nhau bằng tiếng Anh.<br />
“Em có biết đọc không?” một người hỏi, chỉ vào những hàng chữ tiếng Hoa.<br />
“Ăn cho no đừng để dành” tôi đọc.<br />
Một bà đưa cho tôi một cái bút chì và một tờ giấy. “Em có thể viết những chữ kia ra giấy<br />
không?” Tôi làm theo, cả hai cùng reo lên. “Cô bé thậm chí còn không buồn nhìn lại mặt<br />
chữ một lần nào.” Nhiều câu hỏi nữa được đặt ra. Tôi có thể dùng bút lông không? Tôi đã<br />
đọc những sách nào? Cuối cùng họ lại nói chuyện với nhau bằng tiếng của họ rồi tuyên bố<br />
là tôi có thể ở lại.<br />
Sau đó tôi được biết rằng tôi được đón nhận vừa với tư cách một học sinh với với tư cách<br />
một giáo viên phụ giảng. Chỉ có bốn giáo viên là những học sinh cũ, bây giờ sống ở một<br />
trong 36 phòng trong cả cái tu viện bỏ hoang này. Thầy giáo Phan dạy những đứa trẻ lớn.<br />
Tôi là người phụ giảng của ông. Khi ông còn là một học trò, năm mươi năm về trước, thì<br />
trường học chỉ có nam sinh. Cô giáo Hoàng dạy những bé gái ít tuổi hơn, và người chị goá<br />
của bà – chúng tôi gọi là Má Hoàng – chăm sóc những đứa bé nhất trong nhà trẻ. Có<br />
những bé gái lớn hơn giúp bà chăm sóc chúng. Cuối cùng là chị Dư, một người đàn bà<br />
thấp bé có cái lưng hơi bị gù, bàn tay thô ráp và cái giọng gay gắt. Chị ta chịu trách nhiệm<br />
về vệ sinh, trật tự và chấn chỉnh hành vi của bọn học trò trong trại mồ côi. Ngoài việc lên<br />
lịch phân công nhiệm vụ và việc tắm táp của từng người trong một tuần thì chị Dư thích<br />
lãnh đạo người nấu bếp và bà vợ của ông ta.<br />
Hai người phụ nữ truyền giáo, về sau tôi phát hiên ra là không bằng tuổi nhau. Cô Grutoff,<br />
người tóc quăn mới 32 tuổi bằng một nửa tuổi của bà kia. Cô là y tá và là hiệu trưởng. Cô<br />
Towler là giám đốc trại mồ côi, cô có trách nhiệm đi xin tiền tài trợ ở những người dành<br />
cho chúng tôi một chút tình thương. Cô cũng tổ chức những buổi cầu nguyện ngày chủ<br />
nhật, kể về sự tích các Thánh trong lịch sử Thiên Chúa giáo, chơi đàn piano trong khi dạy<br />
chúng tôi hát “giống như các thiên thần”. Ngày ấy, tôi không biết một thiên thần là gì. Và<br />
tôi cũng không biết hát hò gì.<br />
<br />
Còn về những người đàn ông ngoại quốc, họ không phải là người của Đảng Cộng sản mà<br />
là những nhà khoa học làm việc ở những cái mỏ nơi xương người Bắc Kinh được tìm thấy.<br />
Hai người ngoại quốc và mười nhà khoa học Trung Hoa sống ở dãy phía bắc cuối tu viện.<br />
Họ ăn sáng và tối ở trong đền thờ với chúng tôi. Mỏ cũng ở gần đấy, chỉ 45 phút đi lên<br />
xuống trên những con đường quanh co.<br />
Tất cả có khoảng 70 đứa trẻ, 30 đứa con gái lớn, 30 đứa con gái nhỏ và 10 em bé, hay ít<br />
hơn thì còn tuỳ thuộc vào bao nhiêu trẻ trưởng thành ra trường và bao nhiêu đứa chết đi.<br />
Phần lớn bọn con gái ở đây có hoàn cảnh như tôi, kết quả tình yêu của những người tự<br />
vận, của những cô ca nữ, của những thiếu nữ đồng trinh không chồng mà chửa. Một số<br />
đứa là những trẻ mua vui mà Cao Linh và tôi đã gặp ở khu phố ăn mày – những đứa con<br />
gái không tay không chân, những đứa bé khổng lồ, hoặc những người lùn. Còn một vài<br />
đứa trẻ lại có cha là người nước ngoài, một người Anh, một người Đức và một người Mỹ.<br />
Tôi nghĩ chúng nó đẹp lạ lùng nhưng chị Dư bao giờ cũng trêu chọc, móc máy chúng. Chị<br />
bảo những đứa con gái này thừa hưởng từ cái dòng máu phương Tây của cha chúng sự<br />
ngạo mạn vậy phải làm cho nó loãng bớt đi bằng những lời sỉ nhục. “Em có thể tự hào về<br />
những việc em làm hàng ngày” chị Dư lên lớp “chứ không phải vênh vang với những gì<br />
em được sinh ra”. Chị cũng thường nhắc nhở chúng tôi sự thương thân là không được<br />
phép. Đó là sự nuông chiều bản thân.<br />
Nếu một cô gái xị mặt ra chị Dư sẽ nói “Nhìn bé Định kia kìa. Chẳng có chân, nhưng vẫn<br />
vui cười cả ngày”.<br />
Và đôi má mũm mĩm của bé Định nhô lên gần như nuốt mất mắt nó. Nó vui sướng là chỉ<br />
có hai miếng thịt nhô ra thay cho hai cái chân. Theo chị Dư, chúng ta sẽ thấy vui hơn khi<br />
nghĩ đến một người khác có hoàn cảnh khốn khổ hơn chúng ta.<br />
Tôi cư xử như là người chị của bé Định không có chân, và bé này lại như là chị của một<br />
đứa bé hơn tên là Dung chỉ còn có một tay. Ai cũng có một mối quan hệ tương thân, tương<br />
ái như thế, có trách nhiệm với một người khác như là trong gia đình. Bọn con gái lớn và<br />
nhỏ sinh hoạt chung trong phòng khách, có ba phòng ngủ, mỗi phòng có hai mươi đứa, ba<br />
dãy giường ở mỗi phòng. Dãy đầu tiên dành cho trẻ bé nhất, dãy thứ hai cho trẻ nhỏ và<br />
dãy thứ ba cho trẻ lớn nhất. Theo cách này giường của Định ở cạnh giường của tôi và<br />
giường của Dung thì ở kề giường của Định, vị trí của mỗi người được xác định bởi trách<br />
nhiệm và sự quý mến của người khác dành cho họ.<br />
Đối với những người truyền giáo, chúng tôi là những bé gái của một vận hội mới. Mỗi<br />
một phòng có một áp phích màu đỏ với hàng chữ màu vàng tuyên bố điều đó. Vào mỗi<br />
buổi chiều trong lúc tập thể dục chúng tôi cất cao lời ca về vận mệnh mới của chúng tôi<br />
trong một bài hát do cô Towler soạn cả lời tiếng Anh lẫn tiếng Hoa.<br />
Chúng ta có thể học hành hiểu biết<br />
<br />
Chúng ta có thể lấy người mà chúng ta chọn lựa<br />
Chúng ta có thể làm việc, kiếm tiền<br />
Và một số phận chẳng ra gì là tất cả những gì chúng ta bỏ lại.<br />
Mỗi khi có một người khách đặc biệt đến thăm trường mồ côi, cô hiệu trưởng cho chúng<br />
tôi biểu diễn thơm tiểu phẩm trong khi cô Towler đệm đàn piano, một khúc nhạc đầy kịch<br />
tính, giống như một đoạn phim câm. Một nhóm con gái đưa ra những dấu hiệu liên hệ tới<br />
số phận đau khổ, thuốc phiện, nô lệ và nạn mê tín dị đoan. Chúng vấp ngã bởi những đôi<br />
chân bị trói và ngã gục không hy vọng. Sau đó là những cô gái của một vận hội mới xuất<br />
hiện như những bác sĩ. Họ chữa cho những người hút thuốc phiện, họ cởi trói cho những<br />
đôi chân bị xiềng xích bởi số phận đen tối, và họ dùng chổi để quét đi bùa chú của lối sống<br />
lạc hậu. Sau cùng họ tạ ơn Chúa và cúi chào những vị khách đặc biệt, những vị khách<br />
ngoại quốc tới thăm đất nước Trung Hoa, cũng như cảm ơn họ đã giúp đỡ nhiều cô<br />
gái vượt lên trên nghịch cảnh tiến bước với số phận mới của họ. Với tiểu phẩm này chúng<br />
tôi kiếm được khá nhiều tiền, đặc biệt là những khi chúng tôi làm cho khách rớt nước mắt.<br />
Trong những buổi giảng đạo, cô Towler bao giờ cũng nói với chúng tôi rằng chúng tôi có<br />
thể lựa chọn trở thành một tín đồ Thiên Chúa hay không. Không có ai bắt buộc chúng tôi<br />
phải tin vào Chúa Jesus, bà nói. Niềm tin của chúng tôi là phải hết sức chân thực và thành<br />
thật. Nhưng chị Dư người đã đến trại mồ côi vào lúc bảy tuổi thường nhắc nhở chúng tôi<br />
về số phận bi thảm của chị. Chị buộc phải gõ cửa ăn xin từng nhà và nếu chị không xin<br />
được đủ tiền thì chị chẳng có gì để ăn ngoài những lời chửi rủa. Một hôm khi chị phản đối<br />
vì bị bỏ đói, ông anh rể đã ném chị ra ngoài đường như một miếng giẻ rách. Dưới mái<br />
trường này, chúng tôi có thể ăn như chúng tôi muốn, chị nhấn mạnh. Chúng tôi sẽ không<br />
bao giờ phải lo lắng việc bị tống cổ ra ngoài đường. Chúng tôi có thể lựa chọn niềm tin<br />
cho mình. Tuy vậy, chị nói thêm, bất cứ đứa trẻ nào không đặt trọn niềm tin vào Chúa<br />
Jesus chỉ là một con dòi ăn thịt xác chết, và khi cái kẻ thiếu lòng tin này chết nó sẽ bị đày<br />
xuống địa ngục, thân xác nó sẽ bị lưỡi lê bằm vằm thành trăm mảnh, cho vào lò nướng<br />
chín như một con vịt quay, nó bị bắt buộc phải chịu đựng tất cả các loại tra tấn còn ghê<br />
rợn hơn cả những gì xảy ra ở vùng Mãn Châu nữa.<br />
Thỉnh thoảng tôi băn khoăn về những cô gái không chọn cho mình một niềm tin vào Chúa.<br />
Họ sẽ đi đâu sau khi họ chết? Tôi nhớ đến một đứa trẻ mà ngay cả những người truyền<br />
giáo cũng không nghĩ là nó có một số phận mới. Nó được ông nội nuôi một thời gian. Tôi<br />
thấy nó ở nhà trẻ, nơi tôi phụ việc vào mỗi sáng. Không có ai đặt tên cho nó. Má Hoàng<br />
bảo tôi đừng bồng nó lên kể cả khi nó khóc vì có một cái gì đó không ổn ở đầu và cổ nó.<br />
Nó không bao giờ kêu lên một tiếng. Nó có khuôn mặt tròn và dẹt như một cái đĩa lớn, đôi<br />
mắt thô lố, cái mũi bé tẹo và cái miệng gắn ở giữa mặt. Da nó xanh lướt như hồ dán bằng<br />
gạo, còn thân hình nó quá bé so với cái đầu bất động như một bông hoa bằng sáp. Chỉ có<br />
đôi mắt nó lắc qua lắc lại như thể quan sát một con muỗi bay qua trần nhà. Rồi một ngày,<br />
cái cũi nó thường nằm trống trơn. Má Hoàng nói bây giờ nó đã là một đứa con của Chúa,<br />
thế là tôi biết nó đã về chầu Trời. Trong suốt những năm tôi sống ở trại mồ côi tôi đã thấy<br />
sáu đứa trẻ có số phận như vậy, bao giờ cũng được nuôi bởi một người ông, sinh r a với<br />
“một khuôn mặt chung” như má Hoàng nói. Cứ như thể đó là một người quay lại cõi thế<br />
nhiều lần với cùng một thân xác vì lỗi lầm của một người khác. Mỗi lần nó đến tôi lại đón<br />
<br />
chào đứa trẻ ấy trở về như một người bạn cũ. Mồi lần nó rời bỏ thời gian này lần nữa tôi<br />
lại khóc.<br />
Bởi vì tôi xuất thân từ một gia đình làm mực, tôi là đứa trẻ viết chữ đẹp nhất từ trước đến<br />
nay trong trường. Thầy Phan nói thế. Ông thường kể lại cho học sinh nghe lịch sử triều<br />
nhà Thanh, mọi việc đã trở nên thối nát như thế nào, kể cả hệ thống khoa cự Tuy vậy ông<br />
cũng nói về quá khứ xa xưa với một tình cảm luyến tiếc nhẹ nhàng. Ông thường bảo tôi<br />
“Lưu Linh, nếu con sinh làm phận trai thời đó thế nào con cũng trở thành một bậc đại nho<br />
đấy”. Đó chính là những điều ông đã nói ra, ông còn nói thêm là chữ tôi còn đẹp hơn cả<br />
chữ Khải Tĩnh con trai ông do chính ông dạy dỗ.<br />
Khải Tĩnh là một nhà địa chất, một người có nét chữ rất đẹp, đặc biệt khi đó lại là một<br />
người có nửa thân bên phải bị di chứng của bệnh bại liệt khi anh còn bé. May cho anh, khi<br />
anh bị sốt bại liệt, cả nhà đã dốc hết tiền bạc dành dụm cả đời thuê những thầy thuốc tây y<br />
và đông y tốt nhất để chữa chạy cho anh. Kết quả là anh đã qua khỏi, chỉ hơi bị thọt và<br />
một bên vai bị lệch nhẹ. Sau đó những người truyền giáo đã giúp anh được vào học ở một<br />
trường đại học nổi tiếng ở Bắc Kinh để trở thành một nhà địa chất. Sau khi mẹ mất anh trở<br />
về nhà để chăm sóc cha già và làm việc tại mỏ.<br />
<br />
Hàng ngày anh đạp xe đạp từ trại mồ côi ra mỏ và trở về, đạp xe thẳng đến cửa lớp học<br />
của cha anh. Thầy Phan sẽ nhảy lên yên sau xe rồi con trai ông đạp ra khỏi lớp đến dãy<br />
cuối tu viện, bọn học sinh và các giáo viên sẽ nói với theo.<br />
“Cẩn thận kẻo ngã!”<br />
Chị Dư hết lòng ngưỡng mộ anh Tĩnh. Một lần chị đưa anh ra làm gương và nói “Nhìn coi<br />
đấy! Các em thấy các em có thể đặt cho mình một mục tiêu giúp đỡ người chung quanh<br />
còn hơn là trở thành một gánh nặng cho người khác”. Một lần khác tôi nghe chị nói “Thật<br />
là một chuyện đau lòng khi một chàng trai anh tuấn như vậy chân hơi bị thọt!” có lẽ chị<br />
nói vậy để an ủi học trò nhưng trong suy nghĩ của tôi chị quan tâm đến nỗi đau của mình<br />
nhiều hơn những chuyện khác đơn giản chỉ bởi vì anh sinh ra rất đẹp trai. Sao chị Dư cũng<br />
như những người khác có thể nghĩ thế được? Giả sử một người giàu có mất của thì điều đó<br />
có đáng sợ hơn một người nghèo mất của sao?<br />
Tôi hỏi một cô gái lớn hơn về điều này, cô ta đáp “Một câu hỏi ngớ ngẩn. Tất nhiên rồi!<br />
một người đẹp trai và giàu có sẽ mất nhiều hơn chứ.” Tuy vậy điều đó hình như không ổn<br />
đối với tôi. Tôi nghĩ đến dì Báu. Cũng giống như Khải Tĩnh, dì sinh ra với một vẻ đẹp<br />
ngời ngời và sau đó cả khuôn mặt của dì bị huỷ hoại. Tôi nghe mọi người nói đi nói lại<br />
một điều. “Thật là kinh khủng khi mang một khuôn mặt như thế. Chẳng thà cô ấy chết<br />
quách còn hơn!”. Tôi có cảm thấy như thế nếu tôi không yêu thương dì không? Tôi nghĩ<br />
đến cô gái ăn mày mù loà. Ai là người sẽ nhớ thương cô ấy?<br />
Bất thình lình tôi muốn đi tìm cô gái mù ấy. Cô có thể nói chuyện với dì Báu hộ tôi. Dì có<br />
thể cho tôi biết dì đang ở đâu. Dì đang lang thang nơi Tận cùng thế giới hay dì bị nhốt<br />
trong lọ dấm? Còn lời nguyền nữa? Nó có mau chóng đi tìm tôi không? Nếu tôi chết vào<br />
lúc này, ai là người sẽ nhớ thương tôi trên đời này? Ai là người đón chào tôi ở thế giới bên<br />
<br />