intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Con người văn hóa trong tư tưởng của một số danh nhân dân tộc -1

Chia sẻ: Pucanguyen Puca | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

128
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

So với một số nước có nền văn minh phát triển sớm như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Tây Âu thì Việt Nam không có những học thuyết tư tưởng lớn có vai trò chi phối sự phát triển xã hội như Nho gia, Đạo gia...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Con người văn hóa trong tư tưởng của một số danh nhân dân tộc -1

  1. Con người văn hóa trong tư tưởng của một số danh nhân dân tộc -1 Phần 1 So với một số nước có nền văn minh phát triển sớm như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Tây Âu thì Việt Nam không có những học thuyết tư tưởng lớn có vai trò
  2. chi phối sự phát triển xã hội như Nho gia, Đạo gia... Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam cũng có những nhà tư tưởng tiêu biểu của mình. Tư tưởng của họ tuy chưa được trình bày một cách hệ thống như những học thuyết lớn nhưng lại chứa đựng không ít những giá trị sâu sắc. Những giá trị đó không những đã là cơ sở cho tư duy dân tộc trong một thời gian dài mà còn có giá trị tích cực nhất định trong thời đại ngày nay. Tiêu biểu phải kể đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trường Tộ ... Các ông sống trong những giai đoạn lịch sử khác nhau vì thế có những quan điểm khác nhau rất cơ bản nhưng có một điểm chung, các ông đều là những người đại biểu cho trí tuệ và tinh thần Việt Nam trong thời đại của mình. Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, sinh năm 1380, là con trai của một đại quan triều Hồ, cháu ngoại của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Năm 20 tuổi ông thi đậu Thái học sinh (Tiến sĩ) triều Hồ, được sung chức Ngự sử đài chánh chưởng. Khi quân Minh xâm lược nước ta, ông đã tham gia phong trào Lam Sơn, phò giúp Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước. Trong thời gian kháng Minh, ông là quân sư của Lê Lợi. Trong thời kỳ đầu của triều Lê, ông giữ chức Nhập nội hành khiển, kiêm Thượng thư bộ Lại và chức Giám nghị Đại phu, kiêm Tri tam quán sự, chức Hàn lâm viện thừa chỉ kiêm Quốc tử giám. Chính hoàn cảnh lịch sử, hoạt động thực tiễn, thiên tài trí tuệ và nhân cách vĩ đại của ông đã làm cho tư tưởng của ông có nhiều giá trị không chỉ đối với đương thời mà còn có ý nghĩa mãi về sau. Sách lịch sử tư tưởng Việt Namviết: "Tên tuổi của ông sáng chói trên cuốn sử vàng của dân tộc. Có được vị trí đó, không những do cuộc đời, đức độ và ý thức vì dân, vì nước của ông, mà quan trọng hơn là do tư tưởng của ông đã đạt tới tầm cao của thời đại, ông đã khái quát được những vấn đề có tính quy luật của công cuộc cứu nước và dựng nước, chỉ ra được tầm quan trọng của nhận thức lý luận trong hoạt động thực tiễn, từ đó nâng tư duy của dân tộc lên một trình độ mới". Con người và văn hoá không tách rời nhau Nguyễn Trãi không bàn đến nguồn gốc con người, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên mà chủ yếu bàn đến con người với các mối quan hệ xã hội trên lập trường
  3. Nho gia phong kiến. Chính vì thế, con người trong tư tưởng của ông là con người văn hoá, thiên về các giá trị văn hoá tinh thần, lấy đạo đức nhân nghĩa làm nền tảng, đó là con người thuộc tầng lớp trên, nắm quyền cai trị xã hội. Nói cách khác, con người trong tư tưởng Nguyễn Trãi là con người thuộc giai cấp phong kiến thống trị. Vì vậy, trong đó tất yếu có những yếu tố giá trị nhân văn, đồng thời cũng có những yếu tố mang tính hạn chế lịch sử giai cấp. Từ các di sản của Nguyễn Trãi có thể thấy nhân nghĩa là khái niệm được ông trân trọng nhất, bàn tới nhiều nhất. Đó là cơ sở cho niềm tin, ý nghĩa cuộc sống, là nguồn gốc của sức mạnh chính nghĩa. Theo ông, người cầm quyền, kẻ làm tướng mưu tính việc lớn, gánh trọng trách trước dân phải xuất phát từ nhân nghĩa mà xác định chủ trương đường lối và hành động cho phù hợp. Chỉ có như vậy mới có thể thành công, mang lại hạnh phúc cho dân, tránh tai họa bị thất bại hay huỷ diệt. Tư tưởng nhân nghĩa của ông thể hiện tập trung trong các tác phẩm ông viết trong thời kỳ kháng chiến chống Minh. Điểm nổi bật trong tư tưởng nhân chính của Nguyễn Trãi thời kỳ này là phải cứu dân. Nguyễn Trãi đã khéo sử dụng những luận điểm trong hệ tư tưởng của bọn xâm lược để chỉ ra sai lầm của chúng và cảm hoá chúng. Trong Đại cáo bình Ngô ông viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Trong thư trả lời Phương Chính, Nguyễn Trãi viết: "Đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của". "Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”, "Đem quân nhân nghĩa đi đánh giặc cốt ở yên dân". Ông căm giận quân giặc vì chúng “thui dân đen trên ngọn lửa hung tàn, hầm con đỏ dưới hố tai ương". Nhưng khi kẻ địch đã ở bước đường cùng, đã đầu hàng thì ông lại không giết chúng để hả giận mà còn tạo điều kiện để chúng được rút về nước một cách dễ dàng. Bởi lẽ, "trả thù báo oán là lẽ thường tình của mọi người, mà không thích giết người là bản tâm của người nhân". Cũng tương tự như vậy, đối với kẻ lầm đường, lạc lối theo giặc hoặc phạm tội, ông vẫn chủ trương khoan hồng để cứu vớt. Thái bình lập lại, tư tưởng nhân chính được Nguyễn Trãi sử dụng tập trung vào việc giáo dục tầng lớp quan lại vừa bước ra khỏi chiến tranh. Ông cho rằng trách nhiệm của nhà cầm quyển là phải nuôi dân, chăn dân, huệ dân, làm cho dân nhanh chóng thoát khỏi đau khổ bởi sự áp bức bóc lột của bọn ngoại xâm, bởi sự tàn phá của chiến tranh.
  4. Hơn ai hết, ông thấu hiểu nỗi đau khổ của người dân vì chính ông đã từng trải qua nỗi gian nan mà quân thù gây ra. Điều làm ông xúc động nhất là cảnh đói cơm, rách áo của con người. Ông cho rằng việc cấp bách nhất là phải làm sao cho dân không đói, không rách, trên cơ sở đó đưa dân đến với lễ nghĩa, đến với nếp sống có trật tự, kỷ cương. Tư tưởng của Nguyễn Trãi về con người văn hoá thể hiện tập trung trong quan niệm về đạo làm người. Đạo làm người của ông là đạo Nho, là thuyết cương thường. ông cho cương thường là biểu hiện cao đẹp nhất của con người, là đạo của con người. "Nẻo xưa nay cũng một đường, đây chen chóc nẻo tam cương, đạo này để trong trời đất, nghĩa ấy bền chưng đá vàng" càng trải nghiệm ông càng thấy giá trị của đạo cương thường: " Gẫm hay mùi đạo các chưng ngon, nghìn kiếp dầu ăn vẫn hãy còn. Nhật nguyệt dễ qua bên sáng, cương thường khôn biết tấc son". Ngay cả khi ông bị nhà Lê ngược đãi, phải ở ẩn ở Côn Sơn ông vẫn cho rằng cương thường là cái quý giá nhất, là nguyên tắc sống mà con người không được quên: "Chữ học ngày xưa quên hết dạng, chẳng quên có một chữ cương thường". Theo thuyết cương thường, Nguyễn Trãi cho rằng phẩm chất trung và hiếu là quan trọng nhất. Ông tha thiết với trung hiếu, yêu cầu từ quan đến quân phải thực hiện trung hiếu. Riêng ông, chỉ có một lòng trung hiếu, "mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen", "quân thân" là vị thuốc chữa nhiều bệnh. Ngoài trung hiếu ra, trong xã hội còn nhiều mối quan hệ khác. Do lợi ích cá nhân, trong xã hội có giai cấp chi phối mà các quan hệ đó của con người trở nên hết sức phức tạp. Ghen ghét, tranh chấp để được phần hơn, lo lót bề trên, chà đạp kẻ dưới là điều tất yếu xảy ra, vì thế con người phải chịu nhiều đau khổ. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Trãi quan niệm một nếp sống có văn hoá cao đẹp theo nguyên lý của Nho gia là lý tưởng. Nhưng làm thế nào để có được một nếp sống văn hóa như vậy lại là cả một vấn đề xem ra còn phức tạp hơn nữa. Nguyễn Trãi đã khẳng định thêm một lần nữa nguyên tắc đạo đức tất đẹp trong truyền thống của dân tộc: Đó là chịu thiệt về mình, nhường cho người khác phần hơn để cầu lấy sự hoà thuận. Bên cạnh những yêu cầu làm hết phận sự, cần mẫn, hết trung, hết hiếu, bỏ thói tham ô, sửa trừ lười biếng, ông còn khẩn thiết yêu cầu sự khiêm nhường, chịu thiệt không bất nghĩa. ông nói: " Ngõ ốc nhường khiêm là mỹ đức, Đôi co ai dễ kém chi ai”. “Khiêm nhường ấy mới miều quân tử, Ai thấy Di, Tề có thửa tranh"?
  5. Điểm đáng chú ý là những đức tính mà Nguyễn Trãi cho rằng phải cần tu dưỡng lúc bấy giờ, theo yêu cầu của xã hội, không phải toàn bộ Ngũ thường Nho gia mà chủ yếu là Nhân, Trí, Dũng. Ông đã ít nhiều thoát khỏi những ràng buộc nặng nề, kìm hãm tính tích cực, chủ động của con người, không đề cao nghĩa và lễ. Chính vì vậy, các tác giả sách Lịch sử Việt Nam đã đánh giá rằng đạo làm người của Nguyễn Trãi là Nho nhưng không phải Nho nguyên thuỷ, Nho Hán hay Nho Tống. ở đó không có tư tưởng chính danh, tôn ty trật tự của Khổ, Mạnh, cũng không có màu sắc thần bí của Hán Nho, không có những luân lý khắc nghiệt của Tống Nho.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2