YOMEDIA
Con quay hồi chuyển chứng minh Einstein đã đúng
Chia sẻ: Trần Lê Kim Yến
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:6
113
lượt xem
11
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Einstein một lần nữa đã đúng. Đúng là có võng xoáy không gian – thời gian xung quanh Trái đất, vì hình thù của nó khớp chính xác theo dự đoán từ thuyết tương đối của ông.
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Con quay hồi chuyển chứng minh Einstein đã đúng
- Con quay hồi chuyển chứng minh
Einstein đã đúng
Einstein một lần nữa đã đúng. Đúng là có võng xoáy không gian – thời
gian xung quanh Trái đất, vì hình thù của nó khớp chính xác theo dự đoán từ
thuyết tương đối của ông.
Các nhà nghiên cứu đã xác nhận điều này hôm 4 tháng 5 trong cuộc họp báo
tại trụ sở NASA, nơi họ công bố các kết quả được chờ đợi từ lâu của nhiệm vụ
Gravity Probe B (GP-B).
“Chúng ta đã hoàn thành thí nghiệm lịch sử này để kiểm chứng lý thuyết về vũ trụ
của Einstein, và Einstein đã thắng”, khẳng định từ nhà vật lý Francis Everitt của
Đại học Stanford, trưởng dự án Gravity Probe B của NASA.
Kết quả
Sau 31 năm nghiên cứu và phát triển, 10 năm chuẩn bị cho chuyến bay vào vũ trụ,
1,5 năm thời gian bay trong không gian, và 5 năm phân tích dữ liệu, cuối cùng
nhóm nghiên cứu GP-B đã đạt được những kết quả thí nghiệm chính thức cuối
cùng cho cuộc kiểm chứng lịch sử đối với thuyết tương đối rộng năm 1916 của
Einstein. Bản tóm tắt báo cáo của nhóm nghiên cứu như sau:
- Vệ tinh Gravity Probe B, được phóng lên không gian ngày 20 tháng 4 năm 2004,
nhằm kiểm tra hai dự đoán cơ bản từ Thuyết tương đối Rộng của Einstein về hiệu
ứng võng (geodetic effect) và hiệu ứng kéo khung (frame-dragging effect), [thí
nghiệm] dựa trên các con quay luân chuyển (gyroscope) trên quỹ đạo Trái đất,
được duy trì trong nhiệt độ siêu lạnh. Dữ liệu được bắt đầu thu thập từ ngày 14
tháng 8 năm 2005. Việc phân tích dữ liệu từ 4 con quay luân chuyển chỉ ra mức
lệch võng 6,601.8±18.3 mas/năm, và mức lệch kéo khung là -37:2±7.2 mas/năm,
trong khi dự đoán tương ứng của thuyết tương đối rộng là -6,606.1 mas/yr and -
39.2 mas/yr, (‘mas’ là milliarc-giây; 1 mas= 4.848 X10-9 radian, hay 2.778 X10-7
độ).
Bảng dữ liệu và đồ thị dưới đây cung cấp kết quả số liệu từ mỗi con quay luân
chuyển, số bình quân gia quyền của cả 4 con quay, và dự đoán được Leonard Schiff,
nhà vật lý của Đại học Stanford tính toán theo thuyết tương đối rộng của Einstein.
Gravity Probe B — Kết quả Thí nghiệm Chính
thức
rW-E
Các rN-S (Đo (Đo hiệu ứng
con quay hiệu ứng Võng) Kéo Khung)
Kết quả đo được ở từng con quay luân chuyển
- -
Con 6,588.6±31.7 41.3±24.6
quay #1 mas/năm mas/năm
Con - -
quay #2 6,707.0±64.1 16.1±29.7
- mas/năm mas/năm
- -
Con 6,610.5±43.2 25.0±12.1
quay #3 mas/năm mas/năm
- -
Con 6,588.7±33.2 49.3±11.4
quay #4 mas/năm mas/năm
Bình quân gia quyền trên cả 4 con quay
- -
Tất cả 6,601.8±18.3 37.2±7.2
4 con quay mas/yr mas/năm
Giá trị Schiff dự đoán theo thuyết Einstein
Con
quay trên lý -6,606.1 -39.2
thuyết mas/năm mas/năm
- Trục tung: Độ lệch Bắc – Nam; trục hoành:
độ lệch Tây – Đông; đơn vị: mas/năm
Trong đồ thị trên, khu vực bên trong mỗi hình elip đại diện cho khoảng tin cậy
95% (95% confidence interval) cho số liệu đo đạc của mỗi con quay luân chuyển
đối với hiệu ứng võng và hiệu ứng kéo khung. Chiều cao của hình elip thể hiện
khoảng tin cậy 95% cho hiệu ứng võng còn chiều rộng đại diện khoảng tin cậy 95%
hiệu ứng kéo khung. Hình elip màu đen đại diện cho bình quân gia quyền số liệu đo
được từ cả 4 con quay luân chuyển. Ngôi sao đen nằm ở trung tâm hình elip đen
đại diện cho con số tính toán chính xác theo thuyết tương đối của Einstein đối với
hiệu ứng võng và hiệu ứng kéo khung.
Một chặng đường kỳ vĩ
Ý tưởng về nhiệm vụ GP-B được đề xuất từ năm 1959, nhưng dự án này phải chờ
đợi cho tới khi các công nghệ cần thiết liên quan được nghiên cứu ra.
“GP-B, về khái niệm thì đơn giản, nhưng đòi hỏi công nghệ cực kỳ phức tạp”, nhận
xét từ Rex Geveden, cựu giám đốc chương trình GP-B, nay là chủ tịch công ty
Teledyne Brown Engineering tại Huntsville, bang Alabama.
“Ý tưởng đã có từ 3 tới 4 thập kỷ trước khi con người có đủ trình độ công nghệ để
thực hiện. 13 công nghệ tinh xảo được sinh ra trong quá trình nghiên cứu thực
hiện dự án GP-B. Quả cầu luân chuyển có thể coi là vật thể tròn nhất mà con người
từng chế tạo được. Chênh lệch lớn nhất giữa các đường kính của quả cầu chỉ vào
khoảng 2 phần 10 của một phần triệu inch.”
- Thí nghiệm Gravity Probe B của
NASA:
1. Góc quay của từng con quay được giám
sát để theo dõi những thay đổi gây ra bởi
các hiệu ứng tiếp theo thuyết tương đối
rộng
2. Độ lệch kéo khung
3. Độc lệch võng
4. Các con quay luân chuyển trên vệ tinh
Gravity Probe B được dữ trong hộp chân
không đặc biệt được thiết kế để chống lại
mọi tạp lực
5. NASA phóng vệ tinh GP-B vào ngày 20
tháng 04, nhưng bắt đầu cấp kinh phí cho
dự án này từ năm 1963, tức là khá lâu
trước khi Neil Armstrong đặt chân lên Mặt
trăng
Những sáng chế sinh ra từ GP-B được dùng trực tiếp để cải tiến Hệ thống Định vị
Toàn cầu (GPS). Một dự án khác của NASA có tên gọi Cobe có nhiệm vụ chụp lại
hình ảnh vũ trụ ở khoảng dưới 1 triệu năm sau Big Bang, thành công được là nhờ
công nghệ được phát triển ra từ GP-B.
- Khoảng 100 sinh viên đã hoàn thành luận án PhD nhờ tham gia vào các hạng mục
của dự án, trong suốt quá trình nghiên cứu phát triển, chế tạo, và thực hiện chuyến
bay của vệ tinh trong không gian.
Hơn 350 sinh viên đại học cũng tham gia vào GP-B, bao gồm một người sau này trở
thành nữ du hành vũ trụ đầu tiên của Mỹ, Sally Ride. Một người khác là Eric
Cornell, đoạt giải Nobel Vật lý năm 2001.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...