Nguyễn Thị Minh Thu<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
133(03)/1: 121 - 125<br />
<br />
CON VẬT TRONG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ CON VẬT<br />
CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC<br />
Nguyễn Thị Minh Thu*<br />
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài báo nghiên cứu về hai hình tượng con vật trung tâm trong truyện kể dân gian một số dân tộc<br />
thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam là con Hổ và con Rắn và tín ngưỡng thờ con vật của các dân<br />
tộc. Theo kết quả khảo sát, con hổ xuất hiện phổ biến và là nhân vật chính trong tiểu loại truyện cổ<br />
tích loài vật. Ngoài ra, hổ còn xuất hiện với vai trò là nhân vật trợ giúp thần kỳ trong một số mô típ<br />
truyện cổ tích như mô típ truyện về người mồ côi, người con riêng. Hình ảnh con rắn xuất hiện phổ<br />
biến trong thể loại truyền thuyết và một số mô típ truyện cổ tích như truyện về người mồ côi,<br />
truyện về người em gái út. Với tần số xuất hiện phổ biến trong nhiều thể loại, tiểu loại và mô típ<br />
truyện kể dân gian, hình ảnh con hổ và con rắn đã tạo ra những dấu ấn riêng có trong truyện kể các<br />
dân tộc. Điều này phản ánh mối quan hệ gắn bó giữa các con vật với đời sống thực tế, đồng thời<br />
cũng góp phần minh chứng cho tín ngưỡng coi trọng và thờ cúng các con vật ở một số dân tộc.<br />
Các dân tộc tiêu biểu như dân tộc Thái, Tày, Mường từ lâu vẫn duy trì một số tục thờ các con vật<br />
trong đó có hai loài hổ và rắn với một niềm tin thiêng liêng về sự phù trợ tốt lành cho đời sống con<br />
người.<br />
Từ khóa: Con vật, con Hổ, con Rắn, truyện kể dân gian, dân tộc thiểu số, miền núi phía Bắc<br />
<br />
Miền núi phía Bắc là nơi trú cư lâu đời của rất<br />
nhiều dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Thái,<br />
Mường, Hmông, Dao, Giáy,*Cao Lan, Sán<br />
Dìu, Hà Nhì, Lô Lô, Khơ Mú, Xinh Mun, Pu<br />
Péo… thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau<br />
như: Việt- Mường, Tày- Thái, Hmông- Dao,<br />
Tạng- Miến, Môn- Khơme. Trong quá trình<br />
cộng cư lâu dài, các dân tộc thiểu số miền núi<br />
phía Bắc tạo ra một nền văn hóa, văn học và<br />
truyện kể mang nhiều đặc điểm chung do có<br />
sự giao lưu, tiếp nhận và ảnh hưởng lẫn nhau<br />
nhưng đồng thời ở mỗi dân tộc, mỗi nhóm<br />
dân tộc vẫn có những nét khác biệt nhất định<br />
phản ánh trình độ phát triển khác nhau. Bên<br />
cạnh đó, trong đời sống, các dân tộc thiểu số<br />
miền núi phía Bắc một mặt giữ gìn những nét<br />
văn hóa tộc người, mặt khác cũng có xu<br />
hướng tiếp cận và hòa nhập cả với cuộc sống,<br />
văn hóa của dân tộc Kinh. Qua khảo sát trên<br />
20 tổng tập, tuyển tập và tập truyện cổ của<br />
các dân tộc thiểu số đã được sưu tầm, biên<br />
soạn và xuất bản, chúng tôi thấy truyện kể<br />
dân gian của các dân tộc thiểu số miền núi<br />
phía Bắc còn được lưu giữ phong phú với các<br />
*<br />
<br />
Tel: 0982 810816<br />
<br />
thể loại thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ<br />
tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn và có mặt<br />
ở nhiều dân tộc từ những dân tộc đông dân cư<br />
như Tày, Thái, H’mông, Dao...đến những dân<br />
tộc ít cư dân hơn như Mảng, Giáy… Trong<br />
phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung tìm<br />
hiểu và lý giải việc sử dụng phổ biến hình ảnh<br />
con Hổ và con Rắn trong các thể loại truyện<br />
kể dân gian của một số dân tộc thiểu số miền<br />
núi phía Bắc.<br />
Qua khảo sát, chúng tôi đặc biệt ấn tượng với<br />
hình ảnh con Hổ trở đi trở lại trong rất nhiều<br />
nhóm truyện kể. Trong thần thoại, Hổ xuất<br />
hiện trong mô típ truyện Người làm chủ muôn<br />
loài với nội dung kể về việc loài người thắng<br />
cuộc trong sự kiện Vua trời giả chết và được<br />
Vua trời giao quyền làm chủ thế gian và vì<br />
sao loài Hổ thua cuộc, ghen tị và luôn rình ăn<br />
thịt loài người. Trong bộ phận cổ tích loài vật,<br />
Hổ xuất hiện thường xuyên trong hai mối<br />
quan hệ với các loài vật khác và với con<br />
người. Ở đó, con hổ được miêu tả với những<br />
đặc tính chủ yếu là to lớn, dữ dằn nhưng ngốc<br />
nghếch, dễ bị thua cuộc. Khảo sát 49 truyện<br />
cổ tích loài vật của 9 dân tộc, chúng tôi thống<br />
kê được 16 cốt truyện (chiếm khoảng 33%)<br />
121<br />
<br />
Nguyễn Thị Minh Thu<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
của 8 dân tộc có nhân vật hổ xuất hiện. Trong<br />
các mô típ truyện cổ tích thần kỳ như truyện<br />
về người mồ côi, truyện về người con riêng,<br />
Hổ là lực lượng thần kỳ hỗ trợ đắc lực cho<br />
các nhân vật chính diện vượt qua thử thách,<br />
khó khăn. Chúng tôi xin phân tích cụ thể qua<br />
hai dạng thức đặc biệt của nhân vật trợ giúp<br />
thần kỳ trong kiểu truyện về người con riêng<br />
của các dân tộc mà chúng tôi đã khảo sát.<br />
Dạng một là người mẹ đã chết hiện về và các<br />
hình thức hóa thân của người mẹ, trong đó có<br />
hình thức mẹ hóa hổ. Dạng hai, nhân vật trợ<br />
giúp là loài vật được thần kỳ hóa, trong đó hổ<br />
cũng là loài vật trợ giúp thần kỳ xuất hiện<br />
nhiều hơn cả. Trong 18 truyện cổ tích về<br />
người con riêng xuất hiện nhân vật trợ giúp<br />
thần kỳ, chúng tôi thống kê được 8 truyện<br />
(chiếm 45%) có nhân vật được thể hiện trong<br />
hình ảnh Con hổ. Các truyện cụ thể là: Mẹ<br />
con nàng Hổ, Nàng Khao nàng Đăm, Ý ưởi- Ý<br />
noọng (Thái), Người dì ghẻ độc ác (Dao), Nhị<br />
và Tươi, Người con riêng, Dì ghẻ con chồng<br />
(Tày), Di lun Di la (Khơ Mú)…Con hổ ở đây<br />
biết nói, biết bày tỏ cảm xúc yêu thương, biết<br />
phân biệt kẻ xấu người tốt và nhất là luôn<br />
giúp đỡ, trợ giúp cho nhân vật người con<br />
riêng trong những hoàn cảnh khó khăn. Đặc<br />
điểm này không chỉ khác với truyện Tấm<br />
Cám của người Việt mà còn khác với truyện<br />
về người con riêng của nhiều dân tộc thiểu số<br />
khác. Truyện Ú và Cao của dân tộc Hơ- rê,<br />
người mẹ chết đi vẫn trở về giúp đỡ đứa con<br />
mặc dù không được kể rõ về hình dạng nhưng<br />
ta có thể nhận thấy những thuộc tính của loài<br />
cá. Truyện kể rằng mẹ Ú chết, vua Thủy Tề<br />
thương là người hiền đức, bèn làm phép cho<br />
sống lại và giữ luôn ở dưới nước (…). Khi Ú<br />
đến bờ sông, lăn khóc gọi thì mẹ Ú nổi lên, cho<br />
con bú no (…). Cha Ú quyết giết vợ lần thứ hai<br />
liền rình ở bờ sông đợi khi mẹ Ú ngồi nói<br />
chuyện với con liền ném móc câu vào người.<br />
Ngoài ra, trong mô típ truyện về người mồ<br />
côi, chúng tôi còn bắt gặp mô típ người lấy<br />
hổ, người làm bạn với hổ, hổ giúp người, tiêu<br />
biểu như một số truyện: Hai anh em mồ côi,<br />
122<br />
<br />
133(03)/1: 121 - 125<br />
<br />
Chồng xấu chồng đẹp (Dao), Làm anh em với<br />
hổ (Tày).<br />
Việc lựa chọn con Hổ với tần số phổ biến như<br />
vậy có thể xuất phát từ cơ sở thực tế và yếu tố<br />
tâm lý tín ngưỡng trong đời sống văn hóa của<br />
các dân tộc. Cộng cư trong khu vực có địa<br />
hình đặc trưng là hiểm trở, khắc nghiệt với<br />
nhiều đồi núi cao, rừng rú rậm rạp nên có thể<br />
trong đời sống lao động và sinh hoạt, các dân<br />
tộc thường xuyên bắt gặp Hổ. Trong đời sống<br />
tự nhiên, hổ là loài dã thú có sức mạnh, to<br />
khỏe, nhanh nhẹn, và cũng vô cùng hung dữ,<br />
táo bạo, liều lĩnh với tiếng gầm rống rung<br />
chuyển núi rừng thường khiến cho muôn loài<br />
khiếp đảm. Chính vì thế, Hổ được coi là chúa<br />
tể chốn sơn lâm. Từ thực tế ấy, con Hổ đã đi<br />
vào đời sống tín ngưỡng, tâm linh của đồng<br />
bào các dân tộc. Có thể từ cảm giác sợ hãi,<br />
con người đi đến sùng bái, tôn thờ và coi hổ<br />
như con vật linh thiêng. Hổ trở thành biểu<br />
tượng của sức mạnh, uy quyền và tâm linh.<br />
Yếu tố tâm lý này đã trở thành một nét văn<br />
hóa đặc trưng ở các quốc gia Châu Á, đặc biệt<br />
ở Việt Nam và điển hình là ở các dân tộc<br />
miền núi phía Bắc. Đã có bài viết chỉ ra rằng:<br />
Người Việt Nam kính sợ hổ, gọi hổ bằng Ông<br />
Ba Mươi, ông cọp, ông hổ, ông khái, ngài,<br />
chúa tể sơn lâm, chúa sơn lâm, chúa tể rừng<br />
xanh, mãnh hổ rừng xanh, mãnh chúa sơn<br />
lâm, mãnh hổ, ngoài ra, tùy địa phương, tùy<br />
sinh hoạt, quan hệ giữa người và hổ không<br />
đồng nhất ở các vùng miền. Tuy rằng ở đâu<br />
cũng sợ cọp, kiêng dè gọi bằng ông cọp, ông<br />
ba mươi, ông thầy, ông kễnh, ông Cả… nhưng<br />
dường như người dân Bắc Bộ kinh sợ cọp hơn<br />
người dân Đồng bằng sông Cửu Long (…)<br />
trong tâm lý người dân miền Bắc và miền<br />
Nam, cách tiếp cận với con cọp, hay Thần<br />
Hổ, có phần khác nhau. Phía Bắc, từ đồng<br />
bằng lên Mạn Ngược, có nơi sùng bái hùm<br />
thiêng, thờ phụng đến mê tín. Người dân miền<br />
Nam cũng sợ cọp, nhưng chỉ là nỗi sợ hãi cụ<br />
thể, vật chất mà không sùng tín. Điều này có<br />
thể khẳng định được qua việc đưa hình ảnh<br />
con Hổ vào các truyện kể khá rõ nét. Trong<br />
thực tế, một số dân tộc thiểu số miền núi phía<br />
<br />
Nguyễn Thị Minh Thu<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Bắc như người Khơ mú, người Thái Tây Bắc<br />
vẫn thờ Hổ qua các tục như kiêng giết hổ, ăn<br />
thịt hổ, và hàng năm đến Tết còn cúng thịt<br />
sống cho hổ. Họ còn cho rằng nghe được<br />
tiếng hổ gầm vang trên đồi cao là niềm hân<br />
hoan, sảng khoái nhất của bản mường. Khi<br />
gặp hổ chết, người Khơ mú thuộc họ Rvai<br />
phải khóc than thật sự như tổ tiên của mình<br />
qua đời. Người ta tin rằng khi chết đi, họ sẽ<br />
hóa thành kiếp hổ. Khi còn sống, người ta<br />
kiêng đắp chăn sặc sỡ như lông hổ, khi chết,<br />
người ta đắp cho chiếc chăn khác mầu lông<br />
hổ và đặt chiếc chăn giống mầu lông hổ bên<br />
cạnh người chết để hồn được siêu thoát và trở<br />
về với hổ, có nghĩa là về với tổ tiên.<br />
Với niềm tin ấy, các dân tộc đã thần thánh<br />
hóa con hổ thành con vật linh thiêng phù trợ<br />
người tốt, trừng phạt kẻ ác, và quan hệ giữa<br />
người với Hổ đã gần gũi, thích nghi hơn. Phải<br />
khẳng định rằng, hình ảnh con hổ đã tạo ra<br />
một nét riêng trong truyện kể các dân tộc<br />
thiểu số miền núi phía Bắc và đó là kết quả<br />
của sự phản ánh một mặt đời sống thực tế mặt<br />
khác là đời sống tín ngưỡng của đồng bào.<br />
Góp phần tạo nên nét đặc sắc trong hệ thống<br />
hình ảnh đặc thù của truyện cổ tích các dân<br />
tộc miền núi phía Bắc, còn phải kể đến hình<br />
ảnh con Rắn và các biến thể cùng họ như<br />
Trăn, Rồng, Thuồng luồng, Vua Khú. Rắn là<br />
loài vật đi vào văn hóa nhân loại với nhiều<br />
cách thức, biểu hiện khác nhau và vì thế cũng<br />
mang những ý nghĩa biểu trưng khác nhau.<br />
Với một dân tộc xuất phát từ nền sản xuất<br />
nông nghiệp lúa nước như Việt Nam thì Rắn<br />
là con vật vô cùng quen thuộc. Tục thờ rắn<br />
của người Việt Nam trở nên phổ biến ở nhiều<br />
dân tộc, nhiều vùng miền từ Bắc chí Nam.<br />
Rắn được thờ vừa với tư cách là Thủy thần<br />
vừa với tư cách là vật tổ. Mặc dù trong đời<br />
sống thực tế, rắn không phải là con vật thân<br />
thiện được mọi người yêu thích mà trái lại rắn<br />
vẫn bị coi là loài vật tinh quái, gian xảo và<br />
đáng sợ. Nhưng có lẽ cũng vì thế mà con<br />
người thần thánh hóa loài rắn, thờ rắn với<br />
mong muốn rắn không làm hại người thậm<br />
<br />
133(03)/1: 121 - 125<br />
<br />
chí có thể giúp người. Các dân tộc thiểu số<br />
miền núi phía Bắc sinh sống trên những rẻo<br />
núi cao và đồng thời dưới những thung lũng<br />
thấp, công việc sản xuất luôn gắn liền với<br />
nước nên hình ảnh nước và con vật tượng<br />
trưng cho nước như Rắn đã trở thành hình ảnh<br />
tiêu biểu trong truyện kể. Rắn trong truyện kể<br />
các dân tộc này xuất hiện ở nhiều thể loại,<br />
nhiều mô típ truyện khác nhau với những đặc<br />
điểm khác nhau.<br />
Trong truyền thuyết dân tộc Thái, hình ảnh<br />
Rắn cùng với các biến thể như Thần Rồng,<br />
Thuồng luồng xuất hiện trong vai trò là chủ<br />
một khúc sông, một con suối, một mường hay<br />
một vùng đất với quyền năng và địa vị giống<br />
như các Then, Khun. Ví dụ truyện Chàng<br />
Tóng Đón và nàng Ăm Ca. Trong truyền<br />
thuyết dân tộc Tày, Rắn xuất hiện ở dạng đơn<br />
nhất hoặc cặp đôi hoặc gia đình thần Thuồng<br />
luồng. Thần Thuồng luồng rất gần gũi với đời<br />
sống con người, thường giúp dẫn nước hoặc<br />
đắp phai chắn nước ngay khi con người gọi<br />
đến. Các truyện cụ thể như: Sự tích con<br />
mương Tà Loòng, Sự tích hội Bưa Lừa, Sự<br />
tích con mương bản Loàn và thằng Tâm Đỏn.<br />
Ví dụ, chuỗi truyền thuyết của dân tộc Tày ở<br />
ven sông Kỳ Cùng, Lạng Sơn kể Rắn và<br />
Thuồng luồng được nhận làm con nuôi của<br />
một gia đình hai ông bà cao tuổi, coi như<br />
thành viên gia đình và trở về cứu gia đình,<br />
dân bản khi có đại nạn. Truyền thuyết kết<br />
thúc với chi tiết được kể như sau: Ba năm<br />
sau, vào mùa mưa lũ, nước sông Kỳ Cùng<br />
dâng cao ngập hết ruộng nương và sắp ngập<br />
bản làng. Dân làng đến cầu xin ông cụ gọi<br />
rắn về cứu giúp, ông cụ bèn ra bến sông gọi<br />
lớn “Vằng Khắc ơi! Vằng Khắc con ơi! Hãy<br />
mau về cứu ta và dân bản”. Một lúc sau sấm<br />
chớp nổi lên, mây đen vần vũ, trời tối đen như<br />
mực tiếng sóng đánh trên sông ầm ầm như<br />
thác nước rừng. Vào quá giờ Ngọ thì bầu trời<br />
trở nên quang đãng, nước sông rút nhanh<br />
chóng, xác những con thủy quái chết dạt vào<br />
bờ nhiều vô kể, dân làng cho rằng thần đã<br />
đánh nhau với thủy thần, hà bá cứu dân<br />
123<br />
<br />
Nguyễn Thị Minh Thu<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
thoát khỏi cơn lũ lớn. Như vậy, trong niềm<br />
tin của đồng bào, Rắn (Thuồng luồng) là vật<br />
thiêng và có vai trò quan trọng đối với đời<br />
sống con người.<br />
Trong truyện cổ tích, lốt Rắn là hình thức<br />
nhân vật đội lốt quen thuộc trong truyện kể<br />
của nhiều dân tộc Việt Nam nhưng ở truyện<br />
kể các dân tộc miền núi phía Bắc, tần số xuất<br />
hiện khá đậm đặc và có những nét riêng biệt.<br />
Nhận định này chúng tôi đồng ý kiến với kết<br />
quả thống kê trong luận văn thạc sĩ của tác giả<br />
Nguyễn Thị Kim Huế. Nếu nhân vật Rắn đội<br />
lốt là những cô gái thì đó sẽ là những cô gái<br />
xinh đẹp, phần thưởng bất ngờ, lý tưởng cho<br />
lòng tốt và số phận thiệt thòi của các chàng<br />
trai mồ côi nghèo (Nàng Xáy, Tài xì phoòng,<br />
Thàng Cao Chúa –Nùng, Chàng Bả KhóThái…). Nếu Rắn đội lốt là các chàng trai thì<br />
đó là những nhân vật có sức khỏe, có tài<br />
năng, là nhân vật mang lại hạnh phúc viên<br />
mãn cho các cô gái hiếu thảo biết hy sinh vì<br />
cha mẹ (Ba chị em gái và người chồng thuồng<br />
luồng - Tày, Chàng rắn- Thái, Bảy chị emGiáy, Đrầu nàng (Chàng rắn) - Hmông). Rắn<br />
trong truyện các dân tộc phía Bắc còn xuất<br />
hiện trong vai trò là lực lượng thần kỳ trợ<br />
giúp người hiền lành ở các dạng: Vua thủy tề,<br />
vua Rồng, đầu rắn… Ví dụ các truyện như<br />
Đèn mới đổi đèn cũ, Hai anh em mồ côi, Đầu<br />
rắn (Lô Lô), Pù nải hò (Dao), Khả sắc sía<br />
(Thái), Con cầy hương (Tày).<br />
Từ hình ảnh thực trong đời sống, Rắn cũng đã<br />
được các tác giả dân gian thần kỳ hóa, nhân<br />
cách hóa thành hình tượng nghệ thuật đáng<br />
chú ý trong các truyện kể dân gian. Rắn trong<br />
truyện kể các dân tộc này gắn liền với thế giới<br />
Nước, cũng là tượng trưng cho thế giới Nước.<br />
Trong khi ở truyện kể của một số dân tộc<br />
vùng Trường Sơn- Tây Nguyên như Raglai,<br />
Vân Kiều, Xê Đăng, Rắn chủ yếu hiện hữu<br />
qua biến thể Trăn là loài sống trên cạn. Điều<br />
này có thể liên quan trước hết đến đặc điểm<br />
canh tác nông nghiệp. Ở đồng bào miền núi<br />
phía Bắc, ruộng nước là loại hình kinh tế chủ<br />
đạo. Một số dân tộc cũng sinh sống bằng nghề<br />
124<br />
<br />
133(03)/1: 121 - 125<br />
<br />
canh tác nương rẫy nhưng nước vẫn là yếu tố<br />
quan trọng. Trong đời sống, họ đã nghĩ ra các<br />
hình thức đưa nước lên ruộng cao. Khi chọn<br />
vùng đất dựng bản, mường, các dân tộc bao<br />
giờ cũng chọn nơi gần nguồn nước. Do đó,<br />
chúng tôi cho rằng, hình ảnh Rắn và các biến<br />
thể trong truyện kể dân gian của các dân tộc<br />
miền núi phía Bắc phản ánh tín ngưỡng thờ<br />
Nước và quan niệm nguyên thủy về sự tồn tại<br />
của thế giới Nước.<br />
Thực tế, người Thái hiện nay vẫn giữ tục lệ<br />
mời thầy mo làm lễ cầu may, mong thần sông,<br />
thần suối giúp đỡ mỗi khi chuẩn bị đi đánh<br />
bắt cá. Lễ vật thường là hoa quả, gạo sống và<br />
nhất thiết phải có hai quả trứng, một quả<br />
nhuộm xanh, một quả nhuộm đỏ buộc vào sợi<br />
chỉ và thả xuống sông, suối, ao, hồ. Người<br />
Mường Hòa Bình còn có tục thờ Vua Khú<br />
(tên gọi khác của Thuồng luồng, Rắn) cũng<br />
tức là vua Nước. Miếu thờ vua Khú hiện còn<br />
ở Khoang Sủi, xã Tân Vinh, huyện Lương<br />
Sơn, tại đây hàng năm diễn ra lễ cầu mưa, cầu<br />
nước cho mùa màng của đồng bào Mường.<br />
Người Tày Lạng Sơn hàng năm cũng thường<br />
xuyên tổ chức một chuỗi lễ hội với quy mô<br />
lớn nhỏ khác nhau thể hiện tín ngưỡng thờ<br />
Rắn- vị thủy thần trong chuỗi truyền thuyết<br />
ven sông Kỳ Cùng. Tiêu biểu nhất là lễ hội<br />
Phài Lừa diễn ra ở một số huyện như Tràng<br />
Định, Bình Gia, lễ hội đình Vằng Khắc ở<br />
huyện Lộc Bình. Trong phần lễ của các hội<br />
này, người chủ tế đóng vai trò quan trọng tiến<br />
hành lễ cầu khấn tạ ơn và mời thần Rắn về dự<br />
hội đồng thời cầu thần phù hộ mang lại cuộc<br />
sống an lành và no ấm cho dân. Các nghi lễ<br />
và trò chơi ở đây hầu hết đều có yếu tố liên<br />
quan đến nước như lễ rước nước, hội đua bè,<br />
đua thuyền. Những người tham gia đua<br />
thuyền mặc trang phục được may có màu sắc<br />
và hình thức như mình rắn. Đặc biệt, trong<br />
các chặng đua, không thể thiếu thử thách lật<br />
thuyền ba lần. Nghi thức này có ý nghĩa quan<br />
trọng trong việc tưởng nhớ tới thần Thuồng<br />
luồng khi xưa vặn mình ba cái trước khi tiêu<br />
diệt kẻ thù.<br />
<br />
Nguyễn Thị Minh Thu<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Con Hổ và con Rắn đã góp phần tạo nên nét<br />
đặc sắc trong truyện kể dân gian các dân tộc<br />
thiểu số miền núi phía Bắc. Có thể khẳng<br />
định, truyện kể các dân tộc khu vực này vừa<br />
mang những nét chung loại hình với truyện kể<br />
của nhiều dân tộc vừa có những hình thức<br />
phản ánh riêng. Cơ sở cho điều này chính là<br />
bởi sự chi phối của điều kiện tự nhiên thực tế<br />
cộng với niềm tin tâm linh và sự thiêng hóa<br />
thành tục thờ với các con vật trong đời sống<br />
văn hóa các dân tộc. Con Hổ và con Rắn đã<br />
nằm trong miền tín ngưỡng tâm linh của các<br />
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc với ý<br />
nghĩa vô cùng thiêng liêng.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Nguyễn Thị Kim Huế, Kiểu truyện về đề tài hôn<br />
nhân “người-rắn” trong kho tàng truyện cổ dân<br />
gian các dân tộc Việt Nam, Luận văn thạc sĩ khoa<br />
học Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,<br />
2000.<br />
<br />
133(03)/1: 121 - 125<br />
<br />
2. Phạm Thị Huyền, Truyền thuyết và lễ hội ven<br />
sông Kỳ Cùng- Lạng Sơn, Khóa luận tốt nghiệp<br />
Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên,<br />
2008.<br />
3. Viện KHXHVN- Viện Nghiên cứu văn hóa,<br />
Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số<br />
Việt Nam Tập 3: Thần thoại, Nxb Khoa học xã<br />
hội, 2009, Hà Nội.<br />
4. Viện KHXHVN- Viện Nghiên cứu văn hóa,<br />
Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số<br />
Việt Nam Tập 14-15: Truyện cổ tích, Nxb Khoa<br />
học xã hội, 2008, Hà Nội.<br />
5. Viện KHXHVN- Viện Nghiên cứu văn hóa,<br />
Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số<br />
Việt Nam Tập 16: Truyện cổ tích- Truyền thuyết,<br />
Nxb Khoa học xã hội, 2008, Hà Nội.<br />
6. Viện Văn học- Tổ Văn học dân gian, Truyện cổ<br />
các dân tộc Việt Nam, Tập I-II, Nxb Đà Nẵng,<br />
1999.<br />
7. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, Tổng tập văn học<br />
các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Đà Nẵng,<br />
2002.<br />
8.http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%95_tro<br />
ng_v%C4%83n_h%C3%B3a_%C4%91%E1%BA<br />
%A1i_ch%C3%Bang.<br />
<br />
SUMMARY<br />
ANIMALS IN FOLK TALES AND WORSHIP ANIMALS OF SOME ETHNIC<br />
MINORITIES IN THE MOUNTAINOUS NORTH<br />
Nguyen Thi Minh Thu*<br />
College of Education - TNU<br />
<br />
This paper presents the results of two studies on animal images in several folk tales ethnic<br />
minorities in northern Vietnam's tiger and snake. According to the survey results, tigers common<br />
occurrence and is the central figure in a fairytale cottage type animals nations. In addition, they<br />
also appear as support characters in some magical fairy type as type story about the orphans and<br />
stepchildren. Snakes are common in the genre and some type legendary tales as stories about the<br />
orphans, the story of the youngest sister. With the frequency of occurrence in many popular<br />
categories, sub categories and type of folk stories, pictures and tiger snakes made their mark in<br />
peoples stories. This reflects the close relationship between the animals with real life, and also<br />
contributes to demonstrate respect for the beliefs and worship of animals in some people. The<br />
ethnic minority population represented as Thai, Tay, Muong has long maintained a worship of<br />
animals including two tigers and snakes with a sacred trust for the assistance and good for human<br />
life<br />
Keywords: Animals, Tiger, Snake, folk tales, ethnic minority and mountainous north<br />
<br />
Ngày nhận bài:25/12/2014; Ngày phản biện:28/1/2015; Ngày duyệt đăng: 03/4/2015<br />
Phản biện khoa học: TS. Ngô Thị Thanh Quý – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN<br />
*<br />
<br />
Tel: 0982 810816<br />
<br />
125<br />
<br />