intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Công tác quản lý Tăng sĩ của triều Minh Mạng (1820 – 1841)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

18
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Công tác quản lý Tăng sĩ của triều Minh Mạng (1820 – 1841) phân tích nội dung cơ bản, điểm tích cực và hạn chế của công tác quản lý tăng sĩ của triều Minh Mạng. Qua đó, giúp chúng ta hiểu hơn thái độ ứng xử của triều Minh Mạng đối với Phật giáo, đồng thời, rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý sư tăng hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Công tác quản lý Tăng sĩ của triều Minh Mạng (1820 – 1841)

  1. 70 Nguyễn Duy Phương CÔNG TÁC QUẢN LÝ TĂNG SĨ CỦA TRIỀU MINH MẠNG (1820 – 1841) BUDDHIST MANAGEMENT UNDER MINH MANG‘S REIGN Nguyễn Duy Phương Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng; phuongduyls@gmail.com Tóm tắt - Minh Mạng – vị vua thứ hai của triều Nguyễn, tuy là một Abstract - Athough Minh Mang – the second king of Nguyen nhà nho học nhưng lại có nhiều thiện cảm với Phật giáo. Trong dynasty - was a Confucian scholar, he was very interested in những năm cầm quyền của mình, nhà vua đã dành khá nhiều ưu Buddhism. During his reign, this King had a lot of preferential ái cho tôn giáo này, chùa chiền được trùng tu, xây dựng khắp cả policies with Buddhism. As a result, many podagas were restored nước, các sinh hoạt Phật giáo được tổ chức thường xuyên và quy and built all over the country; many Buddhism activities were mô, đặc biệt, ông rất quan tâm đến đội ngũ Tăng sĩ – lực lượng có organized regularly.Particularly, he was very interested in vai trò quyết định trong truyền bá và phát triển đạo Phật ở Việt Buddhists, who had important role in spreading and developing Nam. Bài viết này phân tích nội dung cơ bản, điểm tích cực và hạn Buddhism in Vietnam. This article analyses basic content as well chế của công tác quản lý tăng sĩ của triều Minh Mạng. Qua đó, giúp as positive points and drawback of Buddhist management under chúng ta hiểu hơn thái độ ứng xử của triều Minh Mạng đối với Phật Minh Mang’s reign with a view to helping to understand attitude of giáo, đồng thời, rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý sư Minh Mang King towards Buddhism, and to draw out experience tăng hiện nay. lessons for managing Buddhists nowadays. Từ khóa - Minh Mạng; Tăng sĩ; chính sách; Phật giáo; quản lý. Key words - Minh Mang; buddhist; Buddhism; policy; manage. 1. Đặt vấn đề năm thứ 7 khâm phụng chỉ chuẩn cho hai vị đại sư là Trần Tăng sĩ là lực lượng có vai trò quyết định trong truyền Văn Trừng (Viên Trừng); Nguyễn Văn Như (Chân Như) và bá và phát triển đạo Phật ở Việt Nam. Do vậy, ở bất kì giai bốn tăng chúng là Nguyễn Văn Khánh, Kiều Văn Bảo, Vũ đoạn lịch sử nào, giai cấp cầm quyền cũng luôn tìm cách Văn Niên, Phan Văn Định ở hai chùa Thiên Mụ, Long quản lý và khai thác đội ngũ này theo hướng có lợi nhất Quang ở kinh thành, cấp bằng về tại Ngũ Hành Sơn tỉnh thông qua các quy định của nhà nước. Với mong muốn phát Quảng Nam. Ngự chế hai vị đại sư làm trụ trì chùa Tam Thai, triển Phật giáo, vua Minh Mạng đã rất quan tâm đến giới Ứng Chân, đặt 4 vị tăng chúng làm 4 đại sư ở các chùa [2]. tăng sĩ với nhiều chính sách tích cực. Đây được xem là Hay trường hợp ngài Đạo Trung – Trọng Nghĩa (Nghĩa Văn khuôn mẫu cho thái độ ứng xử của cả triều Nguyễn trong Nghĩa) chùa Từ Đàm được vua Minh Mạng bổ đến trụ trì suốt thế kỉ XIX đối với tầng lớp xã hội đặc biệt này. chùa Thiên Mụ: “Năm thứ 20, có sắc chuẩn cho: nhà sư ở chùa Ấn Tôn là Nguyễn Văn Nghĩa nay bổ về trụ trì chùa 2. Phân bổ, điều chuyển chư tăng của các chùa Thiên Mụ” [10, IV, tr.361]. Theo truyền thống của Phật giáo Việt Nam, nhân sự của Số lượng, nguồn gốc, việc điều chuyển sái phu, cấm binh các tự viện đều do sơn môn, trụ trì (chùa chư tăng), ban hộ đến làm việc ở các chùa cũng đều được triều đình quy định tự (chùa làng) quyết định, nhưng dưới triều Minh Mạng, từ rõ ràng. Những người này thường được lấy từ dân sở tại phục chức sắc cho đến tăng chúng, phục dịch của hầu hết các vụ chùa chiền theo nghĩa vụ lao dịch, được miễn đi lính. ngôi tự viện lớn, đặc biệt là quốc tự đều chịu sự quản lý, Ngoài ra, một số chùa có hành cung của vua, như chùa điều phối của triều đình. Điều này thật đúng như nhận định Thánh Duyên còn có binh lính của triều đình đến canh giữ. của A.Sallet “Cách phân phối các thầy tu đến với các chùa "Minh Mạng năm thứ 1 (1820), Nghị được chuẩn: Mộ không lệ thuộc vào ý muốn riêng tư mà vào các quy tắc lấy 30 dân ngoài bổ sung làm sái phu ở chùa Kim Cương trong các sắc lệnh của triều đình. Cấp bậc và danh hiệu của thuộc Gia Định. các thầy tu cũng như vậy” [1, tr.126]. Minh Mạng năm thứ hai (1821), Nghị được chuẩn: Mộ lấy Nhân sự của một số chùa lớn được triều đình bổ dụng 10 dân ngoài bổ sung làm sái phu chùa Pháp Vũ ở hạt ấy - lại như sau: “Chùa thiên Mụ 1 tăng cang, 30 tăng chúng; chùa nghị được chuẩn: Vốn là dân tám xã canh giữ chùa Thiên Mụ Long Quang 1 trụ trì 10 tăng chúng; chùa Thánh Duyên 1 (lệ 30 người) nay chiếu theo lệ cũ, chiêu mộ dân xã An Ninh trụ trì, 9 tăng chúng, 2 đạo đồng; chùa Linh Hựu: 1 trụ trì, ở gần đây sung vào giữ thay, còn dân 8 xã thì rút về. 10 tăng chúng; chùa Giác Hoàng: 1 trụ trì, 15 tăng chúng, Minh Mạng năm thứ 8 (1827), Nghị được chuẩn: Điều chùa Diệu Đế: 1 tăng cang, 1 trụ trì, 20 tăng chúng; chùa cấp 3 dân sở tại làm tự phu ở chùa Long Phước (Quảng Trị). Khải Tường: 1 trụ trì, 10 tăng chúng" [10, IV, tr.361]. Minh Mạng năm thứ 17 (1836), ban dụ rằng: Chùa Chư tăng giữa các chùa cũng thường xuyên được triều Tháp núi Thúy Vân, xây dựng đã xong, vậy cho phái 20 đình luân chuyển, không chỉ trong phạm vi một tỉnh; mà người Vũ Lâm, Cấm binh chia nhau coi giữ, mỗi tháng thay nhiều trường hợp được điều đi rất xa, chùa trong miền Nam đổi 01 lần. Hàng năm, từ ngày mồng 1 tháng 2 đến cuối lại được điều ra miền Trung và ngược lại, và chư tăng của tháng 7 làm thêm hành dinh để phòng khi vua đến chơi, chùa này lại được bổ dụng làm trụ trì của chùa khác. Sách cho phái thêm 1 viên suất đội, 20 biền binh để coi giữ. Ngũ Hành Sơn lục có chép về việc triều đình lựa chọn và cắt đặt các vị danh tăng ở Kinh đô về làm trụ trì và tăng chúng Minh Mạng năm thứ 18 (1837), Nghị được chuẩn: Tự chùa Tam Thai và Ứng Chân ở Quảng Nam “Minh Mệnh phu ở chùa Khải Tường thuộc Gia Định nên trích lấy 10 người ở chùa Kim Cương sung vào. Còn chùa Kim Cương
  2. ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(89).2015 71 vẫn để 20 người. Tự phu của hai chùa Tam Thai, Châu Ứng thuần chỉ là một chức quan nhà nước được trả lương. Sau ở Quảng Nam 31 người, Sái phu của chùa Hoàng Ân ở Hà thời gian làm tăng cang tại các chùa do triều đình chỉ định, Nội 2 người, Tự phu của chùa Linh Hựu ở Định Tường 15 các chư tăng này thường về lại các ngôi chùa, tổ đình nơi người" [10, V, tr.512]. mình từng xuất gia, sinh hoạt và thường chọn mảnh đất yên nghỉ cho thế giới bên kia tại đây. 3. Phong Tăng Cang 4. Sát hạch chư tăng và cấp độ điệp Thông thường đứng đầu các ngôi chùa là trụ trì, nhưng từ thời Minh Mạng, trong một số quốc tự, tăng cang mới là Độ điệp là giấy chứng minh do triều đình cấp cho người chức sắc cao nhất. Nếu thời Gia Long, chỉ có ngài Tổ Ấn – xuất gia làm tăng ở Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam thời Mật Hoằng được triều đình bổ nhiệm chức tăng cang cai xưa. Ở Trung Quốc, vào thời đại Bắc Ngụy đã có quy chế quản tăng chúng quốc tự Thiên Mụ thì đến thời Minh này. Năm 729, đời Đường, vua xuống chiếu cho tăng ni Mạng, nhiều sư tăng đã nhận được vinh dự này như ngài trong nước, 3 năm làm sổ một lần. Năm 747, vua xuống Tiên Giác – Hải Tịnh (chùa Thiên Mụ), ngài Tế Chánh – chiếu cho tăng ni trong nước lệ thuộc vào “Lưỡng Nhai Công Bổn Giác (chùa Thiên Mụ), Tánh Thiên – Nhất Định (Linh Đức Sứ” và do Ty Thượng Thư Tỉnh Từ Bộ cấp phát giấy Hựu Quán, chùa Giác Hoàng), ngài Giác Ngộ - Tánh tờ, gọi là Từ Độ Điệp, tăng ni có độ điệp được miễn sưu dịch. Thông (chùa Bát Nhã, Phú Yên), ngài Tế Bổn – Viên Tại Việt Nam, độ điệp bắt đầu từ thời vua Trần Anh Tông, Thường (chùa Long Quang), ngài Đạo Trung – Trọng Nghĩa là chứng thư của triều đình dùng làm thông hành cho tăng sĩ. (Thiên Mụ)… Chính nhà vua tuyển chọn và bổ nhiệm tăng Ngài Pháp Loa là tăng sĩ đầu tiên được vua Trần cấp độ điệp. cang cho các chùa với những tiêu chuẩn khá khắt khe về Những tăng sĩ có độ điệp được hưởng những điều kiện dễ trình độ lẫn phẩm hạnh của sư tăng. Qua đoạn chỉ dụ sau dàng trong thời gian du hành, khảo cứu, tham bái các nơi, sẽ phần nào phản ảnh được điều đó. Năm Minh Mạng 16 đến chùa nào của môn phái cũng được tiếp đón” [3, II, (1835) “Lại dụ Bộ Lễ cấp cho hai người trụ trì chùa Thiên tr.1713]. Tuy nhiên, chỉ đến thời Lê, tăng sĩ mới phải tham Mụ và quán Linh Hựu, mỗi người một văn bằng tăng cang. gia cuộc thi do triều đình tổ chức để được cấp độ điệp. Đại Ngoài ra, nếu có sư nào đức hạnh thanh cao, đạo pháp linh Việt Sử kí toàn thư chép rằng “mùa hạ, tháng 6, ngày mồng diệu, cứu người chữa bệnh thì cũng cấp (văn bằng ấy) cho 10, ra lệnh chỉ cho các tăng đạo, người nào thông kinh điển, để coi quản tất cả tăng đồ và đạo lưu, bảo nhau làm điều trong sạch, giữ tiết hạnh, hẹn đến ngày 20 tháng này tới sảnh thiện, không được vượt ngoài pháp chế mắc vào luật cấm… đường trình diện, để xét duyệt cho thi, ai đỗ thì cho làm tăng Lại chỉ: Trụ trì chùa Long Quang là Nguyễn Văn Thường, đạo, ai không đỗ thì bắt hoàn tục” [8, tr.367]. xuất gia từ tuổi nhỏ, giới luật giữ được tốt, chuẩn cho chiểu Lệ cấp độ điệp cho tăng sĩ tiếp tục được duy trì dưới thời cấp 1 đạo tăng cang văn bằng” [10, IV, tr.361]. Nguyễn. Để quản lý chặt chẽ hơn đội ngũ này, Gia Long đã Các Tăng Cang thường phải theo sự điều động của triều quy định rõ trong Hoàng Việt luật lệ “Nếu tăng đạo không đình, cư trú, tu tập và hành đạo tại ngôi quốc tự do chính nhà được cấp độ điệp, tự ý cạo tóc thì phạt 100 trượng, nếu do vua cử đến, dù trước đó họ đã trụ trì một ngôi chùa nào đó gia trưởng thì gia trưởng phải chịu tội, nếu do trụ trì ở tự rồi. Chẳng hạn, ngài Tế Chánh – Bổn Giác đang là trụ trì quán và thầy dạy riêng độ thì đồng tội, buộc hồi tục, vào sổ chùa Từ Ân (Gia Định) nhưng sau khi thiền sư Liên Hoa về đương sai" [12, II, tr.276]. Tuy nhiên, lúc này triều đình chưa Nam, Minh Mạng đã triệu ngài Tế Chánh – Bổn Giác làm tổ chức sát hạch sư tăng. Đến thời Minh Mạng, điều luật trên Tăng Cang chùa Thiên Mụ, giao chức trụ trì chùa này lại cho vẫn được thực hiện, nhưng muốn được cấp độ điệp, sư tăng ngài Tế Tín – Chánh Trực. Nhưng có một trường hợp đặc phải vân tập đến kinh đô, được Bộ Lễ sát hạch và ghi nhận biệt, sư tăng được phong Tăng Cang từ chối sự phân bổ của là bậc chơn tu, giữ gìn giới luật, am hiểu đạo pháp. Sau khi triều đình, vẫn được ở lại ngôi tự viện cũ của mình, đó là nhận được độ điệp, sư tăng được tự do hành đạo, được miễn trường hợp Hòa thượng Nguyễn Giác Ngộ (chùa Bát Nhã, hoàn toàn các thứ thuế và lao dịch, cử làm tăng cang, trụ trì. Phú Yên). “Ngày 18 tháng 10 năm Minh Mạng 21 (1840), Nhưng, nếu sư tăng không chuyên tâm trì giới, phạm tội sẽ thần Phan Huy Thực, thần Phan Bá Đa phụng thượng dụ: bị triều đình tịch thu lại độ điệp đã cấp, buộc phải hoàn tục. Lần này về kinh có Nguyễn Giác Ngộ, trụ trì chùa Long Sơn Độ điệp mà Bộ Lễ cấp cho thiền sư Tánh Thiên Nhất Định Bát Nhã là người tĩnh tâm tu luyện, tịch cố đã hơn 40 năm, đã ghi rõ: “Lâu nay tăng sĩ đến kinh đô, Bộ phải xét ai là khổ hạnh cao phong như thế thật là quý hóa. Truyền cấp cho người chơn tu, giữ đúng giới luật, am tường khoa phạm, thời một văn bằng Tăng Cang và gia ân thưởng cho 20 lạng bạc, cấp một độ điệp để được yên tâm tu trì, hầu chứng đạo thiền, trang phục, áo quần vải màu mỗi thứ 5 bộ, cho trạm dịch đưa còn như binh nhiêu, thuế thân hết thảy đều tha hết. Nếu sau về chùa cũ trụ trì. Trên lộ trình đi qua các hạt phải phái người khi nhận điệp rồi mà nợ trần chưa dứt sạch, nghiệp chướng hộ tống để đường đi được an toàn tốt đẹp” [7, tr.80]. vẫn còn, có tỳ tích xấu, các quan lại hay dân quân ta bắt được, giải ngay cho quan địa phương chiếu luật trừng trị, bắt Tăng cang có nhiệm vụ cai quản tăng chúng, tổ chức phải về tục, thâu lại độ điệp để Bộ tiêu hủy” [5, tr.243]. Cùng các hoạt động Phật sự, thực hiện các nghi lễ, giảng đạo cho với việc được cấp độ điệp, các tăng sĩ còn được triều đình vua và hoàng tộc… còn mọi công tác xây dựng, sửa chữa ban Giới đao. Đó là “con dao nhỏ hình bán nguyệt dùng để chùa chiền, đúc chuông, tô tượng trong các ngôi quốc tự cắt áo, cạo tóc, cắt móng tay, là 1 trong 18 vật thường dùng đều do triều đình quyết định, họ cũng không được truyền của Tì Kheo” [3, II, tr.1713]. Ngoài ra, Giới đao còn có hàm chùa cho đệ tử và cũng không được xây tháp mộ. Ở các ý là để cắt hết mọi dục vọng mà an tâm trì giáo. ngôi Quốc tự Linh Hựu, Giác Hoàng, Thiên Mụ ở Kinh đô Huế hoàn toàn không hề có tháp mộ [4, tr.105]. Sỡ dĩ như Cuộc sát hạch tăng sĩ được tổ chức lần đầu tiên dưới thời vậy là vì tăng cang là chức vụ mà triều đình bổ nhiệm, đơn Minh Mạng là năm 1930, nhân dịp tứ tuần khánh thọ của
  3. 72 Nguyễn Duy Phương Hoàng Thái hậu, nhà vua đã ra Chỉ vân tập tất cả các chư thông hiểu Phật pháp của các sư tăng nên việc kiểm tra trình tăng trong nước về chùa Báo Quốc (Huế) để dự cuộc sát hạch độ nhằm tìm ta người tài giỏi, chấn chỉnh lại tư cách của các về giới luật. Trong dịp này đã có 53 sư tăng trong cả nước nhà sư, loại trừ những người núp bóng Phật với mưu tính “trốn được cấp độ điệp. Ngài Toàn Đức - Hoằng Tông (chùa Vạn việc quan đi ở chùa”, quy củ lại việc tu tập, nâng cao trình độ Đức – Hội An), ngày Toàn Định – Bảo Tạng (chùa Phước của giới xuất gia là một việc làm cần thiết, tác động tích cực Lâm- Quảng Nam), ngài Tánh Thiên – Nhất Định (Báo đến sinh hoạt Phật giáo lúc bấy giờ. Quốc), ngài Đạo Viên – Trí Giác (chùa Kim Cang – Phú Yên), ngài Tánh Huệ - Nhứt Chơn (chùa Tường Vân – Huế) 5. Quy định về đạo đức, lối sống của tăng sĩ là 5 trong số 50 chư tăng được cấp độ điệp trong dịp này. Không chỉ yêu cầu khắt khe về phẩm hạnh và trình độ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có chép lại sự việc này: đối với các chức sắc Phật giáo (tăng cang, trụ trì), mà đạo “Minh Mạng thứ 11 (1830) chỉ dụ: Lần này sư ở chùa đức, lối sống của tăng ni cũng rất được triều đình chú ý. các hạt gọi đến kinh gồm 53 người, đã qua bộ lễ sát hạch Trong Hoàng Việt luật lệ có hẳn những điều luật quy định dựng thành danh sách tâu lên, nay chuẩn thưởng cấp. Cho chặt chẽ, nghiêm ngặt về lối sống của các tu sĩ, tuy được 12 người vào hạng xảo thông đều cấp 5 lạng bạc; 38 người ban hành dưới thời Gia Long, nhưng những quy định này vào hạng hơi thông đều cấp 3 lạng bạc, lại ban tiệc chay ở vẫn được thực hiện đối với các triều vua sau. chùa Thiên Mụ 1 lần, chuẩn đều cấp độ điệp giới đao, còn Về y phục của sư tăng, “Y phục của tăng, đạo chỉ cho 3 người không thông, không chuẩn cho thưởng cấp để tỏ ra phép dùng lụa thô, vải, không được dùng lụa là thứ láng có phạt, điều khiển cho về” [10, IV, tr.361]. mịn đẹp, thêu bông hoa. Ai trái lệnh phạt 50 roi, buộc hồi Lần thứ 2 là năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sau khi tổ tục, y phục gom về nhà quan. Cà sa, đạo phục thì không ở chức trai đàn tại chùa Thiên Mụ, triều đình cũng tổ chức trong luật lệ này” [12, III, 443]. sát hạch và cấp giới đao độ điệp cho tăng sĩ. “Lại chỉ: trụ Không chấp nhận việc sư tăng có vợ con, hoặc sư tăng trì chùa Long Quang là Nguyễn Văn Thường, xuất gia từ đoạn tuyệt hoàn toàn với cha mẹ. Luật pháp quy định rõ tuổi nhỏ, giới luật giữ được tốt, chuẩn cho chiểu cấp 1 đạo “Phàm tăng, đạo cưới thê thiếp thì phạt 80 trượng, hồi tục… tăng cang văn bằng, còn những người hoặc dự vào hạng Trụ trì chùa chiền biết mà không báo lên thì cùng tội, liên tinh 36 người, hạng thô 71 người, chuẩn theo lệ trước, lụy vì người, không buộc hồi tục” [12, III, 340] và “tăng ni, chuẩn hạng cấp cho bạc lạng và khoản đãi tiệc chay một đạo sĩ, nữ quan đều ra lệnh họ phải cúng tế cha mẹ, tổ tiên lần, ai đáng cấp độ điệp giới đao, tức sắc cho tề tập cả ở và thứ lớp để tang… làm giống như bao nhiêu người. Ai trái trước chùa Thiên Mụ để bái lĩnh” [10, IV, tr.361]. Lần này lệnh, phạt 100 trượng, buộc hồi tục” [12, III, 443]. số lượng chư tăng được cấp độ điệp nhiều gấp đôi lần trước, Đối với trường hợp sư tăng vi phạm đạo đức, lối sống trong đó, có nhiều chư tăng đến từ các chùa miền Bắc của người xuất gia, luật Gia Long xử nặng: “Tăng đạo Lần thứ 3 là vào năm 1840. Các chính sử triều Nguyễn quan, tăng nhân, đạo sĩ phạm vào kĩ nữ (gái điếm), rượu không thấy ghi chép về lần sát hạch này nhưng sách Đại thịt thì đều phạt trăm trượng, trả về làm dân” [12, IV, 915]. Nam thiền uyển truyền đăng tập lục có đề cập đến việc vào Khi sư tăng phạm tội, triều đình xử tội nặng hơn dân năm 1840, ngài Chiếu Cảnh – Hải Lượng được triều đình thường. Hoàng Việt luật lệ quy định “Phàm để tang cha mẹ ban cấp giới đao độ điệp sau khi vào kinh ứng thí thành và chồng chết, nếu tăng, đạo sĩ, nữ quan phạm gian thì tăng công “vào năm Minh Mạng 21 (1840), sư (ngài Chiếu Cảnh hai bực tội người thường phạm gian, xử tội ấy theo người – Hải Lượng- NDP) đắc chỉ vào kinh ứng thí, được ban giới thường phạm gian” [12, V, 915]. Không chỉ chính sư tăng đao độ điệp với hiệu Hải Lượng hòa thượng”. Điều này phạm tội chịu hình phạt mà cả sư trưởng của chùa ấy cũng cũng trùng hợp với sự kiện được Đại Nam thực lục ghi lại cũng bị liên đới chịu trách nhiệm. Trường hợp sư Nguyễn “vua sai các địa phương từ Quảng Bình trở vào Nam hỏi Văn Huấn ở chùa Thiên Mụ là một ví dụ: “Sư chùa Thiên kỹ trong hạt, có nhà sư nào đắc đạo, thông hiểu đạo giáo Mụ có tên Nguyễn Văn Huấn vì ghen ghét người. Bộ Hình thì tỉnh cấp bằng cho đến Kinh, kịp tuần tháng tư tụng kinh và Viện Đô Sát xét hỏi qua một năm không khám phá ra ở chùa Giác Hoàng 21 ngày đêm, ở Thủy Đàn 7 ngày đêm; manh mối. Đến nay Khoa đạo là Nguyễn Sĩ Đăng, Lê Tập ở quán Linh Hựu 7 ngày đêm” [10, IV, tr.361]. Năm 1840 bí mật dò xét tìm được tình trạng, đều thưởng cho mỗi là năm vua Minh Mạng tổ chức rất nhiều hoạt động mừng người 10 lạng bạc và gia một cấp. Khi án giao xuống đình thọ 40 tuổi của mình, ngoài tổ chức trai đàn ở kinh đô, nhà thần xét, Huấn bị xử trảm hậu, sư trưởng Nguyễn Tâm vua còn lập đại trai đàn tại chùa Phật Tích (Sơn Tây). Do Đoan, cách bỏ chức trụ trì chuẩn bắt phải làm việc nặng vậy, nhận định triều đình tổ chức sát hạch tăng sĩ vào năm nhọc tại chùa ấy” [11, V, tr.616]. này là hoàn toàn hợp lí, tuy nhiên, số lượng tăng sĩ tham Những quy định trên đã thể hiện rõ yêu cầu của vua gia cũng như kết quả của lần sát hạch này cho đến nay cũng Minh Mạng đối với sư tăng, không chỉ thông hiểu Phật ta vẫn chưa có nhiều thông tin. pháp mà họ phải là những người có phẩm hạnh hơn người, Trong 20 năm với 3 lần triều đình tổ chức sát hạch cấp độ có lối sống thanh bạch, giản dị, chấp nhận từ bỏ những ham điệp cho tăng sĩ, chắc chắn số lượng tăng sĩ được cấp độ điệp muốn trần tục để làm gương cho người đời, từ hóa mới cảm với số lượng tăng sĩ thực tế chắc chắn còn khá khiêm tốn. Điều hóa cũng được giáo chúng. đó cho thấy điều luật người xuất gia phải có độ điệp của Hoàng Việt luật lệ khó lòng thực hiện được triệt để. Nhưng dù 6. Hậu đãi sư tăng sao nó cũng đã cho thấy nỗ lực của nhà nước phong kiến trong Bên cạnh những đòi hỏi dành cho giới xuất gia thì triều việc quản lý đội ngũ sư tăng. Các vua Nguyễn dù sùng Nho đình cũng ban cho đội ngũ này nhiều hậu đãi. Chức sắc và nhưng vẫn tôn trọng giáo lý nhà Phật. Nhà nước đề cao việc tăng chúng các chùa công đều được cấp lương bổng hằng
  4. ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(89).2015 73 tháng để chi dùng, cấp pháp phục, gạo muối… Theo từng trụ trì do triều đình phong cấp, hưởng những ẩn điển, chiếu cấp bậc mà sự phân chia cũng có nhiều ít khác nhau. Sư cố của nhà vua chắc chắn không chỉ có phụng sự đạo pháp, tăng trong mỗi chùa được phân cấp thành 3 bậc: sư trưởng mà đã trở thành một viên quan nhà nước phục vụ đắc lực là cao nhất, đó có thể là tăng cang hoặc trụ trì chùa, tiếp cho lợi ích của vương quyền. đến là các sư nam, sư nữ (các sư tăng đã thọ Tỳ Kheo), và 2. Từ công tác quản lý tăng sĩ, đặc biệt là việc cấp độ điệp nhỏ nhất là các chú tiểu - những người mới vào chùa. Lệ và sát hạch tăng sĩ của triều Minh Mạng nói riêng và triều phân cấp như sau: “phàm tăng cang ở đền chùa của nhà Nguyễn nói chung đã có nhiều ý kiến cho rằng đây là biện nước, mỗi người tháng cấp cho 3 quan tiền, 1 phương gạo pháp nhằm hạn chế sự phát triển của Phật giáo của triều đình. trắng, tăng chúng mỗi người 1 quan tiền, 1 phương gạo Nhưng theo chúng tôi, việc làm này không hề làm cho Phật trắng, đạo đồng mỗi người 6 tiền, 1 phương gạo” [10, IV, giáo suy giảm, mà chính sự tham gia quản lý của triều đình đã tr.361]. Theo lệ này, Bộ Hộ tùy theo số lượng chư tăng của giúp khôi phục được một đội ngũ sư tăng có tổ chức, có trình mỗi chùa mà cấp phát số tiền và lương thực tương ứng. độ giáo lý và đức độ, hạn chế được những kẻ trốn tránh lao Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép: dịch, lợi dụng cửa thiền làm nơi chống đối triều đình, góp phần “Minh Mạng năm thứ 3 (1822) có chỉ rằng các sư ở đưa sinh hoạt Phật giáo đi vào nề nếp. Đây là một việc làm chùa Thiên Mụ mỗi tháng cấp cho tiền 60 quan, gạo 55 hữu ích đối với Phật giáo, giúp cho tôn giáo này ngày càng phương, gạo trắng 5 phương, muối 6 thưng. phát triển vững chắc hơn. Chính nhà nghiên cứu Trần Hồng Lại có chỉ rằng: chùa Long Quang mỗi tháng cấp tiền Liên cũng khẳng định “Trong một bối cảnh xã hội đầy rẫy 15 quan, gạo 21 phương. phức tạp, đạo đức suy đồi, tăng chúng sa sút về giáo lý, một số người trốn bắt lính, trốn lao dịch mà vào chùa… Nắm lại Năm thứ 15 (1835), chuẩn y lời tâu đền chùa Linh Hựu, một số chân tu (thi sư tăng, kiểm tra giáo lý), tạo điều kiện cho số sư trưởng cấp cho mỗi tháng tiền 2 quan, gạo trắng 01 phương. này – dù ít ỏi tiếp tục con đường đạo pháp là việc làm hợp lý Các sư khác mỗi người mỗi tháng tiền 1 quan, gạo 1 phương. và điều đó phần nào làm sáng tỏ chánh pháp nhà Phật, chứ Năm thứ 17 (1836), có chỉ rằng: sư trưởng chùa Thánh không phải là hành động bài xích” [9, tr.162]. Duyên, mỗi tháng cấp cho tiền 2 quan, gạo trắng 01 3. Việc triều đình dành khá nhiều công sức để triệu mời phương. Các sư nam và sư nữ, mỗi người mỗi tháng đều các danh tăng tài năng, đức độ ở các địa phương ra làm tăng tiền 01 quan, gạo 01 phương, chú tiểu mỗi tháng tiền 5 tiền, cang, trụ trì các ngôi quốc tự ở kinh đô, ban cấp cho các tăng gạo 15 đấu. sĩ này nhiều hậu đãi đã cho thấy mối quan tâm đặc biệt của Năm thứ 20 (1839), có Chỉ rằng: Sư trưởng chùa Giác triều Minh Mạng đối với các ngôi quốc tự nói riêng và đối với Hoàng mỗi tháng cấp tiền 3 quan, gạo trắng 1 phương, các Phật giáo nói chung. Ngoài mối thiện cảm cá nhân của vua sư đều mỗi tháng mỗi người tiền 1 quan, gạo 1 phương” Minh Mạng và triều thần đối với Phật giáo thì sự quan tâm của [10, III, tr.452]. triều đình đối với các ngôi quốc tự còn xuất phát từ mục đích củng cố vương quyền, ổn định về mặt tâm linh của dân chúng. Một số sư tăng tài giỏi còn được triều đình quan tâm Quốc tự là trung tâm hoằng dương Phật pháp của đất nước, có sửa sang chùa chiền, tạo điều kiện thuận lợi cho tu hành. ý nghĩa tâm linh quan trọng đối với các tín đồ Phật giáo. Hơn Trường hợp ngài Nguyễn Giác Ngộ ở chùa Bát Nhã (Phú nữa, các ngôi chùa này phần lớn được xây dựng ở quanh kinh Yên là một ví dụ điển hình “Ngày 18 tháng 11 năm Minh đô Huế mà ở đây dân chúng đa phần là tín đồ Phật giáo. Vì Mạng 21,… Lại truyền cho viên tỉnh Phú Yên xuất tiền vậy, việc chăm lo cho các ngôi quốc tự như một cách quan công mua sắm vật liệu, thuê dân phu sửa sang chùa chiền tâm đến đời sống tinh thần, nhu cầu tâm linh của nhân dân. Từ nới Nguyễn Giác Ngộ hiện đang trụ trì cho được quan đó, triều Nguyễn có thể thu phục được lòng dân, tạo được lòng chiêm. Số dân phu thuê bao nhiêu người, truyền cấp kha tin và sự ủng hộ của nhân dân đối với triều đình, góp phần ổn khá cho mỗi người mỗi tháng 4 quan tiền và một vuông gạo định chính trị - xã hội của đất nước. để chúng vui vẻ làm, sớm hoàn thành công việc. Sau khi xong việc cứ thật khai tiêu” [7, tr.82]. 4. Bên cạnh những tác dụng tích cực, công tác quản lý tăng sĩ của triều Nguyễn cũng bộc lộ một số hạn chế. Việc 7. Một vài nhận xét tổ chức sát hạch và cấp độ điệp cho chư tăng tập trung tại 1. Triều Minh Mạng đã can thiệp khá sâu vào hoạt động một điểm ở Kinh đô với thời gian không cố định sẽ gây khó của Phật giáo thông qua việc điều phối, quản lý nhân sự khăn về kinh phí, thời gian, điều kiện di chuyển và cư trú của các chùa, cấp độ điệp, sát hạch sư tăng, phong tăng cho các tăng sĩ ở các địa phương về Kinh ứng thí, gây nhiều cang, bổ nhiệm trụ trì... Việc làm này trước hết thể hiện ý tốn kém trong khâu tổ chức. Số lượng chư tăng được cấp muốn kiểm soát Phật giáo của triều đình, đặc biệt là hoạt độ điệp cũng còn quá ít so với nhu cầu. Hơn nữa, với việc động của các ngôi quốc tự tại kinh đô Huế. Điều này không tổ chức sát hạch tăng sĩ do bộ Lễ chủ trì theo lối từ chương phải đến thời Minh Mạng mới thực hiện, mà hầu như giai của Nho giáo, cũng chỉ những người hay chữ mới được cấp cầm quyền nào cũng muốn nắm được tôn giáo, nhất là công nhận là tu hành chân chính, còn những người khác, Phật giáo, chỉ có khác là cách làm của vua Minh Mạng dù mộ đạo và tâm thành đến mấy mà không diễn tả được mềm dẻo mà hiệu quả hơn mà thôi. Không có một lệnh cấm đức tin và kiến thức của mình bằng văn chương thì được đoán nghiêm khắc nào, nhưng bằng việc nắm được đội ngũ cho là không phải tu hành chân chính, điều này khiến cho sư tăng – linh hồn của Phật giáo, ông đã hoàn toàn quản lý nhiều sư tăng tài đức khó lòng được triều đình công nhận. và chi phối được tôn giáo này theo hướng có lợi cho công Những hậu đãi mà triều đình ưu ái dành cho các chức cuộc trị nước của mình mà không vấp phải một sự chống sắc Phật giáo tại các chùa quốc tự cũng đã làm cho giới đối hay phản kháng nào. Các sư tăng nhận chức tăng cang, thiền môn không ít xáo trộn, gây chia rẽ trong hàng ngũ
  5. 74 Nguyễn Duy Phương tăng sĩ. có không ít chư tăng vẫn chưa bỏ được lòng tham bạn cố đô Huế (B.A.V.H), Tập XI, 1924, tr.126. tìm cách chạy theo chức vị, danh tước để được hưởng bổng [2] Ấn Lan - Tổ Huệ - Từ Trí (1916), Ngũ Hành Sơn lục, Bản chữ Hán chép tay, lưu tại chùa Tam Thai (Đà Nẵng). lộc của triều đình mà quên đi cốt cách của người xuất gia. [3] Thích Minh Cảnh (2003), Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 2, Nxb Thực tế này đã được Thượng Tọa Thích Mật Thể phản ảnh Tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh, tr 1713. trong Việt Nam Phật giáo sử lược: “Đến đây, từ trên vua [4] Đặng Vinh Dự (2011), “Chuyện quốc tự ở Huế”, tạp chí Huế Xưa & quan cho đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo Phật là ở sự Nay, số 103, trang 105. cúng cấp cầu đảo chứ không biết gì khác nữa. Và phần [5] Nguyễn Hiền Đức (1999), Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tập 1, Nxb đông họ chỉ trọng ông thầy ở chỗ danh vọng chức tước, Thành phố Hồ Chí Minh, tr 243. mặc dù ông thầy ấy thiếu học thiếu tu… phần đông Tăng [6] Hòa thượng Phúc Điền (1859), Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập đồ chỉ nghĩ đến danh vọng chức tước: xin bằng Tăng Cang, lục, Bản khắc in chữ Hán, lưu tại thư viện Hán Nôm, ký hiệu Vhv.9, tờ 45. Trú trì, Sắc tứ…” [13, tr.230]. [7] Lý Kim Hoa (2003), Châu bản triều Nguyễn - Tư liệu Phật giáo, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr.80. 8. Kết luận [8] Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên (1697), Đại Việt sử kí toàn thư, Viện Khoa Dù còn tồn tại một số hạn chế nhưng công tác quản lý học Xã hội Việt Nam dịch, bản Kỷ, quyển X, Nxb Khoa học Xã hội, tăng sĩ của triều Minh Mạng đã đạt được một số thành tựu Hà Nội, tr 367. nhất định, không chỉ giúp triều đình quản lý Phật giáo, ổn [9] Trần Hồng Liên (1992), “Vài nét về Phật giáo thời Nguyễn” in trong Những vấn đề văn hoá xã hội thời Nguyễn, Nxb Khoa học Xã hội, định xã hội mà còn góp phần phát triển và tạo điều kiện cho Tp. Hồ Chí Minh, tr 162. tôn giáo này phụng sự đất nước. Đây sẽ là những tham [10] Nội các triều Nguyễn (2009), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, chiếu cần thiết, những bài học kinh nghiệm quý giá cho Viện Sử học dịch, toàn tập, Nxb Thuận Hoá, Huế. công tác quản lý tăng sĩ nói riêng và Phật giáo nói chung [11] Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục chính biên, của Nhà nước ta hiện nay./. toàn tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [12] Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu (1994), Hoàng Việt Luật TÀI LIỆU THAM KHẢO lệ, toàn tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [13] Thích Mật Thể (1961), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb Minh Đức, [1] A.Sallet (2002), “Núi đá hoa cương (Ngũ Hành Sơn)”, Những người Đà Nẵng. (BBT nhận bài: 25/12/2014, phản biện xong: 18/03/2015)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2