JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 1, pp. 77-82<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0009<br />
<br />
ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN MIÊU TẢ VÀ VIỆC ĐỔI MỚI NỘI DUNG DẠY HỌC VĂN<br />
MIÊU TẢ TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG<br />
Phạm Minh Diệu<br />
Khoa Sư phạm, Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội<br />
Tóm tắt. Bài viết này nghiên cứu đặc điểm của văn miêu tả và nội dung dạy học văn miêu<br />
tả (MT) trong nhà trường phố thông theo chương trình sau 2015. Sử dụng phương pháp<br />
tổng thể (Tiếng Anh: Wholedynamic), đề tài đã xác định được mười đặc điểm của văn<br />
miêu tả, từ đó đề xuất các nội dung dạy học văn miêu tả trong trường phổ thông theo định<br />
hướng phát triển năng lực cho học sinh (HS).<br />
Theo đó, các kĩ năng/ năng lực cần hình thành và phát triển cho HS trong dạy học văn miêu<br />
tả bao gồm: quan sát, nhận xét, lựa chọn chi tiết tiêu biểu, trình bày các chi tiết theo trình<br />
tự, diễn đạt, hành văn; sử dụng các yếu tố tự sự, biểu cảm trong bài văn MT và nói viết các<br />
câu/ đoạn văn miêu tả trong các thể văn bản khác,... Tùy theo các cấp học, bậc học để xác<br />
lập yêu cầu một cách phù hợp.<br />
Từ khóa: Miêu tả, đặc trưng, điểm nhìn, tổng thể, nội dung.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Văn MT (VMT) là hiện tượng văn từ có từ thời thượng cổ, thường xuất hiện trong các tác<br />
phẩm thơ, phú, truyện,... và trở thành một kiểu văn bản trong nhà trường vào thời kì hiện đại. Đã<br />
có rất nhiều bài báo, sách tham khảo viết về đặc trưng, phương pháp dạy học VMT.<br />
Từ thời cổ đại, A-ri-xtốt (Hi Lạp, 384-317 trước CN) gọi đây là “nghệ thuật mô<br />
phỏng” [1; 15].<br />
Trong thời kì hiện đại, ở nước ngoài, các nhà nghiên cứu từng xem xét VMT như “một loại<br />
hành vi” [2; 9-10], “một mặt của hình thức kết cấu lời nói” [3; 51], hoặc “một thành phần của tiểu<br />
thuyết” [4], v.v. . .<br />
Ở Việt Nam, các nhà văn như Tô Hoài [5], Phạm Hổ, Vũ Tú Nam, Nguyễn Quang Sáng<br />
[6],. . . đã có nhiều cuốn sách, bài viết về kinh nghiệm viết VMT; các nhà giáo, nhà nghiên cứu<br />
như Nguyễn Trí, Lê Phương Nga [7], Hoàng Hòa Bình [8], Đỗ Ngọc Thống [9,10,11], Phạm Minh<br />
Diệu [10,12,13],. . . cũng đã có nhiều công trình bàn về VMT trong nhà trường.<br />
Tuy nhiên, với các công trình vừa nêu, VMT vẫn chưa được nghiên cứu một cách tổng thể.<br />
Quan điểm tổng thể (Tiếng Anh: Wholeview) cho phép nghiên cứu đối tượng một cách đa chiều,<br />
toàn diện và năng động hơn.<br />
Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng thể (Wholedynamic method) để nghiên<br />
cứu các đặc điểm của VMT xét trên nhiều phương diện, từ đó đề xuất nội dung dạy học VMT theo<br />
chương trình (CT) môn Ngữ văn ở phổ thông sau 2015.<br />
Ngày nhận bài: 10/10/2015. Ngày nhận đăng: 15/2/2016.<br />
Liên hệ: Phạm Minh Diệu, e-mail: phamminhdieu.edu@gmail.com<br />
<br />
77<br />
<br />
Phạm Minh Diệu<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Đặc trưng của VMT<br />
<br />
Khi nghiên cứu văn MT trên các phương diện: hoạt động giao tiếp, lí thuyết văn bản, lí luận<br />
văn học,. . . chúng tôi xin được đưa ra một số đặc điểm nổ bật của VMT như sau:<br />
a) VMT là sản phẩm của hành vi miêu tả (MT) bằng lời.<br />
Xét từ góc độ hoạt động giao tiếp, ta thấy có 2 loại hành vi MT:<br />
- MT không bằng lời là loại hành vi dùng các chất liệu ngoài ngôn ngữ để MT. Chẳng hạn,<br />
các nhà thiết kế thời trang MT ý tưởng bằng những hình vẽ, nhà kiến trúc MT ý tưởng qua các mô<br />
hình, nhà địa lí MT độ cao mặt đất bằng các màu sắc,...<br />
- MT bằng lời là loại hành vi sử dụng chất liệu ngôn ngữ để MT. Hành vi này tạo ra sản<br />
phẩm là VMT ở cả dạng nói và viết.<br />
Hành vi MT bằng lời / không bằng lời đều có vai trò quan trọng trong hoạt động giao tiếp.<br />
b) VMT tồn tại trong nhiều lĩnh vực: trong khoa học, trong văn học - nghệ thuật, trong đời<br />
sống hàng ngày,. . . Trong mỗi lĩnh vực, VMT có những đặc điểm khác nhau:<br />
- VMT khoa học có tính chân thật, chính xác, khách quan và trí tuệ, có thể kèm theo sơ đồ,<br />
hình ảnh minh họa.<br />
- VMT nghệ thuật hoạt động dựa trên quy luật của cái đẹp, nó phải lựa chọn các chi tiết đặc<br />
sắc nhằm MT đối tượng một cách sinh động và “có hồn”.<br />
- VMT trong sinh hoạt hàng ngày mang đặc điểm của phong cách sinh hoạt, thường ngắn<br />
gọn, thiết thực và gắn liền với hoàn cảnh nói viết cụ thể.<br />
- VMT trong nhà trường là hình thức tồn tại đặc biệt của VMT. Vì mục tiêu giáo dục nên<br />
mang tính “tập MT” và “tái MT”, có tính chuẩn mực, tính mô phạm.<br />
c) Ở trình độ cao, VMT nghệ thuật bao giờ cũng gắn với thi pháp và thể loại văn học.<br />
Thi pháp tác phẩm văn học có nhiều nội dung liên quan đến nghệ thuật MT. Nghệ thuật MT<br />
thường gắn liền với trào lưu văn học. Mỗi trào lưu văn học thường có các bút pháp, thủ pháp đặc<br />
trưng. Một số bút pháp MT thường gặp là: ước lệ, tượng trưng (thường gặp trong văn học cổ), bút<br />
pháp lãng mạn (trong văn học lãng mạn), bút pháp tả chân (trong văn học hiện thực),. . . Ngoài ra,<br />
còn một số bút pháp khác gắn liền với các phương pháp và trào lưu văn học.<br />
MT cũng gắn với các thể loại văn học. Chẳng hạn, MT bằng văn xuôi, bằng thơ,. . . Văn<br />
xuôi thường dựng lại bức tranh cuộc sống với phạm vi và dung lượng rộng lớn; còn với đa số các<br />
bài thơ, bức tranh cuộc sống thường chỉ được MT ở một góc độ hẹp hơn; MT bằng thơ thường<br />
hướng tới nội dung tâm lí, còn MT bằng văn xuôi thường hướng tới hiện thực khách quan; ngôn<br />
ngữ MT trong thơ gọt giũa, hàm súc, còn ngôn ngữ MT trong văn xuôi gần gũi với cuộc sống thực<br />
hơn,. . .<br />
d) Mục đích chính của VMT là tái hiện sự vật, hiện tượng với các dấu hiệu trực quan. Đây<br />
là đặc điểm chủ yếu và nổi bật nhất của VMT, giúp nó phân biệt với các thể văn bản khác, nhất là<br />
với văn kể chuyện, văn biểu cảm và văn thuyết minh. MT tập trung tái hiện các dấu hiệu vật chất<br />
của đối tượng như: hình dáng, kích thước, màu sắc, âm thanh, mùi vị, hoạt động. . . Đó là những<br />
dấu hiệu có thể khiến người đọc (người nghe) hình dung được đối tượng đang hiện ra trước mắt.<br />
Với cách hiểu rộng hơn, VMT có mục đích phản ánh, tái hiện, mô phỏng cuộc sống với các<br />
hình thức sinh động của thực tại.<br />
e) VMT có khả năng “hình ảnh hóa” nội dung bên trong của đối tượng. VMT không dừng<br />
lại ở việc tái hiện những dấu hiệu bên ngoài, mà còn tham gia vào việc tái hiện nội dung bên trong<br />
78<br />
<br />
Đặc điểm của văn miêu tả và việc đổi mới nội dung dạy học văn miêu tả trong trường phổ thông<br />
<br />
của đối tượng. Người phương Đông thường nói “vạn vật hữu linh” (vạn vật đều có linh hồn). VMT<br />
có khả năng làm cho “linh hồn” đó được hiện ra qua các hình ảnh bằng ngôn từ.<br />
g) VMT là sản phẩm của quan sát, suy ngẫm, so sánh, tưởng tượng,. . .<br />
Quan sát là kĩ năng quan trọng nhất trong VMT; gắn liền với quan sát là các hoạt động suy<br />
ngẫm, so sánh, lựa chọn (tư duy), và tưởng tượng,...<br />
Chủ thể MT phải có sự quan sát tinh tế để lựa chọn được những chi tiết sinh động, phản ánh<br />
đúng và hấp dẫn nội dung bên trong của đối tượng; cần có trí tưởng tượng để sáng tạo những biểu<br />
hiện đặc trưng của sự vật, để tái tạo và hư cấu, lột tả được đúng “chân dung” của đối tượng.<br />
Trong những tác phẩm văn học lớn, người ta có thể MT được cả bản chất của hiện thực cuộc<br />
sống trong một thời đại, một giai đoạn lịch sử,... Đó là nhờ sự công phu và tài năng trong quan sát,<br />
khả năng tư duy lô-gic sắc bén và trí tưởng tượng phong phú,... của chủ thể MT.<br />
h) VMT bao giờ cũng được viết theo một ý tưởng nhất định. Ý tưởng được hiểu là chủ đích<br />
có tính hình tượng. Nếu không có ý tưởng, VMT sẽ tản mạn, lang thang và không có giá trị. Trong<br />
những tác phẩm MT, ý tưởng đồng nhất với chủ đề, và với những tác phẩm lớn, đó cũng chính là<br />
tư tưởng - nghệ thuật của nhà văn thể hiện trong tác phẩm MT.<br />
i) Nội dung của văn bản MT chứa đựng“thông tin- hình ảnh”. VMT không chấp nhận “MT<br />
để MT”. Nó không tái hiện đối tượng theo kiểu “cây tre có mắt, nồi đồng có quai”, mà phải mang<br />
đến cho người đọc những nội dung thông tin mới mẻ. Đó là những “thông tin - hình ảnh” bằng<br />
ngôn từ.<br />
Trong MT nghệ thuật, đặc điểm này đồng nghĩa với việc MT phải đem đến cái mới trong<br />
nhận thức và cảm thụ của người đọc về đối tượng. Chính ý tưởng và “thông tin - hình ảnh” là sản<br />
phẩm của thủ pháp làm “lạ hóa sự vật” trong nghệ thuật (V. Scơ-lốp-xki) [14, tr.18].<br />
k) MT bao giờ cũng xuất phát từ những “điểm nhìn” khác nhau<br />
Điểm nhìn (Tiếng Anh: pont of view) là điểm xuất phát để chủ thể quan sát và phát hiện<br />
những dấu hiệu của đối tượng, sau đó MT lại chúng theo một góc nhìn riêng biệt [2, p. 9-14].<br />
Các loại điểm nhìn thường được nhắc tới gồm: điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian<br />
và điểm nhìn tâm lí.<br />
- Điểm nhìn không gian là vị trí giúp chủ thể từ đó nhận biết được vị trí, nơi chốn, trình<br />
tự,... của đối tượng trong quan hệ với các sự vật hiện tượng khác, như: bên trái, bên phải, từ xa đến<br />
gần, từ ngoài vào trong,...<br />
- Điểm nhìn thời gian là thời điểm giúp chủ thể từ đó phát hiện được các dấu hiệu của đối<br />
tượng tùy theo sự thay đổi của thời gian, như: đấu tiên, cuối cùng; trước kia, hiện nay, sau này,...<br />
Một ví dụ thú vị về “điểm nhìn không gian” và “điểm nhìn thời gian”.<br />
Có hai đề văn MT, một đề yêu cầu học sinh (HS) “MT cảnh một buổi sáng trên cánh đồng”,<br />
và một đề khác yêu cầu “MT cánh đồng vào buổi sáng”. Hai đề ấy với HS bình thường thì có thể<br />
không cần phân biệt, nhưng với HS giỏi thì cần thấy chúng có yêu cầu khác nhau: đề thứ nhất yêu<br />
cầu HS quan sát và MT từ điểm nhìn thời gian (tả cảnh buổi sáng); đề thứ hai yêu cầu từ điểm nhìn<br />
không gian (tả cánh đồng).<br />
- Điểm nhìn tâm lí là những trạng thái tâm lí làm xuất phát điểm để chủ thể nhận ra các dấu<br />
hiệu của đối tượng theo một trình tự tùy thuộc tâm lí của chủ thể. Trong điểm nhìn tâm lí, ta thường<br />
gặp điểm nhìn cảm xúc (VD: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” - Truyện Kiều, Nguyễn Du),<br />
điểm nhìn thái độ (VD: quan trọng, đặc biệt thì tả trước, bình thường thì tả sau, hoặc ngược lại„...).<br />
Đáng chú ý là, trong điểm nhìn tâm lí, “điểm nhìn vị thế” (tức những tư cách của chủ thể<br />
khi MT) có ý nghĩa hết sức đặc biệt. Một ví dụ thú vị:<br />
79<br />
<br />
Phạm Minh Diệu<br />
<br />
“Quê hương là cầu tre nhỏ<br />
Mẹ về nón lá nghiêng che”<br />
(Quê hương, Đỗ Trung Quân)<br />
Trong nhà trường, nhiều khi HS cũng tả mẹ hoặc cô giáo của mình là: “hai má ửng hồng”,<br />
“mái tóc óng mượt, buông thả ngang vai”, thậm chí “cặp đùi thon dài xinh xắn”,... Những trường<br />
hợp đó được coi như là đã sai về “điểm nhìn vị thế”. Ở đây cũng vậy, một người con sao lại có thể<br />
nhìn thấy mẹ mình duyên dáng đến thế qua cái hình ảnh “nón lá nghiêng che” (!)<br />
Trong khi nghiên cứu điểm nhìn, nhiều nhà nghiên cứu còn đề ra các khái niệm như: điểm<br />
nhìn bên ngoài (Tiếng Pháp: le point de vue externe), điểm nhìn bên trong (le point de vue interne),<br />
điểm nhìn thấu suốt (le point de vue omniscient); cũng có tác giả đề xuất điểm nhìn cá nhân, điểm<br />
nhìn liên cá nhân, điểm nhìn tập thể, điểm nhìn nhân vật [10, tr. 158- 160].<br />
l) Ngôn ngữ văn MT cụ thể, sinh động, giàu chất tạo hình.<br />
Vì mục đích tái hiện đối tượng ở trạng thái vật chất, cụ thể, nên tính cụ thể, sinh động và<br />
tạo hình là đặc trưng của ngôn ngữ MT.<br />
Trong tiếng Việt thường dùng hàng loạt các từ có khả năng “tạo hình” như: trong trẻo, xanh<br />
xao, đen đủi... (từ láy); xanh ngắt, xanh thẳm, xanh thắm, xanh om... (từ ghép); mèo mù vớ cá rán,<br />
đen như cột nhà cháy... (thành ngữ)... Bên cạnh đó, người ta cũng thường dùng lối ví von, so sánh,<br />
nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ... để MT thêm sinh động. Và cuối cùng, để có tính tạo hình, VMT còn<br />
sử dụng khả năng biểu cảm của âm thanh ngôn ngữ (nhạc tính).<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Đề xuất nội dung dạy học văn MT<br />
<br />
Xuất phát từ đặc điểm của văn MT, xét tới các kĩ năng, năng lực (NL) cần hình thành cho<br />
HS, bài viết này xin được đề xuất các nội dung dạy học VMT ở trường phổ thông, bao gồm:<br />
a) Với lớp 2-3, HS cần được hình thành các NL ban đầu, gồm:<br />
(1) NL quan sát:<br />
Quan sát là NL đầu tiên, cần thiết trong tạo lập văn bản MT. Ở đây cũng có những yêu cầu<br />
chung so với các nội dung dạy học khác, tuy nhiên, trong VMT, quan sát phải được coi là NL cơ<br />
bản và quan trọng nhất.<br />
Đối tượng quan sát là các đồ vật, cây cối, động vật, cảnh và con người, nhưng ở lớp 2-3, đây<br />
là những đối tượng gần gũi với đời sống hàng ngày của các em và tiêu biểu cho những nhóm, loại<br />
đối tượng thường gặp trong cuộc sống.<br />
Mục đích quan sát ở lớp 2-3 là phát hiện các dấu hiệu vật chất đơn giản của đối tượng (về<br />
đường nét, hình dáng/ hình khối, màu sắc, âm thanh, mùi vị). Lưu ý: Với HS đại trà, chưa yêu cầu<br />
tìm các chi tiết tiêu biểu. Một số trường hợp có thể yêu cầu HS phát hiện hành vi, hoạt động; nhận<br />
biết về tính chất, công dụng,. . .<br />
Về phương pháp quan sát, có thể sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp,<br />
sử dụng các bài tập phát hiện và củng cố kết quả quan sát...<br />
(2) Trình bày các chi tiết theo trình tự, bao gồm: trình tự không gian (phải/ trái, trong/<br />
ngoài...), trình tự thời gian (trước/ sau; sớm/ muộn; quá khứ/ hiện tại/ tương lai...) và ở mức độ<br />
nhận biết, có thể theo trình tự tâm lí (yêu/ ghét; chính yếu/ thứ yếu...).<br />
(3) Viết/ nói được một vài câu / đoạn văn/ bài văn MT ngắn (khoảng 200-300 chữ) với các<br />
từ ngữ đúng nghĩa, diễn đạt rõ ràng, đúng đặc trưng của VMT, có mở đầu và có kết thúc. Tùy theo<br />
đối tượng HS từng học kì, từ lớp 2 đến lớp 3, ta có thể đề ra các yêu cầu từ thấp đến cao. Với HS<br />
năng khiếu, có thể đặt ra mức yêu cầu cao hơn.<br />
80<br />
<br />
Đặc điểm của văn miêu tả và việc đổi mới nội dung dạy học văn miêu tả trong trường phổ thông<br />
<br />
b) Với lớp 4-5, HS cần được phát triển các NL ở mức độ cao hơn, bao gồm:<br />
(1) NL quan sát các dấu hiệu bên ngoài biểu hiện những phẩm chất bên trong của đối tượng.<br />
NL này bao gồm quan sát đồ vật, cây cối để phát hiện phẩm chất bên trong khi cần thiết; quan sát<br />
hành vi, hoạt động, tiếng kêu ... thể hiện tính nết con vật; quan sát hành vi, hoạt động, ngôn ngữ,...<br />
biểu hiện tính cách của con người,... Đây là yêu cầu cao hơn và có thể nói là rất khó của quan sát.<br />
Tuy nhiên, tùy theo từng nhóm đối tượng HS để có thể đặt ra những mức độ yêu cầu phù hợp. Kinh<br />
nghiệm quan sát của các nhà văn có thể làm tư liệu dạy học rất bổ ích, nhưng tất nhiên không thể<br />
lấy đó làm mục tiêu.<br />
(2) NL nhận xét và lựa chọn<br />
Khác với lớp 2-3, HS lớp 4-5 phải biết gắn liền quan sát với nhận xét và lựa chọn, nhằm tìm<br />
ra các chi tiết tiêu biểu, có ý nghĩa. Muốn vậy, các em trước hết phải biết nhận xét về ý nghĩa, giá<br />
trị của các chi tiết khi quan sát, sau đó, biết lựa chọn các chi tiết nổi bật, có ý nghĩa tiêu biểu và<br />
có giá trị đại diện trong chừng mực nhất định cho một nhóm, loại đối tượng trong thực tế. Nói đơn<br />
giản, HS lớp 4-5 không được “thấy gì tả nấy” mà phải MT với những chi tiết chọn lọc.<br />
(3) NL trình bày các chi tiết theo trình tự ở mức độ thành thạo; biết bố cục bài viết/ nói<br />
HS lớp 4-5 cần thành thạo trong việc trình bày các chi tiết theo trình tự không gian, thời<br />
gian; đặc biệt, cần thành thạo cả về cách trình bày theo trình tự tâm lí (ở mức độ thông hiểu và vận<br />
dụng).<br />
HS cần biết tổ chức các ý theo bố cục: mở bài, thân bài, kết bài.<br />
(4) NL sử dụng các yếu tố tự sự, biểu cảm trong bài văn MT<br />
Sử dụng các yếu tố tự sự, biểu cảm trong bài văn MT là cách MT gián tiếp thông qua các kể<br />
chuyện hay bộc lộ cảm xúc. Nhiều HS đã có thể có được NL này ngay từ lớp 2-3. Tuy nhiên, đến<br />
lớp 4-5 mới nên đặt ra yêu cầu này đối với HS đại trà ở mức nhận biết và thông hiểu.<br />
(5) Viết/ nói thành thạo bài văn MT hoàn chỉnh (khoảng 300- 400 chữ); đúng đặc trưng<br />
VMT; từ ngữ chính xác, gợi cảm.<br />
c) Ở cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, nội dung dạy học VMT có thể bao gồm<br />
các kĩ năng viết câu/ đoạn VMT trong văn thuyết minh, nghị luận.<br />
<br />
3.<br />
<br />
Kết luận<br />
<br />
Trên quan điểm tổng thể, bài viết này lần đầu tiên nêu lên các đặc điểm của VMT một cách<br />
đa diện. Theo đó, chúng tôi cho rằng, VMT có mười đặc điểm nổi bật. Các đặc điểm này được đề<br />
xuất từ các góc độ: ngôn ngữ học (lí thuyết giao tiếp, lí thuyết văn bản, phong cách ngôn ngữ,. . . ),<br />
lí luận văn học (tính hình tượng, cấu trúc tác phẩm, trào lưu văn học, ngôn ngữ tác phẩm,. . . ), lí<br />
thuyết làm văn (các phương thức biểu đạt và các kiểu văn bản trong nhà trường phổ thông),. . .<br />
Từ quan niệm mới về VMT, chúng tôi cũng đã đề xuất các nội dung dạy học VMT trong<br />
nhà trường phổ thông theo định hướng hình thành, phát triển năng lực quan sát, nhận xét, lựa chọn<br />
chi tiết tiêu biểu, bố cục và hành văn,...<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]<br />
[2]<br />
<br />
Ari-xtốt, 1999. Nghệ thuật thơ ca. Nxb Văn học, Hà Nội.<br />
Frederick Crews, 1987. Hand book. New York, The Random house.<br />
<br />
[3]<br />
81<br />
<br />