intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc điểm kháng thể IgG tổng số và kháng thể đặc hiệu ANTI-HBsAg từ mẹ sang con

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

62
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm đánh giá tương quan giữa nồng độ kháng thể IgG tổng số và kháng thể anti-HBsAg trong máu mẹ và máu cuống rốn trẻ sơ sinh tại thời điểm sinh. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc điểm kháng thể IgG tổng số và kháng thể đặc hiệu ANTI-HBsAg từ mẹ sang con

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br /> <br /> ĐẶC ĐIỂM KHÁNG THỂ IgG TỔNG SỐ VÀ<br /> KHÁNG THỂ ĐẶC HIỆU ANTI-HBsAg TỪ MẸ SANG CON<br /> Nguyễn<br /> <br /> ọng Phúc*; Lê Xu n Hải**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: đánh giá tương quan giữa nồng độ kháng thể IgG tổng số và kháng thể anti-HBsAg<br /> trong máu mẹ và máu cuống rốn trẻ sơ sinh tại thời điểm sinh. Đối tượng và phương pháp:<br /> 67 cặp sản phụ và mẫu máu cuống rốn được thu thập tại thời điểm sinh, trong đó 55 cặp định<br /> lượng kháng thể IgG tổng số, 35 cặp (có mẹ đã tiêm vắc xin viêm gan B) được định lượng<br /> kháng thể anti-HBsAg. Kết quả: nồng độ trung bình IgG tổng số của mẹ trong nhóm “IgG con<br /> cao hơn mẹ” là 795,0 mg/dl và nhóm “IgG con thấp hơn mẹ” là 1.083,0 mg/dl, khác biệt có ý<br /> nghĩa thống kê (p < 0,01). Trong 35 cặp định lượng anti-HBsAg, 100% có nồng độ anti-HBsAg<br /> > 10 IU/L, 26 trường hợp nồng độ anti-HBsAg của con cao hơn mẹ, 9 trường hợp thấp hơn mẹ,<br /> khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Chưa thấy ảnh hưởng của các yếu tố tuổi thai, cân<br /> nặng thai, tuổi mẹ, tình trạng tiêm vắc xin của mẹ, nhóm máu mẹ, con tới việc chuyển kháng<br /> thể từ mẹ sang con (p > 0,05). Kết luận: ở người mẹ đã được tiêm phòng viêm gan B trước khi<br /> sinh, con sẽ được thừa hưởng nồng độ kháng thể anti-HBsAg tương đương với nồng độ kháng<br /> thể này ở mẹ.<br /> * Từ khóa: HBsAg; Vắc xin; Kháng thể; Máu cuống rốn.<br /> <br /> Characteristics of Total IgG and Anti-HBs IgG Antibody from<br /> Mother to Child<br /> Summary<br /> Objectives: To evaluate the relation between total IgG and anti-HBsAg antibody in maternal<br /> and cord blood at birth. Subjects and methods: 67 pairs of maternal and cord blood samples<br /> were collected at birth, in which 35 pairs of mothers had been vaccinated for hepatitis B<br /> prenataly were checked for HBsAg concentrations, 55 pairs was checked for total IgG levels.<br /> HBsAg and total IgG were measured based on electrochemical luminescence methods and<br /> nephelometric immunological methods, respectively. Results: The average concentration of<br /> maternal’s IgG in “total IgG of child higher than of mother” group was 795 mg/dl and of reversed<br /> group was 1,083 mg/dl, significantly different (p < 0.01). In 35 pairs of HBsAg was measured,<br /> the results are: 100% of HBsAg over 10 IU/L, 26 cases with child HBsAg levels higher than their<br /> mother, 9 cases with HBsAg levels lower than their mother, significantly different (p < 0.01).<br /> Conclusions: In the mother vaccinated for hepatitis B before pregnant, the child inherits the<br /> concentration of HBsAg levels equivalent to maternal antibodies.<br /> * Key words: HBsAg; Vaccine; Antibody; Cord blood.<br /> * Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec<br /> ** Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương<br /> Người phản hồi (Corresponding): Lê Xuân Hải (hailexuan@gmail.com)<br /> Ngày nhận bài: 20/10/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 12/01/2016<br /> Ngày bài báo được đăng: 19/01/2016<br /> <br /> 59<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh chưa<br /> phát triển đầy đủ, do vậy tình trạng miễn<br /> dịch ở trẻ sơ sinh phụ thuộc chủ yếu vào<br /> các globulin miễn dịch được truyền từ mẹ<br /> sang con qua hàng rào nhau thai trong<br /> thời gian mang thai, thông qua thụ thể<br /> FcRn (neonatal Fc receptor) [1]. Theo<br /> khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới<br /> (WHO), tiêm phòng vắc xin viêm gan B<br /> cho trẻ sơ sinh được thực hiện phổ biến<br /> ở nhiều bệnh viện sản khoa trong vòng<br /> 24 giờ sau sinh, việc tiêm phòng này có<br /> tác dụng tích cực trong phòng chống<br /> nhiễm virut viêm gan B đối với các trẻ sơ<br /> sinh có mẹ mang virut [2, 3]. Tuy nhiên,<br /> với trẻ sơ sinh có mẹ không nhiễm HBV<br /> và đã được tiêm vắc xin phòng HBV<br /> trước khi sinh, các kháng thể đặc hiệu<br /> kháng HBV hình thành trong cơ thể người<br /> mẹ được vận chuyển sang thai nhi có đặc<br /> điểm gì?, có liên quan với những yếu tố<br /> nào trong thời kỳ mang thai? là một số<br /> vấn đề cần được tìm hiểu rõ hơn về khía<br /> cạnh miễn dịch học.<br /> Nghiên cứu của chúng tôi nhằm: Đánh<br /> giá tương quan giữa nồng độ kháng thể<br /> IgG tổng số và kháng thể đặc hiệu với<br /> HBsAg trong máu mẹ và máu cuống rốn<br /> trẻ sơ sinh tại thời điểm sinh.<br /> ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đối tƣợng nghiên cứu.<br /> 67 cặp sản phụ và trẻ sơ sinh đăng ký<br /> theo dõi thai sản và sinh tại Bệnh viện<br /> Đa khoa Quốc tế Vinmec từ tháng 12 60<br /> <br /> 2014 đến 5 - 2015, trong đó 35 cặp có mẹ<br /> đã được tiêm phòng vắc xin chống virut<br /> viêm gan B. Các cặp mẫu máu này đều<br /> được xét nghiệm định lượng kháng thể<br /> IgG tổng số (12 cặp mẫu huyết thanh sau<br /> lưu trữ không đủ tiêu chuẩn định lượng<br /> IgG tổng số nhưng vẫn làm được xét<br /> nghiệm định lượng anti-HBsAg). Các cặp<br /> có mẹ đã tiêm vắc xin được làm thêm<br /> định lượng kháng thể anti-HBsAg. Như vậy,<br /> sẽ có 55 cặp mẹ - con được định lượng IgG<br /> và 35 cặp mẹ - con định lượng anti-HBsAg.<br /> 2. Phƣơng pháp nghiên cứu.<br /> * Thu thập mẫu:<br /> - Máu tĩnh mạch của mẹ: thể tích 2 ml,<br /> không chống đông, lấy trước khi sinh,<br /> tách huyết thanh, lưu trữ đông lạnh để<br /> định lượng kháng thể IgG, kháng thể đặc<br /> hiệu anti-HBs (với những trường hợp mẹ<br /> đã tiêm phòng virut viêm gan B).<br /> - Máu cuống rốn: thể tích 2 ml, không<br /> chống đông, lấy ngay sau khi sinh, tách<br /> huyết thanh, lưu trữ đông lạnh để định<br /> lượng IgG, anti-HBs.<br /> * Thu thập thông tin hồ sơ bệnh án:<br /> - Các thông tin khác khai thác về mẹ<br /> tại thời điểm sinh: tuổi mẹ, tiền sử sản<br /> khoa, tình trạng tiêm phòng, tăng cân<br /> trong thai kỳ, tiền sử bệnh tật và các xét<br /> nghiệm (công thức máu, HBsAg, kháng thể<br /> anti-HBsAg [nếu có], nhóm máu ABO/Rh...).<br /> - Các thông tin khai thác về con: tuổi<br /> thai, cân nặng, giới tính, tình trạng sức<br /> khỏe sau sinh, tính toàn vẹn, cân nặng<br /> của bánh nhau và dây rốn, các xét nghiệm<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br /> <br /> (nhóm máu, công thức máu), các dấu hiệu<br /> bất thường (nếu có)...<br /> <br /> > 35. Phân tích tuổi trung bình của mẹ<br /> theo giới tính của con sinh ra cho thấy<br /> không có sự khác biệt có ý nghĩa thống<br /> <br /> * Định lượng kháng thể:<br /> - Định lượng IgG tổng số bằng phương<br /> pháp miễn dịch đo độ đục trên máy AU680<br /> (Hãng Beckman Coulter): kháng thể kháng<br /> IgG trong thuốc thử kết hợp với IgG trong<br /> mẫu thử tạo phức hợp miễn dịch kháng<br /> nguyên - kháng thể khiến dung dịch phản<br /> ứng có độ đục. Nồng độ IgG có trong<br /> mẫu thử tỷ lệ thuận với độ đục do phức<br /> hợp miễn dịch kháng nguyên - kháng thể<br /> tạo ra.<br /> <br /> kê (p = 0,722).<br /> <br /> - Định lượng anti-HBsAg bằng phương<br /> pháp miễn dịch điện hóa phát quang,<br /> thực hiện trên máy phân tích miễn dịch tự<br /> động Cobas E411: các vi hạt phủ streptavidin<br /> được dùng để bắt cặp với các phức hợp<br /> kháng nguyên - kháng thể. Xét nghiệm sử<br /> dụng hỗn hợp kháng nguyên HBV được<br /> tinh sạch từ huyết thanh người.<br /> <br /> được xét nghiệm IgG tổng số chỉ là 55 cặp.<br /> <br /> - Theo tình trạng nhiễm virut viêm gan<br /> B: 3 trường hợp (4,5%) mẹ có HBsAg (+),<br /> 64 trường hợp (95,5%) mẹ có HBsAg (-).<br /> 2. Đặc điểm nồng độ kháng thể ở mẹ<br /> và con.<br /> Do có 12 cặp mẫu máu mẹ - con không<br /> đủ tiêu chuẩn xét nghiệm IgG tổng số sau<br /> lưu trữ nên số cặp mẫu máu mẹ - con<br /> - Tương quan nồng độ IgG trong máu<br /> mẹ và con:<br /> mg/dl<br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đặc điểm chung củ<br /> nghiên cứu.<br /> <br /> đối tƣợng<br /> <br /> - Tuổi mẹ và giới tính con:<br /> Bảng 1: Phân bổ đối tượng nghiên cứu<br /> theo nhóm tuổi mẹ và giới tính con.<br /> <br /> mg/dl<br /> <br /> Giới tính con<br /> Tổng<br /> <br /> Nhóm<br /> tuổi mẹ<br /> <br /> Nam<br /> <br /> Nữ<br /> <br /> p<br /> (2 test)<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> 20 - 35<br /> tuổi<br /> <br /> 32<br /> <br /> 82,1<br /> <br /> 22<br /> <br /> 78,6<br /> <br /> 54<br /> <br /> 80,6<br /> <br /> > 35 tuổi<br /> <br /> 7<br /> <br /> 17,9<br /> <br /> 6<br /> <br /> 21,4<br /> <br /> 13<br /> <br /> 19,4<br /> <br /> Tổng<br /> <br /> 39<br /> <br /> 58,2<br /> <br /> 28<br /> <br /> 41,8<br /> <br /> 67<br /> <br /> 100<br /> <br /> p = 0,722<br /> <br /> 54 trường hợp (80,6%) mẹ có tuổi từ<br /> 20 - 35, 13 trường hợp (19,4%) mẹ có tuổi<br /> <br /> Biểu đồ 1: Tương quan giữa nồng độ IgG<br /> tổng số của mẹ và con.<br /> Có tương quan thuận, mức độ yếu giữa<br /> nồng độ IgG tổng số trong máu con với<br /> nồng độ IgG tổng số của mẹ (hệ số tương<br /> quan Spearman = 0,04).<br /> - So sánh nồng độ IgG trong máu mẹ<br /> và con:<br /> 61<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br /> <br /> Bảng 2: So sánh nồng độ IgG tổng số trong máu mẹ và con.<br /> Số lƣợng (n = 55)<br /> <br /> %<br /> <br /> Nồng độ IgG của mẹ (mg/dl)<br /> <br /> IgG của con cao hơn mẹ<br /> <br /> 23<br /> <br /> 41,8<br /> <br /> 795,0 ± 154,8<br /> <br /> IgG của con thấp hơn mẹ<br /> <br /> 32<br /> <br /> 58,2<br /> <br /> 1.083,0 ± 186,1<br /> <br /> 55<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 962,8 ± 224,2<br /> <br /> Nhóm<br /> <br /> Tổng<br /> p<br /> <br /> > 0,05<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> 23 trường hợp (41,8%) có nồng độ IgG tổng số của con cao hơn của mẹ, 32 trường<br /> hợp (58,2%) có nồng độ IgG tổng số của con thấp hơn của mẹ, khác biệt không có<br /> ý nghĩa thống kê (p > 0,05).<br /> Nồng độ IgG trung bình của mẹ trong nhóm “IgG của con cao hơn mẹ” là 795 mg/dl,<br /> thấp hơn rõ rệt so với nhóm “IgG của con thấp hơn mẹ” (1.083 mg/dl), khác biệt có ý nghĩa<br /> thống kê (p < 0,01).<br /> [<br /> <br /> 3. Nồng độ kháng thể anti-HBsAg trong máu mẹ và con.<br /> - Tương quan nồng độ anti-HBsAg của mẹ và con:<br /> 20.000<br /> <br /> 15.000<br /> <br /> 10.000<br /> <br /> 5.000<br /> <br /> 0<br /> 0<br /> <br /> 5.000<br /> HBsAb con<br /> <br /> 10.000<br /> HbsAb me<br /> <br /> 15.000<br /> <br /> 20.000<br /> <br /> Fitted values<br /> <br /> Biểu đồ 2: Tương quan nồng độ anti-HBsAg của mẹ và của con.<br /> Có tương quan thuận, mức độ chặt giữa nồng độ anti-HBsAg trong máu con với<br /> nồng độ anti-HBsAg của mẹ (hệ số tương quan Spearman = 0,97).<br /> - So sánh nồng độ anti-HBsAg trong máu mẹ và con:<br /> 62<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br /> <br /> Bảng 3: So sánh nồng độ anti-HBsAg trong máu mẹ và con.<br /> Nhóm<br /> <br /> Số lƣợng (n = 35)<br /> <br /> %<br /> <br /> Nồng độ anti-HBsAg của mẹ (IU/L)<br /> <br /> Anti-HBsAg của con thấp hơn mẹ<br /> <br /> 9<br /> <br /> 25,7<br /> <br /> 3.439,9 ± 6.602,0<br /> <br /> Anti-HBsAg của con cao hơn mẹ<br /> <br /> 26<br /> <br /> 74,3<br /> <br /> 974,5 ± 1.315,2<br /> <br /> 35<br /> <br /> 100<br /> <br /> 1.608,37 ± 3.566,9<br /> <br /> Tổng<br /> p<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> > 0,05<br /> <br /> 26 trường hợp (74,3%) có nồng độ anti-HBsAg của con cao hơn của mẹ, 9 trường<br /> hợp (25,7%) thấp hơn so với mẹ. Kiểm định cho thấy số trường hợp có mẹ truyền antiHBsAg sang con tăng (26/35), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01), nồng độ antiHBsAg trung bình của mẹ theo các nhóm “con cao hơn mẹ” và “con thấp hơn mẹ”<br /> khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).<br /> BÀN LUẬN<br /> <br /> trong thời kỳ mang thai (biểu đồ 2), phù<br /> <br /> Phân tích nồng độ IgG trung bình của<br /> mẹ theo các nhóm “con cao hơn mẹ” và<br /> “con thấp hơn mẹ” thấy khác biệt có ý<br /> nghĩa thống kê (p < 0,01). Kết quả này<br /> phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đây:<br /> khi nồng độ IgG của mẹ cao tới một<br /> ngưỡng nào đó, sự vận chuyển kháng thể<br /> từ mẹ sang con giảm, có thể do số lượng<br /> thụ thể FcRn có trong bánh nhau là một<br /> con số hữu hạn và toàn bộ hoặc phần lớn<br /> những thụ thể này sẽ bị trung hòa khi<br /> lượng kháng thể tăng cao (15 g/l) [4], làm<br /> tỷ lệ truyền IgG của mẹ sang con không<br /> tiếp tục tăng lên, điều này một lần nữa<br /> khẳng định việc vận chuyển kháng thể<br /> IgG là vận chuyển tích cực và số lượng<br /> thụ thể FcRn đóng vai trò ảnh hưởng trực<br /> tiếp lên quá trình vận chuyển này.<br /> Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, có<br /> <br /> hợp với nghiên cứu của Zhiqun Wang và<br /> <br /> mối liên quan chặt giữa nồng độ kháng<br /> <br /> cũng như nhiều nghiên cứu trước đó cho<br /> <br /> thể anti-HBsAg của mẹ truyền sang con<br /> <br /> thấy, nồng độ kháng thể kháng HBsAg<br /> <br /> CS [5].<br /> Với trường hợp mẹ không mắc viêm<br /> gan B, theo khuyến cáo của WHO và chỉ<br /> đạo của Bộ Y tế, vắc xin viêm gan B cần<br /> được tiêm cho trẻ sơ sinh trong vòng<br /> 24 giờ sau sinh, vì đây là biện pháp hiệu<br /> quả nhất phòng tránh lây nhiễm viêm gan<br /> B từ mẹ hay từ các thành viên khác trong<br /> gia đình và những người xung quanh chăm<br /> sóc cho trẻ [2]. Tuy nhiên, theo Chiến lược<br /> Phòng chống viêm gan B của Trung tâm<br /> Phòng chống bệnh tật Mỹ (CDC), trường<br /> hợp mẹ có kết quả âm tính với HBsAg,<br /> bác sỹ có thể trì hoãn việc tiêm mũi đầu<br /> tiên đến sau khi xuất viện hoặc 1 tháng<br /> sau sinh nếu trẻ có cân nặng < 2 kg [3].<br /> Kết quả nghiên cứu của chúng tôi<br /> <br /> 63<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2