intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc điểm không gian kiến trúc làng cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ

Chia sẻ: ViPutrajaya2711 ViPutrajaya2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

96
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết chỉ ra những đặc điểm cơ bản có ảnh hưởng đến không gian kiến trúc của làng người Việt (Kinh) trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Đó là, làng là đơn vị tụ cư cơ bản, là đơn vị tự quản về các phương diện: Bảo vệ an ninh, tổ chức thờ cúng và các phong tục, các hoạt động văn hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc điểm không gian kiến trúc làng cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ

  1. Nghiên Tạp chí cứu Khoatrao họcđổi ● Research-Exchange - Viện of 64 Đại học Mở Hà Nội opinion (2/2020) 21-28 21 ĐẶC ĐIỂM KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC LÀNG CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT Ở BẮC BỘ Bùi Xuân Đính* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 2/8/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 2/02/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/02/2020 Tóm tắt: Bài viết chỉ ra những đặc điểm cơ bản có ảnh hưởng đến không gian kiến trúc của làng người Việt (Kinh) trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Đó là, làng là đơn vị tụ cư cơ bản, là đơn vị tự quản về các phương diện: bảo vệ an ninh, tổ chức thờ cúng và các phong tục, các hoạt động văn hóa. Các đặc điểm này đã quy định diện mạo của làng từ bên ngoài đến việc bố trí các bộ phận hợp thành bên trong. Nhìn chung, không gian kiến trúc làng Việt là sự hài hòa giữa các yếu tố cấu thành của môi trường bao quanh, giữa con người với môi trường; giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, vừa mộc mạc, bình dị thân thiết, nhưng cũng rất linh thiêng. tạo cho người ý thức gắn bó với làng, với quê hương. Từ khóa: Làng Việt, nông thôn, không gian kiến trúc, văn hóa, Bắc Bộ. 1. Một số đặc điểm của làng có niệm “quê cha đất tổ” và sự phân biệt giữa ảnh hưởng đến không gian kiến trúc dân “chính cư” và “ngụ cư”), là một trong Làng người Việt là đơn vị dân cư cơ những cơ sở đầu tiên để hình thành tục lệ bản, được hình thành từ rất sớm, với tên của làng, tư tưởng về quyền tự trị tự quản, gọi, ranh giới lãnh thổ riêng, có cơ sở hạ tư tưởng trọng tục… tầng, cơ cấu tổ chức, lệ tục, lối sống và cả + Tính chất tự túc, tự cấp về kinh tế: “tính cách riêng, “tiếng làng” riêng, hoàn tuyệt đại đa số các làng Việt là làng nông chỉnh và tương đối ổn định qua quá trình nghiệp, dựa trên cơ sở kinh tế chính là lịch sử. Những đặc điểm chung về kinh trồng lúa nước. Một số ít là làng thủ công tế - xã hội, văn hóa, tín ngưỡng của người nghiệp (làng nghề), cư dân sống bằng Việt được biểu hiện cụ thể ở từng làng, một nghề hay nhiều nghề, có khi chỉ bằng trong đó có một số mặt có ảnh hưởng lớn một công đoạn của nghề. Một số ít hơn đến việc bố trí không gian kiến trúc làng. là làng thương nghiệp, cư dân sống chủ Đó là: yếu bằng nghề buôn bán. Dù thuộc loại + Mỗi làng là một cộng đồng về địa hình nào thì làng Việt trước Cách mạng vực với ranh giới lãnh thổ riêng, xác định Tháng Tám 1945 đều có một cơ sở kinh tế và tương đối ổn định. Đây là yếu tố đầu nặng tính sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc, quy tiên gắn kết người nông dân lại với nhau trình sản xuất đều dựa vào lao động thủ với tâm thức “người cùng làng”. Ý thức công, làm ăn theo kinh nghiệm gia truyền, về cộng đồng làng thể hiện trước hết ở ý ít có sự cải tiến kỹ thuật, kinh tế hàng hóa thức về địa vực (thể hiện rõ nhất ở khái phát triển yếu ớt, không tạo ra những “đột * Viện Dân tộc học Việt Nam
  2. 22 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion biến” để hình thành các trung tâm công - Khi dân đông phải chia làng thì làng được thương nghiệp và đặc biệt là không hình lập mới cũng theo mô hình của làng gốc. thành luồng ngoại thương có sức công phá Hiện tượng tái lập làng tiểu nông theo mô mạnh mẽ cấu trúc kinh tế - xã hội làng xã. hình của làng gốc là một “hằng số” của Tuyệt đại đa số người nông dân suốt đời làng Việt qua các thời kỳ trung đại, cận đại và truyền đời chỉ làm ăn, sinh sống trong và cả một phần thời hiện đại ở Việt Nam. phạm vi làng mình, nếu có phải làm ăn ở Những điều trên đây ảnh hưởng lớn đâu xa thì cũng chỉ là “tạm thời”, nhằm có đến kiến trúc làng. một chút kinh tế rồi lại quay trở về làng, số ít tuy “ly hương“ nhưng vẫn dành trọn 2. Một số đặc điểm của không gian tâm tư, tình cảm cho nơi quê cha đất tổ. kiến trúc làng Việt cổ truyền ở châu thổ Bắc Bộ + Làng là một cộng đồng về phong tục: mỗi làng có lệ tục riêng về cưới xin 2.1. Không gian kiến trúc làng thể (thể hiện ở lệ nộp cheo), về tang ma (thể hiện tư duy, thế ứng xử hay tính thích hiện ở lệ táng), về ngôi thứ, khao vọng…, ứng của cư dân nông nghiệp lúa nước trở thành những nét riêng của làng, để trước môi trường sông nước, khí hậu phân biệt với làng bên cạnh. Đời sống xã nhiệt đới gió mùa hội của làng được điều chỉnh chủ yếu bằng Châu thổ Bắc Bộ là vùng tương đối lệ tục và hương ước. thấp trũng, địa hình không bằng phẳng; + Làng là một cộng đồng về tín kết hợp với hệ thống sông ngòi dày đặc ngưỡng: mỗi làng có hệ thống đình - chùa (sông Hồng, sông Thái Bình cùng nhiều - đền - miếu - văn chỉ với phong cách kiến sông lớn nhỏ khác), tạo ra nhiều dạng trúc riêng. Các công trình này gắn với các cảnh quan khác nhau. lễ thức thờ cúng có ảnh hưởng sâu đậm Châu thổ Bắc Bộ chịu ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, của người nông dân. nặng nề của khí hậu nhiệt đới gió mùa Các đặc điểm trên đây (cùng nhiều với các đặc điểm cơ bản: khí hậu nóng đặc điểm cơ bản khác) của làng diễn ra ẩm, chia hai mùa rõ rệt (mùa khô và mùa và tồn tại suốt trong lịch sử trung đại và mưa) với độ ẩm, lượng mưa chênh lệch cận đại Việt Nam. Trong thời gian dài nhau rất lớn. dặc hơn 9 thế kỷ ấy, dù xã hội Việt Nam Hai đặc điểm cơ bản trên đây có có biến thiên như thế nào, dù Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến các hình thái cư trú phong kiến sắp xếp làng vào loại xã nào của các cộng đồng cư dân. Nguyên tắc cơ theo kiểu “nhất xã, nhất thôn” (mỗi xã chỉ bản của việc lập làng là tận dụng thế đất, gồm một làng) hay “nhất xã nhị thôn, tam thế nước. Trên vùng châu thổ Bắc Bộ, các thôn” (mỗi xã gồm 2 - 3 làng), thì làng làng Việt thường ở thế đất cao nhằm tránh vẫn tồn tại với tính cách là đơn vị cộng ngập lụt, nhưng lại tiện nguồn nước. Dựa cư của những người trồng lúa nước tự cấp vào kết quả nghiên cứu của các học giả tự túc, có cá tính riêng. Có lúc làng xóm Pièrre Gourou, Nguyễn Văn Huyên, Trần bị phiêu tán vì chiến tranh, loạn lạc hoặc Từ…, kết hợp với những khảo sát thực mất mùa đói kém thì chỉ sau một thời gian địa, chúng tôi nhận thấy rằng, trên vùng lại được tái lập với không gian kiến trúc, châu thổ Bắc Bộ, hình thái cư trú chính cấu trúc vật chất, khung tổ chức xã hội, của người Việt là các làng dựng trên các phong tục tập quán, tín ngưỡng như cũ. doi đất cao, gồm các dạng làng cụ thể sau:
  3. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 23 + Làng trên “giồng” đất ven sông: tác động của nước lũ dòng sông, được con tức làng dựng trên những doi đất bồi cao người nhận biết qua theo dõi một hai mùa ở hai bờ sông, hình thành các dải làng liên lũ. Tuy nhiên, để đề phòng ngập lụt có thể tục, nhiều khi hàng vài cây số, chạy song xảy ra, cư dân các xóm trại phải quai bờ, song và uốn lượn theo các khúc của sông. đắp gảnh quanh khu cư trú, giữa các cánh Làng có thể nằm gần sông hoặc cách xa bãi nhằm hai mục đích: “phân vùng” (theo sông; nhìn chung có địa thế rộng, hệ thống độ cao, gắn với độ màu mỡ) của các cánh đường đi chạy thẳng góc với chiều dài của bãi để bố trí các loại cây trồng cho phù làng (kiến trúc kiểu “xương cá”). hợp, vừa tạo ra các “thang bậc” để ngăn chặn từ xa luồng nước lũ xâm nhập vào + Làng ven đồi: làng dựng trên khu cư trú. Vùng đất bãi được cải tạo để những dải đồi thấp, gần các con sông, trồng màu, cây ăn quả; một số diện tích các khu đồng trũng, vừa để tránh lụt, vừa gần các lạch nước, con đầm được cải tạo dành thêm diện tích để cấy lúa. Làng có thành ruộng cấy lúa. Còn ở khu cư trú, địa thế hẹp, song nhà cửa trong làng nhìn muốn dựng nhà để an cư lạc nghiệp lâu chung cách nhau một khoảng rộng, được dài, người dân vùng bãi phải rất nhiều lập ở các cốt đất dưới 60 mét, trên những công sức đào ao “vượt nền nhà” (đào đất bậc thang đào vào sườn đồi. Hướng nhà đắp nền, tạo cho nền nhà có một độ cao thường theo hướng đồi, hay nhìn ra phía tương đương với mặt đê, có thể “trụ” được có ruộng nước gần nhất, nên đứng ở sân với mức nước lũ cao nhất; hình thành ao, nhà, mở ra một tầm nhìn rộng. vừa nuôi cá, vừa tạo cảnh quan thoáng mát + Làng trên cồn đất ven biển: là loại cho ngôi nhà). hình làng phổ biến ở các vùng ven biển từ Tính thích ứng với môi trường thiên Quảng Ninh xuống Nam Định, Ninh Bình. nhiên có khí hậu nhiệt đới gió mùa trong Làng xếp thành các cụm nhỏ, kéo dài thành kiến trúc xây dựng của người Việt còn những dãy song song trên những dải gò hay thể hiện ở việc tôn trọng những nguyên những doi đất cao ven biển. Giữa các dải đồi tắc của thuật phong thủy. Thuật này ảnh gò hay doi đất cao là những vạt đất trũng hưởng từ thuyết ngũ hành của người thấp có thể tạo thành ruộng cấy lúa. Làng Trung Hoa (chú ý mối quan hệ tương thường khô ráo, trải rộng, nhà cửa được bao sinh, tương khắc giữa 5 yếu tố: Kim, Mộc, bọc bởi những vườn rộng trồng cây ăn quả; Thủy Hỏa, Thổ), song vẫn có những yếu các con đường hình thành theo cồn đất. tố thuần Việt, chẳng hạn, coi toàn bộ khu + Làng trên đất bãi bồi: thường ở cư trú của làng (có khi bao hàm cả một dọc sông Hồng và nhiều sông khác. Đấy phần khu canh tác) là phần thân thể của vốn là những xóm trại của các làng ven vị thần, còn “tứ chi” và các bộ phận khác sông, cách biệt với khu cư trú chính ở phân bố tại nhiều nơi khác. Thuật phong trong đồng bằng con đê hay một dải đất thủy còn coi làng gồm một luồng hơi lành bãi bồi (công châu thổ). Các trại này được thổi vào - tượng trưng bằng Long (Rồng) lập từ khi có các dải đất bồi nổi lên, song và một luồng hơi độc thở ra, tượng trưng không xác định được ranh giới giữa hai bằng Hổ. Một làng được coi là đẹp, đem làng cùng bờ hay ở thế đối ngạn của dòng lại “vượng khí” phải ở trong điều kiện tốt song nên các làng phải cử người ra lập nhất của ngũ hành và so với những mạch trại giữ đất. Các trại được hình thành trên dưới đất - nơi vận các khí lành và khí độc. những doi đất cao nhất - thường ít chịu Không bảo đảm được hay vi phạm điều
  4. 24 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion này là phá hoại sự hài hòa, cân bằng đã thực phụ trợ; một phần diện tích để làm được xác lập. Vì thế, chủ nhân của một khu chăn thả gia súc; vì thế khu cư trú mảnh đất thổ cư nào thường phải xem chỉ chiếm một diện tích nhỏ, bị “khuôn” mình là hành gì trong ngũ hành trước khi chặt bởi lũy tre xanh. Khi người đông, đất thực hiện các công việc xây dựng: chẳng trong làng chật, việc giải quyết đất ở cho hạn đào đất động chạm đến long mạch; các gia đình mới chỉ bằng con đường lập đào một gò đất thuộc hành hỏa có thể gây các trại, thường điều những gia đình đông đến hỏa hoạn… con trai ra ở trước. Việc tạo lập cuộc sống Cơ sở của phong thủy còn chú ý xem mới ở trại đầy vất vả khó khăn, thường xét các yếu tố: thế đất, thế nước, hướng phải sau hai thế hệ, trại mới đông đúc và gió, độ ẩm của khu đất để dựng làng, phát triển thành làng xóm. mảnh đất để dựng nhà, thậm chí cả quan Tư duy nông nghiệp, thậm chí là tư niệm của dân làng về từng mảnh đất cũng duy “dĩ nông vi bản”, tư duy kinh tế tự cấp như mệnh của mỗi người có mối quan hệ tự túc, khép kín còn thể hiện ở bố trí trong như thế nào với mảnh đất đó. Chẳng hạn, khu cư trú. Mỗi gia đình có một khuôn người có mệnh Thủy” không thể dựng nhà viên, một không gian cư trú gồm nhà tại một “gò Hỏa” vì dễ ‘xung khắc”, tức chính, nhà ngang (bếp, gắn với chuồng gà, dễ gặp những trắc trở trong cuộc sống cho chuồng lợn), sân (ngoài để tổ chức sinh gia đình. hoạt khi trời không bị mưa, vào buổi tối Tính thức ứng với môi trường thiên còn để sản xuất (đập lúa, phơi lúa, làm nhiên trong kiến trúc còn thể hiện ở bố trí nghề thủ công). Cuối sân là bể nước, chút nhà cửa. Có thể thấy rõ điều này qua sự diện tích nhỏ để trồng rau ăn hàng ngày. bố trí của khuôn viên một gia đình ở cảnh Góc sân ở phía đối diện là đống rạ để đun, quan đồng chiêm với khuôn viên một gia đống rơm để trâu bò ăn cho đến vụ gặt đình ở cảnh quan đồng mùa. Nếu ở đồng mới. Khuôn viên của các gia đình trong mùa, do ở vị thế cao nên cốt đất tại khu cư hầu hết các làng nghề, tức các làng thủ trú không chênh lệch nhiều so với ngoài công chuyên nghiệp (mà số làng này chỉ đồng, trong làng, giữa đường làng với chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số hơn 7.000 khuôn viên từng gia đình không lớn. Trong làng ở châu thổ Bắc Bộ - theo P.Gourou) khi đó, ở các làng đồng chiêm, cốt đất ở cũng được bố trí tương tự, khu vực để làm khu cư trú cao hơn hẳn so với ngoài đồng; nghề thủ công hầu như không có; hoặc ở trong làng, giữa đường làng, đường ngõ, chỉ chiếm một diện tích rất nhỏ. Trên bình sân, bếp và nhà chính của từng gia đình diện cả làng, cũng không có khu vực làm hình thành các thang bậc rõ rệt. Đấy là kết nghề cho những người thợ. quả các gia đình bỏ bao công sức “đào ao 2.2. Không gian kiến trúc làng khẳng vượt đất”. Độ cao của sân, nhà bếp, nhà định sự tồn tại lâu đời của từng cộng đồng chính của từng gia đình trong làng đủ sức cư dân nông nghiệp ruộng nước “chịu đựng” mức nước lũ xâm nhập của Các cộng đồng cư dân sống bằng năm cao nhất. nông nghiệp ruộng nước mang đặc điểm Tư duy nông nghiệp trong bố trí chung là định cư bền vững; hầu như không không gian kiến trúc làng thể hiện ở việc thay đổi hoặc rất ít khi thay đổi khu cư trú. cư dân từng cộng đồng dành diện tích tối Biểu hiện cho sự lâu đời, ổn định bền vững đa cho trồng lúa và các loại cây lương của làng Việt chính là ở cấu trúc vật chất
  5. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 25 của khu này: ngoài lũy tre - “bộ áo giáp” gian, 7 gian) hiện lên ở giữa làng, thường của làng, như đã trình bày, còn ở cổng làng. có cốt đất cao nhất, với mái ngói lô xô, Lúc đầu chỉ là cổng tre; khi dân cư đông bốn đao đình cong vút là biểu hiện cho sự đúc, khấm khá thì xây cổng gạch. Cổng xây ổn định, phồn thịnh của từng làng. Đình càng to, cao, trang trí kiểu cách thì càng càng to, cao, càng thể hiện sự bề thế của khẳng định sự lâu đời, ổn định, bề thế của làng, là niềm tự hào của dân làng. Ngoài làng. Gắn với cổng làng là cây đa (hoặc cây đình còn có các công trình khác, như chùa, đề, có khi là cây si) to cao, tỏa bóng rộng đền (miếu), văn chỉ, nhà thờ tổ sư nghề rãi, rễ đa buông xuống thành nhiều chùm (ở các làng nghề) và nhà thờ các dòng họ càng tôn thêm tính cổ kính, bề thế của làng. trong làng. Tất cả hợp thành một tổ hợp kiến trúc khẳng định sự lâu đời, đông đúc, Bên trong khu cư trú, tính ổn định, ổn định và phồn thịnh của làng. lâu đời của làng thể hiện trước hết ở hệ thống đường làng ngõ xóm, được lát gạch Tính ổn định theo “hệ giá trị nông nghiêng ở giữa, nhìn chung rộng một nghiệp” trong bố trí không gian kiến trúc trượng hoặc 1,2 trượng (từ 0,8 - 1 mét hiện của làng còn thể hiện ở giá trị “giữa làng”. nay). Hai bên đường là khoảng đất rộng Xưa kia, trong buổi đầu lập làng, các dòng để thoát nước và để trâu bò đi. Những họ đều chọn nơi cao nhất để làm nhà ở. con đường lát gạch này được hình thành Khu vực này được coi là trung tâm của từ một tục rất đẹp của làng xã: tục nộp làng, là đất “có giá”, đặc biệt, trong việc cheo (các đôi vợ chồng trước khi tổ chức xây dựng bạn đời của các cô gái thì đây là đám cưới phải bỏ tiền mua một số gạch một giá trị lớn (“Lấy chồng giữa làng”). - nhiều ít tùy quy định của từng làng để Các dòng họ, các nhóm cư dân đến sau lát một đoạn đường với số gạch đó - nếu phải ở các vị trí thấp hơn; đặc biệt, với dân con gái làng đi lấy chồng làng khác phải ngụ cư, phải ở rìa làng. lát đoạn đường dài gấp đôi). Một số làng, 2.3. Không gian kiến trúc làng vừa chẳng hạn, các làng Nguyệt Áng, Đại Áng thể hiện, vừa bảo đảm nguyên tắc phòng ở huyện Thanh Trì (thành phố Hà Nội) thủ của từng cộng đồng cư dân mang còn có quy định, người về già cũng phải tính tự trị, tự quản cao trong lòng xã hội lát một đoạn đường như vậy và phải hoàn quân chủ thành nghĩa vụ trước khi chết. Chỉ những Làng là đơn vị cơ bản của nước, làng đã ổn định từ lâu cả về cơ sở kinh tế, nhưng xưa kia, nhà nước không dành cơ cấu tổ chức, lệ tục… mới hình thành cho làng sự quan tâm thường xuyên, đầy được những con đường lát gạch như vậy. đủ trên tất cả các mặt: kinh tế, tài chính, Một yếu tố kiến trúc khác, khẳng an ninh. Từng đơn vị dân cư ấy phải tự định cho sự ổn định, trường tồn của làng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc xã là ngôi đình. Cho đến nay, giới nghiên sống, đặc biệt là việc bảo vệ an ninh. Sự cứu sử học và dân tộc học đều cho rằng, chủ động của làng xã trong bảo vệ an ngôi đình làng xuất hiện vào khoảng niên ninh được thể hiện ở cấu trúc vật chất, rõ hiệu Hồng Đức đời Vua Lê Thánh Tông nhất là ở hệ thống hào lũy bao quanh làng (1470 - 1497) - khi làng xã đã phát triển hoặc các cụm xóm của làng (trong trường ổn định về nhiều mặt (dân cư đông đúc, hợp làng chia thành nhiều cụm xóm tách có tiềm lực kinh tế khá, cơ cấu tổ chức, lệ rời nhau). Các lũy tre được trồng từ lâu tục đã tương đối hoàn chỉnh). Ngôi đình (5 đời, được chăm sóc chu đáo, hàng năm
  6. 26 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion chỉ được tỉa bớt những cành, cây làm ảnh phòng của tuần phiên càng bảo đảm cho hưởng đến đường đi trong làng (việc này sự yên ổn trong làng. do tuần phiên đảm nhiệm, dưới sự chỉ đạo 2.4. Các công trình kiến trúc trong của các kỳ mục, chức dịch); các hành vi làng vừa thể hiện một sự phức hợp các bẻ măng, chặt tre ở lũy đều bị xử phạt rất tín ngưỡng và tôn giáo, vừa bảo đảm các nghiêm khắc (được ghi rõ trong hương yêu cầu về tâm linh cho dân làng ước). Hàng năm, các xóm ngõ (hoặc các giáp) có trách nhiệm tu bổ, bảo vệ các lũy Như đã trình bày, mỗi làng Việt xưa tre thuộc địa phận xóm mình, để bị phá, kia đều có một hệ thống các công trình “hổng” sẽ bị phạt. Vì thế, qua thời gian kiến trúc gồm đình, chùa, đền miếu, văn năm tháng, lũy tre được “ken” rất dày đặc, chỉ (hay văn từ)…Các công trình đó được ngay cả khi dùng dao phá tre để trổ lối đi xây dựng khi làng đã ổn định và tương đối cũng rất khó. Lũy tre là ranh giới thiêng hoàn chỉnh trên nhiều phương diện; nhằm liêng của khu cư trú của mỗi cộng đồng đáp ứng được các yêu cầu về tâm linh của làng, là biểu hiện cho cá tính, tính độc lập, từng cộng đồng cư dân nông nghiệp có một tính bền vững, vững chắc của làng. phức hợp của nhiều tín ngưỡng và tôn giáo. Gắn với lũy tre là hào sâu (ở bên - Đình: là trung tâm sinh hoạt cộng trong lũy tre) hoặc hệ thống ao (cả ở trong đồng làng, từ đầu thế kỷ XVII đảm nhận và ngoài lũy tre), vừa để thoát nước cho thêm chức năng thờ (thờ vọng) thành khu cư trú trong mùa mưa, trữ nước tưới hoàng - vị thần che chở và bảo vệ cho cộng vào mùa khô, vừa làm làm tăng thêm sự đồng làng. Đình là yếu tố lớn nhất trong chắc chắn trong phòng thủ: kẻ gian có ý văn hóa phi vật thể của làng xã. định xâm nhập vào làng dù có qua được - Đến (miếu, nghè, am, từ…, tùy lũy tre (điều này trên thực tế rất khó) thì cách gọi của của từng làng), là nơi thần còn có hào sâu. Lũy tre và hào tạo thành linh thành hoàng trú ngụ, là nơi thờ chính thế “hộ công” nhau rất chắc chắn. Người thành hoàng. Ngoài ra còn có các đền, ngoài muốn vào làng chỉ còn theo cổng miếu thờ các sự kiện, nhân vật không phải làng, từ đây có đường chính đi sâu vào thành hoàng. trong, từ đường chính có các đường tỏa về - Chùa: nơi thờ Phật. Thông thường, các ngõ, tạo thành thế răng lược, liên hoàn mỗi làng có một chùa, song nhiều làng có với nhau, rất thân quen, thông thuộc với đến 3- 4, thậm chí 7- 8 ngôi chùa. người trong làng, nhưng lại như một “trận đồ bát quái”, rất dễ bị lạc đối với người lạ. - Văn từ, văn chỉ: nơi thờ Khổng Tử, Cổng chính được lắp bằng cửa gỗ lim chắc Chu Văn An, các vị tiên hiền và những chắn. Các cổng phụ (cổng ở phía sau làng, người đỗ đạt của làng; thể hiện sự can đi ra đồng) có khi chỉ được lắp bằng cửa thiệp của Nho giáo, sự phát triển của giáo tre, song cũng được làm rất chắc. Cạnh dục và khoa cử Nho học vào làng xã. Thời cổng làng (hoặc cổng các xóm hay cụm Lê, các văn từ đều xây nhà thờ, sang thời xóm lẻ) là điếm canh của tuần phiên. Buổi Nguyễn, thường lộ thiên, nên gọi là văn chiều tối, sau khi mọi người đi làm đồng chỉ. Nhiều làng gọi di tích này là “đình về hết, tiếng trống “sưu không” (hay “thu thánh” (nơi thờ thánh Khổng Tử). Đây không”) nổi lên, các cổng chính phụ được còn là nơi sinh hoạt chính của hội Tư văn đóng lại, bảo đảm “nội bất xuất, ngoại - hội của những người có trình độ Nho học bất nhập”; kết hợp với sự canh gác, tuần của làng.
  7. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 27 - Võ chỉ: nơi thờ những người đỗ đạt làng. Về mặt kiến trúc, xây dựng, trách ngạch võ, nơi sinh hoạt của những người nhiệm đó thể hiện ở các mặt: từng tham gia quân đội. + Không được xâm lấn khuôn viên - Hệ thống nhà thờ các họ, nhà thờ đình, các nhân vật “có tiếng”của làng: tọa lạc + Không được làm nhà quay vào phân tán trong các xóm, là nơi thờ tổ tiên hướng chính của đình hay “đối mặt” với các dòng họ, những người làng làm quan đình; về nghỉ tại làng, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt; đồng thời + Không được dựng nhà cao hơn khẳng định sự phát triển và đóng góp của đình (thực tế điều này rất khó xảy ra vì các cộng đồng huyết thống trong quá trình điều kiện kinh tế và kỹ thuật dựng nhà của mở mang làng xã. người nông dân thời phong kiến rất thấp kém). - Một số làng có quán của Đạo giáo, có đền thờ Mẫu riêng (không nằm trong Không chỉ với ngôi đình, mà cả với chùa). các công trình khác như chùa, đền miếu, văn chỉ… cũng phải tuân thủ các quy định - Ngoài ra còn có các miếu nhỏ, thờ trên. các “tạp thần”, thể hiện tín ngưỡng đa Tính cộng đồng trong kiến trúc xây thần, vạn vật hữu linh của người Việt. dựng còn thể hiện ở việc tuân thủ những 2.5. Không gian kiến trúc làng đề quy định chung của làng về cấm xâm lấn cao giá trị cộng đồng xây dựng nhà cửa trên các gò đống thiêng, Làng Việt là đơn vị dân cư hoàn đào ao chặn các đường liên quan đến chỉnh, mang tính cộng đồng cao trên “long mạch” của làng; phải “nhìn trước nhiều phương diện; do vậy, giá trị của nhìn sau” trong xây dựng nhà ở, không cộng đồng được tôn vinh, đề cao, giá trị được “chơi trội” (chẳng hạn đắp nền nhà cá nhân không thật sự được coi trọng, vượt hơn “cốt” chung của xóm ngõ). phải phụ thuộc, phục tùng và “nương 3. Kết luận theo” giá trị của cộng đồng. Có thể chỉ Trước môi trường có địa hình trũng ra một số biểu hiện của sự đề cao giá trị thấp, lại không bằng phẳng, chịu tác động cộng đồng này qua các công trình kiến mạnh của nước lũ các dòng sông, của khí trúc như sau: hậu nhiệt đới gió mùa, cư dân các làng Ngôi đình là biểu tượng cao nhất của Việt ở châu thổ Bắc Bộ đã tạo ra thế thích giá trị cộng đồng và tinh thần cộng đồng ứng trong xây dựng khu cư trú bằng các làng xã, bởi như đã trình bày, đây không kiểu làng theo các cảnh quan khác nhau. chỉ là trung tâm sinh họat của làng, mà còn Mỗi khu cư trú gồm nhiều yếu tố, không là nơi thờ thành hoàng, vị thần che chở chỉ thể hiện cách tư duy, thế ứng xử của cho vận mệnh của cả làng. Vì thế, ngôi con người với môi trường, mà còn thể đình nói chung, thậm chí cả hướng đình hiện phương thức tổ chức cuộc sống trên rất hệ trọng, quyết định sự “ăn nên làm tất cả các mặt: an sinh (“an cư” để “lạc ra” hay sự “lụi bại” của dân làng, thậm chí nghiệp” với một nền kinh tế nông nghiệp), “Toét mắt là tại hướng đình”. Bởi thế, mọi tổ chức phòng thủ, bảo đảm đời sống tâm thành viên trong làng phải có trách nhiệm linh, giáo dục … Nhiều yếu tố xuất phát bảo vệ ngôi đình và các giá trị của đình điểm chỉ nhằm bảo đảm cuộc sống cho con
  8. 28 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion người, đã trở thành biểu tượng của làng, là báo: chừng nào mà vẫn còn một bộ phận giá trị văn hóa của làng Việt, chẳng hạn, đông đảo cư dân sống ở nông thôn, bằng lũy tre làng, cổng làng, cây đa đầu làng, nông nghiệp thì hãy đừng phá bỏ không mái đình làng …Có yếu tố còn góp phần gian kiến trúc làng. Đâu phải cứ thu ruộng tham gia vào việc giám sát xã hội với các đất của nông dân để xây dựng các khu hành vi xử sự của con người (cổng làng, công nghiệp, các khu đô thị với những đình làng, chùa…). Các yếu tố này vừa dãy nhà cao hàng chục tầng mới là công mộc mạc, bình dị thân thiết, nhưng cũng nghiệp hóa, đô thị hóa./. rất linh thiêng. tạo ra cho con người ý Tài liệu tham khảo: thức về giữ gìn sự cân bằng sinh thái giữa các yếu tố cấu thành của môi trường bao [1]. Phan Đại Doãn (2001), Làng xã Việt Nam, quanh, giữa con người với môi trường. Đó một số vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội, Nxb. cũng là một trong những nét nổi bật trong Chính trị Quốc gia, Hà Nội. lối sống của người nông dân Việt. Điều [2]. Pièrre Gourou (2003), Người nông dân này đã được Nhà Địa lý học - Nhân văn châu thổ Bắc Kỳ, Hội Khoa học lịch sử Việt người Pháp Pièrre Gourou viết trong tác Nam, Viện Viễn Đông Bác cổ, Nxb. Trẻ Thành phẩm Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ: phố Hồ Chí Minh. “Một trong những dáng vẻ đáng yêu nhất của châu thổ là sự hòa hợp hoàn hảo giữa [3]. Huy Vu (1978),”Tìm hiểu về sự cư trú ở con người với thiên nhiên. Từ bao thế kỷ một số làng xã trên miền đồng bằng Bắc Bộ”, nay, người nông dân đã biết tổ chức những trong Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. mối quan hệ hài hòa với cảnh quan quanh Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 2, trang 74 - 91. mình. Bắc Kỳ mang tính chất của một nền Địa chỉ tác giả: Viện Dân tộc học Việt Nam văn minh ổn định trong sự hài hòa về vật Email: buixuandinh@gmail.com chất và thẩm mỹ với những điều kiện tự nhiên. Còn như tại các xứ sở đã phát triển hơn, con người đã cắt đứt sự hòa hợp đó với thiên nhiên” (Pièrre Gourou, 2003, trang 522- 523). Đây chính là cơ sở tạo ra lòng yêu quê hương làng xóm, gắn bó mật thiết với làng xóm của người nông dân, từ lòng yêu quê hương nân lên thành tình yêu đất nước. Đấy cũng là động lực để bao thế hệ người nông dân sẵn sàng đổ máu hy sinh để giữ lấy mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình. Ngày nay, nông thôn đang chịu nhiều tác động dữ dội của công cuộc công nghiệp hóa. Có thể có nhiều yếu tố văn hóa cổ truyền không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại, song trước khi bỏ chúng, phá chúng xin hãy bình tâm xem lại để không còn bị ám ảnh vì đã “trót phá, trót bỏ”. Về mặt kiến trúc, xin có một lời cảnh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2