intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc trưng và hoạt tính hấp phụ Asen của các hạt nano được tổng hợp từ nước phèn sắt

Chia sẻ: Trương Tiên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

70
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nghiên cứu này, các hạt nano oxit trên cơ bản là oxit sắt (nano oxit phèn sắt) lần đầu tiên được tổng hợp từ nước nhiễm phèn sắt bằng phương pháp thủy nhiệt dưới sự hỗ trợ của thiết bị nung vi sóng và được ứng dụng làm chất hấp phụ asen từ nước ngầm. Báo viết này đã mở đường cho ứng dụng nước phèn vào phục vụ đời sống.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc trưng và hoạt tính hấp phụ Asen của các hạt nano được tổng hợp từ nước phèn sắt

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 59 – 68<br /> <br /> ĐẶC TRƯNG VÀ HOẠT TÍNH HẤP PHỤ ASEN CỦA CÁC HẠT NANO ĐƯỢC TỔNG HỢP<br /> TỪ NƯỚC PHÈN SẮT<br /> Nguyễn Trung Thành1, Phan Phước Toàn1<br /> 1<br /> <br /> Trường Đại học An Giang<br /> <br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 18/05/2017<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 16/11/2017<br /> Ngày chấp nhận đăng: 12/2017<br /> Title:<br /> Synthesis nanoparticles from<br /> alum-water with high iron<br /> concentration and their arsenic<br /> absorption activity<br /> Keywords:<br /> Arsenic adsorption, alloy oxide<br /> nanostructures, groundwater,<br /> alum-water<br /> Từ khóa:<br /> Hấp phụ asen, nano hỗn<br /> hợp oxit, nước ngầm,<br /> nước phèn<br /> <br /> ABSTRACT<br /> In this study, nano structural oxide material (basically on iron oxide) - NSOM<br /> is synthesized from alum - water by the hydrothermal method with assistant of<br /> microwave; and characterized with XRD, FTIR, TEM measurements in the first<br /> time. The NSOM is applied as a novel adsorbent for arsenic removal from<br /> groundwater. The experiment operations show that the NSOM showed very high<br /> arsenic capacity. Especially, the arsenic adsorption capacity of NSOM is higher<br /> ~1.2 fold than that of nano ferric material basically on the same amount of<br /> adsorbent in the same experiment conditions. The enhanced arsenic capacity of<br /> NSOM can be due to the NSOM is contained an alloy oxide structure, including<br /> ferric oxide and SiO2. The interaction of ferric oxide and silica can be taken<br /> place. This interaction can activate the positive charge to ferric adsorption sites<br /> toward arsenic adsorption facilities. This research has arisen an alum-water<br /> application to serve human life.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trong nghiên cứu này, các hạt nano oxit trên cơ bản là oxit sắt (nano oxit phèn<br /> sắt) lần đầu tiên được tổng hợp từ nước nhiễm phèn sắt bằng phương pháp thủy<br /> nhiệt dưới sự hỗ trợ của thiết bị nung vi sóng và được ứng dụng làm chất hấp<br /> phụ asen từ nước ngầm. Thành phần cơ bản của nước nhiễm phèn và các đặc<br /> trưng của nano oxit phèn sắt (bao gồm TEM, XRD, FTIR) được thực hiện đầy<br /> đủ trong báo cáo này. Trong vai trò là chất hấp phụ, nano oxit phèn sắt cho<br /> thấy khả năng hấp phụ asen từ nước ngầm rất cao và cao gấp ~1,2 lần so với<br /> nano oxit sắt tính trên một đơn vị khối lượng chất hấp phụ. Điều này có thể là<br /> nano oxit phèn sắt có cấu trúc "alloy" (dung dịch rắn) của nhiều loại oxit kim<br /> loại khác nhau, trong đó có SiO2. Nhờ sự tương tác qua lại của oxit sắt và oxit<br /> silic có thể làm các tâm hấp phụ (oxit sắt) tích điện dương và dễ dàng hấp phụ<br /> các cấu tử asen trong nước ngầm. Báo cáo này đã mở đường cho ứng dụng<br /> nước phèn vào phục vụ đời sống.<br /> <br /> học, hóa lý và hóa sinh thường được áp dụng như:<br /> oxi hóa/kết tủa; đông tụ/kết tủa; lọc nano<br /> (nanofiltration) thẩm thấu ngược, điện phân, hấp<br /> phụ, trao đổi ion, tuyển nổi; chiết dung môi và xử<br /> lý sinh học (Cao & cs., 2012; Gupta & cs., 2013;<br /> Lê Hoàng Việt & cs., 2013; Nguyễn Trung Thành<br /> <br /> 1. GIỚI THIỆU<br /> Hiện nay, việc loại bỏ asen trong nước là rất cần<br /> thiết để bảo vệ sức khỏe cho người sử dụng và<br /> giải quyết vấn đề nước sạch ở nông thôn. Để loại<br /> bỏ asen trong môi trường nước, các kỹ thuật hóa<br /> 59<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 59 – 68<br /> <br /> & cs., 2014). Hầu hết các kỹ thuật cho thấy khả<br /> năng loại bỏ asen nhất định. Trong đó, phương<br /> pháp hấp phụ được đánh giá cao và sử dụng phổ<br /> biến để loại bỏ asen; bởi chi phí thực hiện thấp<br /> (bao gồm chi phí đầu tư và vận hành), có khả<br /> năng loại bỏ asen ở nồng độ cao (tùy thuộc vào kỹ<br /> thuật chế tạo vật liệu hấp phụ), chất hấp phụ có<br /> thể tái sử dụng nhiều lần và ít tạo ra chất độc hại<br /> sau quá trình xử lý (Addo Ntim & cs., 2011;<br /> Nguyễn Trung Thành & cs., 2014). Tuy nhiên, đối<br /> với phương pháp hấp phụ asen, hiệu quả của quá<br /> trình phụ thuộc rất lớn vào kỹ thuật chế tạo vật<br /> liệu và kinh nghiệm của người tổng hợp vật liệu.<br /> Ngoài ra, thời gian cho quá trình hấp phụ hóa học<br /> asen đạt cân bằng được diễn ra rất chậm (Cao &<br /> cs., 2012). Do đó, việc tìm kiếm vật liệu tiên tiến<br /> trong hấp phụ asen vẫn đang thu hút sự quan tâm<br /> của nhiều nhà khoa học.<br /> <br /> dụng nước phèn vào khoa học, đời sống vẫn chưa<br /> được khám phá. Trong nghiên cứu này, vật liệu<br /> nano có thành phần là hỗn hợp của các oxit sắt,<br /> oxit silic, oxit nhôm… (đây là các nguyên tố có<br /> hàm lượng cao trong nước phèn) lần đầu tiên<br /> được tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt trong<br /> hệ thống lò vi sóng được điều khiển tự động và<br /> được chứng minh có hoạt tính cao trong quá trình<br /> hấp phụ asen từ nước ngầm.<br /> 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> 2.1 Vật liệu<br /> 2.1.1 Hóa chất<br /> Axit clohydric (HCl - 36% thể tích - xuất xứ<br /> Trung Quốc); NaOH; glycerol - (được cung cấp<br /> bởi Công ty Merck) và nước khử ion (DI water);<br /> được sử dụng trong quá trình tổng hợp chất hấp<br /> phụ. KBr, các dung dịch asen, nhôm, silic, canxi,<br /> magie và sắt chuẩn (được cung cấp bởi Công ty<br /> Merck) được sử dụng trong các phân tích đặc<br /> trưng của vật liệu và đánh giá hàm lượng nhôm,<br /> silic, canxi, magie, sắt và asen trong mẫu thí<br /> nghiệm.<br /> <br /> Gần đây, các vật liệu nano trên cơ bản là oxit sắt<br /> (ví dụ, -Fe2O3; nano oxit sắt trên carbon<br /> nanotube, chitosan và hỗn hợp của oxit sắt với<br /> oxit khác,...) cho thấy hiệu quả hấp phụ asen rất<br /> tốt (Addo Ntim & cs., 2011; Cao & cs., 2012;<br /> Gupta & cs., 2013) và đã có những triển khai thực<br /> tế tại các nước tiên tiến trên thế giới (Gupta & cs.,<br /> 2013). Tuy nhiên, ở Việt Nam, các vật liệu này<br /> vẫn chưa được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi<br /> trong thực tế. Nhìn chung, các vật liệu hấp phụ<br /> thường được chế tạo thành các hạt có kích thước<br /> nano hoặc các hạt nano được gắn trên bề mặt của<br /> chất mang; và đòi hỏi chất mang phải có diện tích<br /> bề mặt lớn và tương tác mạnh với các hạt này.<br /> Mục đích của việc này là làm tăng diện tích tiếp<br /> xúc và tăng độ bền của các hạt hấp phụ. Kết quả<br /> của việc này là hiệu quả hấp phụ asen của vật liệu<br /> tăng lên đang kể.<br /> <br /> 2.1.2 Nước tự nhiên nhiễm phèn<br /> Nước tự nhiên nhiễm phèn được chúng tôi thu<br /> nhận trực tiếp từ nhà dân tại huyện Cần Giờ,<br /> thành phố Hồ Chí Minh. Các công đoạn cơ bản<br /> bao gồm lấy mẫu, bảo quản mẫu (thêm axit<br /> H2SO4 đậm đặc - 3 mL/1 lít nước phèn theo<br /> TCVN 6663:2011) (Bộ Khoa học và Công nghệ,<br /> 2008; 2011) và làm sạch mẫu (sử dụng giấy lọc)<br /> đã được tiến hành trước khi sử dụng nước phèn<br /> làm nguyên liệu tổng hợp các hạt nano cho nghiên<br /> cứu này.<br /> 2.1.3 Mẫu nước ngầm<br /> Trong các thí nghiệm, các mẫu nước ngầm nhiễm<br /> asen được lấy từ các giếng khoan có các độ sâu ~<br /> 20 m tại Chợ Vàm, Phú Tân, tỉnh An Giang, Việt<br /> Nam. Các mẫu nước ngầm được thu tại trạm nước<br /> ngầm. Trước khi phân tích chất lượng nước, các<br /> yêu cầu lưu trữ đối với mẫu nước ngầm được thực<br /> hiện theo hướng dẫn của TCVN 5993-1995 (Chất<br /> lượng nước - Lấy mẫu - Hướng dẫn bảo quản và<br /> xử lý mẫu) và TCVN 6000-1995 (Chất lượng<br /> <br /> Nước phèn được biết như là một dạng nước tự<br /> nhiên và có hai dạng chủ yếu, đó là nước phèn sắt<br /> và nước phèn nhôm. Việc phân loại này dựa vào<br /> thành phần hóa học có trong nước phèn. Đối với<br /> phèn sắt, nước phèn chứa chủ yếu là các ion sắt.<br /> Nước phèn và đất phèn đều ảnh hưởng tiêu cực<br /> đến quá trình sản xuất nông nghiệp, khan hiếm<br /> nước sạch. Cho đến nay việc khai thác và ứng<br /> 60<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 59 – 68<br /> <br /> nước - Lấy mẫu - Hướng dẫn lấy mẫu nước<br /> ngầm). Cụ thể là 3 mL dung dịch HNO3 63% (sản<br /> xuất tại Trung Quốc) cho vào các mẫu nước ngầm<br /> (1 lít) để đạt pH ~ 3 và sau đó là mẫu nước ngầm<br /> được bảo quản ở điều kiện 5 oC.<br /> <br /> ống Teflon được làm mát đến nhiệt độ phòng.<br /> Một hỗn hợp huyền phù có màu vàng cam thu<br /> được sau các công đoạn trên. Sau đó, hỗn hợp<br /> huyền phù được ly tâm (15.000 vòng/phút) và rửa<br /> nhiều lần với nước DI; một khối bùn nhão thu<br /> được sau quá trình này. Nano oxit sắt thu được<br /> sau khi sấy khối bùn nhão ở 80 oC trong thời gian<br /> 4 giờ. Mẫu nano oxit sắt được lưu trữ trong bình<br /> hút ẩm để chuẩn bị cho các thí nghiệm tiếp theo.<br /> <br /> 2.2 Phương pháp<br /> 2.2.1 Tổng hợp vật liệu hấp phụ<br /> Tổng hợp các hạt nano oxit sắt và các hạt nano từ<br /> nước phèn được thực hiện trong thiết bị phá mẫu<br /> bằng vi sóng. Quá trình tổng hợp được mô tả như<br /> sau:<br /> <br /> - Tổng hợp các hạt nano từ nước phèn: quá trình<br /> tổng hợp cũng được tiến hành như quá trình tổng<br /> hợp nano oxit sắt. Cách chuẩn bị nguyên liệu như<br /> sau: 6 mmol urea được hòa tan vào 45 mL nước<br /> phèn và 15 mL etylen glycol. Lưu ý rằng nước<br /> phèn được xem là nguồn cung cấp ion sắt (cũng<br /> như các ion khác có trong nước phèn) cho quá<br /> trình tổng hợp vật liệu. Thành phần hóa học cơ<br /> bản của nước phèn được liệt kê trong Bảng 1.<br /> <br /> - Tổng hợp các hạt nano oxit sắt (III): hòa tan 6<br /> mmol FeCl3 và 6 mmol urea vào dung môi (gồm<br /> 45 mL nước DI và 15 mL etylen glycol) và khuấy<br /> đều. Ống Teflon chứa hỗn hợp có màu cam trong<br /> suốt này được chuyển vào lò phá mẫu vi sóng và<br /> nung ở nhiệt độ 140 oC. Sau thời gian nung 3 giờ,<br /> Bảng 1. Các thành phần hóa học cơ bản của nước phèn<br /> <br /> Tên nguyên tố<br /> <br /> Nồng độ ban đầu (mg/L)<br /> <br /> Nồng độ sau tổng hợp (mg/L)<br /> <br /> Fe<br /> <br /> 40,44<br /> <br /> Không phát hiện<br /> <br /> Al<br /> <br /> 5,37<br /> <br /> Không phát hiện<br /> <br /> Ca<br /> <br /> 185,6<br /> <br /> 123,2<br /> <br /> Mg<br /> <br /> 450,85<br /> <br /> 410,0<br /> <br /> Si<br /> <br /> 6,083<br /> <br /> Không phát hiện<br /> <br /> 2.2.2 Thực nghiệm hấp phụ asen từ nước ngầm<br /> <br /> 2.2.3 Xác định nồng độ ion asen, sắt, silic, nhôm,<br /> canxi và magie<br /> <br /> Đối với các thí nghiệm nghiên cứu khả năng loại<br /> bỏ asen từ nước ngầm, các mẫu vật liệu nano oxit<br /> sắt và nano được tổng hợp từ nước phèn được<br /> khảo sát trên mẫu nước ngầm thực tế (có nồng độ<br /> ban đầu 100 µg/L) ở các điều kiện cố định như:<br /> thể tích nước ngầm 50 mL và lượng chất hấp phụ<br /> là 50 mg (đối với các thí nghiệm xác định thời<br /> gian lấy mẫu thích hợp) hoặc 10 mg (đối với các<br /> thí nghiệm xác định dung lượng hấp phụ asen).<br /> Sau thời gian hấp phụ asen, chất hấp phụ được<br /> tách ra bằng cách ly tâm (10.000 vòng/phút) và<br /> dung dịch chiết sau ly tâm được tiến hành phân<br /> tích hàm lượng asen để đánh giá hiệu quả hấp<br /> phụ.<br /> <br /> Nồng độ asen trong các thí nghiệm hấp phụ asen<br /> và hàm lượng sắt, silic, nhôm, canxi và magie<br /> trong mẫu nước phèn và nano oxit nước phèn<br /> được xác định bằng phương pháp phát xạ ngọn<br /> lửa với máy ICP (Industively coupled plasma;<br /> iCap-6000, Thermal). Các dung dịch asen, sắt,<br /> silic, nhôm, canxi và magie chuẩn được pha chế<br /> từ các dung dịch chuẩn của Công ty Merck để xây<br /> dựng các đường chuẩn phục vụ cho việc xác định<br /> hàm lượng asen, sắt, silic, nhôm, canxi và magie.<br /> <br /> 61<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 59 – 68<br /> <br /> 2.2.4 Phân tích đặc trưng của mẫu<br /> <br /> hấp phụ; V là thể tích của nước ngầm được nghiên<br /> cứu hấp phụ (50 mL); m là khối lượng của vật liệu<br /> hấp phụ được sử dụng (10 mg).<br /> <br /> Các phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu được thực<br /> thực hiện với máy D2 Phaser XRD 300 W, bước<br /> gốc quay là 0,05o, bước thời gian 30 s sử dụng<br /> nguồn phát xạ là Cu Kα (λ= 1,5406 Å). Hình dạng<br /> và kích thước hạt của nano oxit sắt và nano oxit<br /> phèn sắt được chụp ảnh bằng kính hiển vi điện tử<br /> truyền qua (TEM). Đặc trưng thành phần hóa học<br /> bề mặt của các mẫu được thực hiện bằng phương<br /> pháp quang phổ hồng ngoại (FTIR) với máy<br /> Alpha – Bruker.<br /> <br /> 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> 3.1 Tổng hợp nano oxit sắt và nano oxit phèn<br /> sắt<br /> Các vật liệu hấp phụ được tổng hợp theo qui trình<br /> đã được mô tả trong phần thực nghiệm. Quy trình<br /> tổng hợp các vật liệu trong nghiên cứu này được<br /> phát triển theo phương pháp của Zhenhua Wei.<br /> Tuy nhiên, trong quá trình tổng hợp, glycerol<br /> được thay thế bằng etylen glycol. Ở đây, phương<br /> pháp của Zhenhua Wei (Zhenhua Wei & cs.,<br /> 2012) được chọn làm phương pháp cơ bản cho<br /> tổng hợp nano oxit phèn sắt bởi sự tương thích về<br /> dung môi; nồng độ sắt và dạng muối sắt trong quá<br /> trình tổng hợp.<br /> <br /> 2.2.5 Tính toán hiệu quả hấp phụ asen của chất<br /> hấp phụ<br /> Hiệu quả xử lý asen trong nước ngầm được tính<br /> toàn dựa vào công thức sau:<br /> <br /> H% <br /> <br /> Co  Ce<br />  100<br /> Co<br /> <br /> Trong quá trình tổng hợp, urea đóng vai trò như<br /> một chất hydroxyt hóa các ion sắt trong dung dịch<br /> và etylen glycol có thể đóng vai trò là chất hoạt<br /> động bề mặt để điều chỉnh hình dạng của các hạt<br /> nano oxit sắt (như đã được xác định trong nghiên<br /> cứu của Zhenhua Wei (Zhenhua Wei & cs.,<br /> 2012)). Cơ chế hydroxyt hóa các ion sắt bởi urea<br /> được trình bày như bên dưới.<br /> <br /> Xác định khả năng hấp phụ asen từ nước ngầm<br /> của vật liệu:<br /> <br /> q<br /> <br /> Co  C e<br /> V<br /> m<br /> <br /> Trong đó, Co và Ce lần lượt là nồng độ asen ban<br /> đầu và sau khi tiếp xúc 40 phút đối với vật liệu<br /> o<br /> CO(NH2)2 + 3 H2O 140 C<br /> <br /> 3 NH4OH + FeCl3<br /> <br /> CO2 + 2 NH4OH<br /> 3 NH4Cl + Fe(OH)3<br /> <br /> Trong nghiên cứu này, thiết bị phá mẫu vi sóng<br /> lần đầu tiên được sử dụng tổng hợp nano oxit sắt<br /> và nano oxit phèn sắt bằng phương pháp thủy<br /> nhiệt. Thiết bị phá mẫu vi sóng được sử dụng bởi<br /> có nhiều ưu điểm vượt trội so với các thiết bị<br /> được sử dụng tổng hợp oxit sắt trước đây, như: (i)<br /> thời gian tổng hợp mẫu nhanh hơn (do sử dụng vi<br /> sóng) (Ho V.T.T & cs., 2011); (ii) có thể theo dõi<br /> <br /> các thông số trong bình phản ứng và cài đặt nhiệt<br /> độ và áp suất theo mọi yêu cầu tổng hợp; (iii) có<br /> thể tổng hợp nhiều mẫu đồng thời; điều này rất<br /> thuận lợi cho việc thực nghiệm khi cần theo dõi<br /> ảnh hưởng của các yếu tố khác (nhiệt độ, áp suất,<br /> tốc độ nâng nhiệt và thời gian nung) đến quá trình<br /> tổng hợp và hoạt tính hấp phụ/xúc tác.<br /> <br /> 62<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 59 – 68<br /> <br /> A<br /> <br /> B<br /> <br /> Hình 1. Ảnh TEM của nano oxit sắt (A) và nano oxit phèn sắt (B)<br /> <br /> rất cao. Tuy nhiên, khi so sánh với kết quả trước<br /> đây, Zhenhua Wei và cs. (2012) thu được các hạt<br /> nano oxit sắt có hình dạng nest - like (như tổ yến,<br /> hạt có hình cầu rỗng được tạo thành từ các hạt<br /> nano hình que nhỏ hơn) và kích thước của hạt<br /> nano oxit sắt nest - like > 400 nm.<br /> <br /> 3.2 Các đặc trưng TEM của vật liệu<br /> Các ảnh TEM của các mẫu vật được thể hiện<br /> trong Hình 1. Nhìn chung, các mẫu nano oxit sắt<br /> (Hình 1A) và nano oxit phèn sắt (Hình 1B) đều có<br /> kích thước nano và < 50 nm. Đối với các hạt nano<br /> oxit sắt, mẫu thu được có hình dạng flower - like<br /> (như bông hoa) và có mức độ đồng nhất hình dạng<br /> <br /> Bảng 2. So sánh sản phẩm nano oxit sắt trong nghiên cứu này và nghiên cứu của Zhenhua Wei<br /> <br /> Nano oxit<br /> sắt<br /> <br /> Phương pháp<br /> tổng hợp<br /> <br /> Hoá chất điều<br /> khiển hình dạng<br /> <br /> Trong<br /> nghiên<br /> cứu này<br /> <br /> Phương pháp thuỷ<br /> nhiệt có sự hỗ trợ<br /> của vi sóng<br /> <br /> Etylen glycol<br /> <br /> Hình dạng hạt<br /> <br /> Kích thước hạt<br /> trung bình<br /> < 50 nm<br /> <br /> Flower - like (hạt có hình<br /> cầu được tạo thành từ các<br /> hạt nano hình cầu)<br /> Trong<br /> nghiên<br /> cứu của<br /> Zhenhua<br /> Wei và cs.<br /> (2012)<br /> <br /> Phương pháp thuỷ<br /> nhiệt với thiết bị<br /> autoclave<br /> <br /> Glycerol<br /> <br /> ~ 400 nm<br /> <br /> Nest - like (hạt có hình cầu<br /> rỗng được tạo thành từ các<br /> hạt nano hình que nhỏ hơn)<br /> <br /> 63<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2