Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
<br />
<br />
ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC - VẤN ĐỀ<br />
CẦN QUAN TÂM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHỔ<br />
THÔNG VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY<br />
<br />
Phùng Thị Phong Lan(1)<br />
<br />
<br />
T<br />
rong quá trình đổi mới toàn diện, căn bản giáo dục để có thể đáp ứng yêu cầu hội nhập như<br />
hiện nay, giáo dục Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề cấp thiết. Một trong số đó là đảm<br />
bảo công bằng xã hội trong giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số. Điều này đặt ra những yêu cầu từ phía<br />
quản lý nhà nước nhằm xây dựng và phát triển một xã hội học tập để mọi trẻ em vùng dân tộc thiểu<br />
số đều bình đẳng trong cơ hội đến trường.<br />
Từ khóa: Công bằng xã hội trong giáo dục, quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông, vùng dân<br />
tộc thiểu số.<br />
<br />
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII)<br />
2011-2020 đã khẳng định: Thực hiện công bằng đã chỉ ra: “Chưa thực hiện tốt công bằng xã hội<br />
xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo trong giáo dục. Con em gia đình nghèo gặp nhiều<br />
dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng khó khăn khi muốn học lên cao. Ở các trường đại<br />
thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ học tỉ lệ sinh viên là con em gia đình nghèo, con<br />
sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước em xuất thân công nông, nhất là nông dân ở vùng<br />
một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số giảm dần”.<br />
có nền giáo dục phát triển. Xây dựng xã hội học Điều này cho thấy, vấn đề thực hiện công bằng<br />
tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai ai cũng được đi xã hội trong giáo dục vùng DTTS còn có nhiều<br />
học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc bất cập.<br />
thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách. 1. Thực trạng không công bằng trong<br />
Điều đó cho thấy, đối với một lĩnh vực được coi giáo dục của vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam<br />
là then chốt như giáo dục, việc đảm bảo công hiện nay<br />
bằng xã hội trong giáo dục được đề cập như một<br />
trong những mục tiêu trọng tâm. 1.1. Mức độ không công bằng giữa trẻ<br />
dân tộc thiểu số với trẻ vùng đồng bằng<br />
Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số (DTTS),<br />
sống xen kẽ trên một địa bàn rộng lớn, chủ yếu là Có thể thấy, trẻ vùng DTTS ít có cơ hội<br />
khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, duyên học tập như trẻ vùng đồng bằng, đô thị.<br />
hải miền Trung,… là vùng núi, cao nguyên, vùng Bảng 1: Tỷ trọng dân số từ 5 tuổi trở lên chưa<br />
sâu vùng xa, mức sống thấp, điều kiện sống gặp từng đi học ở các vùng kinh tế- xã hội, 2014.<br />
nhiều khó khăn, độ chênh lệch về trình độ phát (Đơn vị tính: %)<br />
triển kinh tế – xã hội ngày càng lớn nhưng lại<br />
Vùng kinh tế - xã hội Chưa từng đi học<br />
là địa bàn chiến lược về an ninh, quốc phòng.<br />
Trung du và miền núi phía Bắc 9,0<br />
Là một bộ phận không thể tách rời trong cộng<br />
Đồng bằng sông Hồng 1,6<br />
đồng các dân tộc Việt Nam, đồng bào DTTS cần<br />
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 3,9<br />
được quan tâm, chăm lo trên mọi mặt, trong đó<br />
Tây Nguyên 7,8<br />
có giáo dục. Đảm bảo công bằng trong giáo dục<br />
Đông Nam Bộ 2,5<br />
ở vùng DTTS, do đó đã trở thành một nhiệm vụ<br />
Đồng bằng Sông Cứu Long 6,1<br />
trọng yếu.<br />
(Nguồn: Tổng cục thống kê; Kết quả Tồng điều<br />
Tuy nhiên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tra dân số và nhà ở năm 2014)<br />
Ngày nhận bài: 20/2/2017. Ngày phản biện: 2/3/2017. Ngày duyệt đăng: 8/3/2017<br />
(1)<br />
Học viện Hành chính Quốc gia Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Theo kết quả trên, dân số từ 5 tuổi trở lên như Tày, Nùng, Thái,... có mức độ phát triển giáo<br />
chưa từng đi học ở các vùng DTTS chiếm tỷ lệ dục khá tốt, song, trẻ em một số dân tộc, đặc biệt<br />
cao, điển hình như Trung du miền núi phía Bắc là các dân tộc rất ít người như La Ha, La Hủ, Pà<br />
là 9,0%, Tây Nguyên 7,8%, trong khi đồng bằng Thèn, Chứt, Lự, Lô Lô, Mảng, Cống, Cờ Lao,<br />
Sông Hồng chỉ là 1,6%, đồng bằng Sông Cửu Bố Y, Ngái, Si La, Pú Péo, Brâu, Rơ Măm, Ơ Đu<br />
Long là 2,5%. Cụ thể, những tỉnh có tỉ lệ “chưa (dù đã có hỗ trợ học tập theo Quyết định 2123/<br />
từng đi học” cao nhất là Lai Châu (35,1%), Điện QĐ-TTg ngày 22-11-2010 của Thủ tướng Chính<br />
Biên (31,2%), Hà Giang (28,1%), thấp nhất là phủ phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với<br />
Hà Nội (1,5%). Cũng theo kết quả điều tra này, các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010- 2015)<br />
tỷ lệ biết đọc biết viết của dân số từ 15 tuổi trở việc học tập còn nhiều khó khăn, hạn chế. Thậm<br />
lên mặc dù đã được cải thiện nhưng đồng bằng chí hiện nay vẫn có những dân tộc rất ít người<br />
sông Hồng vẫn là vùng có tỷ lệ cao nhất 98,1%, chưa có người tốt nghiệp cao đẳng, đại học như<br />
các vùng DTTS vẫn còn thấp (miền núi phía Bắc dân tộc Brâu, Rơ Măm.<br />
đạt 89,0%)1. Điều này cho thấy sự chênh lệch<br />
- Thiếu công bằng xã hội trong giáo dục<br />
cao về cơ hội đến trường của trẻ vùng DTTS với<br />
giữa học sinh nam và nữ của vùng DTTS:<br />
các vùng đồng bằng, miền xuôi. Đặc biệt, với trẻ<br />
em gái, sự mất công bằng xã hội trong giáo dục + Chênh lệch về tình trạng biết đọc, biết<br />
giữa trẻ em gái vùng DTTS với trẻ em gái vùng viết: Khoảng cách chênh lệch về tỷ lệ biết đọc<br />
đồng bằng còn rõ rệt. Tình trạng biết đọc, biết biết viết giữa nam và nữ của vùng DTTS vẫn<br />
viết của trẻ em gái vùng DTTS luôn thấp hơn còn cao, điển hình như vùng miền núi phía Bắc<br />
so với trung bình của cả nước và với vùng đồng là 9.2 điểm %, cao nhất so với các vùng trong cả<br />
bằng. Tỷ lệ biết đọc biết viết của nữ giới vùng nước. Điều đó cho thấy khoảng cách giới trong<br />
miền núi phía Bắc là 82.8%, của nữ giới vùng tiếp cận giáo dục của vùng DTTS, tỷ lệ “chưa<br />
Tây Nguyên là 85.1% và có một khoảng cách từng đi học” của nữ vùng DTTS cũng luôn luôn<br />
xa so với vùng Đồng bằng sông Hồng (95.6%)2. cao hơn nam cho thấy sự chênh lệch rõ rệt và phổ<br />
1.2. Mức độ không công bằng trong các biến này.<br />
nhóm trẻ ở vùng dân tộc thiểu số + Chênh lệch về cơ hội đi học ở những<br />
- Chưa có sự đồng đều trong tiếp cận giáo bậc học cao hơn: Trình độ học vấn của nam giới<br />
dục giữa các DTTS với nhau: vùng DTTS cao hơn của nữ giới tại các cấp trình<br />
độ. Tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học và chưa tốt nghiệp<br />
Theo số liệu trong “Báo cáo Trẻ em ngoài tiểu học của nam và nữ không chênh lệch nhau<br />
nhà trường: Nghiên cứu của Việt Nam”, có tới nhiều, sự khác biệt chỉ ở các cấp học cao hơn<br />
1,1 triệu trẻ em Việt Nam độ tuổi từ 5-14 tuổi (trung học cơ sở và trung học phổ thông), cho<br />
chưa từng được đến trường học hoặc đã bỏ học. thấy có xu hướng bỏ học khi học lên cao của nữ<br />
Tỷ lệ trẻ em chưa bao giờ đi học khá cao, đặc giới. Điều này được lý giải do: trẻ em gái nghỉ<br />
biệt cao đối với một số nhóm DTTS. Chung cả học để lấy chồng sớm (tảo hôn), làm việc nhà,<br />
nước có 2,57% trẻ em từ 5-17 tuổi chưa bao giờ khi gia đình khó khăn không đủ tài chính đi học,<br />
đi học. Dân tộc Mông có tỷ lệ trẻ em từ 5-17 trong điều kiện đông con thì các trẻ em gái sẽ<br />
tuổi chưa bao giờ đi học cao nhất trong các nhóm phải “nhường” cơ hội học tập cho các em nhỏ<br />
DTTS chính, bằng 23,02%. Nói cách khác, gần hơn, đặc biệt là anh/em trai trong nhà. Tâm lý<br />
1/4 số trẻ em dân tộc Mông ở độ tuổi đi học chưa và nhận thức phổ biến của cha mẹ và cộng đồng<br />
từng đi học bất cứ một loại trường lớp nào3. Như người DTTS dân tộc thiểu số là con gái chỉ cần<br />
vậy, cùng là các DTTS nhưng một số tộc người biết đọc, biết viết, trọng nam khinh nữ đã khiến<br />
1<br />
. Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra dân số và nhà ở cho chặng đường đi học của học sinh nữ bị rút<br />
năm 2014. ngắn lại.<br />
2<br />
. Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra dân số và nhà ở<br />
năm 2014. Điện Biên và Lai Châu là 2 tỉnh có khoảng<br />
3<br />
. Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra dân số và nhà ở cách chênh lệch giữa nam và nữ về tỷ lệ % dân<br />
năm 2014. số biết đọc biết viết của dân số từ 15 tuổi trở lên<br />
<br />
Số 17 - Tháng 3 năm 2017 27<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
lớn nhất. tư vào dây. Bởi vậy, trẻ em vùng DTTS không có<br />
2. Nguyên nhân gây không công bằng xã cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng như ở vùng<br />
hội trong giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số miền xuôi có điều kiện thuận lợi hơn về mọi mặt.<br />
<br />
Vùng DTTS là vùng có vị trí địa lý, điều 3. Vai trò của Nhà nước về đảm bảo<br />
kiện tự nhiên khắc nghiệt, trình độ phát triển kinh công bằng trong giáo dục phổ thông vùng dân<br />
tế - xã hội còn kém, đời sống người dân thấp. tộc thiểu số<br />
Ở nơi mà mối quan tâm đầu tiên và hàng ngày Vì những nguyên nhân trên, nếu để giáo<br />
là miếng cơm, manh áo; việc làm hàng ngày là dục phổ thông vùng DTTS phát triển tự nhiên<br />
lên nương làm rẫy, chống chọi lại sự khắc nghiệt theo cùng một chính sách, cùng một phương<br />
của tự nhiên thì con đường đến với cái chữ của thức quản lý giống như mọi vùng miền thì sự<br />
những trẻ em vùng DTTS, vùng sâu, vùng xa còn phát triển của nó sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn;<br />
rất dài và rất gian nan. Nhiều nghiên cứu cho nếu đặt việc cung ứng dịch vụ giáo dục phổ<br />
thấy trẻ em DTTS ít đi học hơn thanh thiếu niên thông vùng DTTS vào trong sự chi phối của các<br />
người Kinh là do những rào cản về nghèo đói, quy luật kinh tế thị trường như những nơi khác,<br />
phải làm việc, cơ sở vật chất nhà trường thiếu hẳn việc dạy và học của thầy trò nơi đây vốn đã<br />
thốn và chất lượng dạy học thấp. Mặc dù các cấp gian nan, lại thêm nhiều vất vả. Nhà nước, không<br />
chính quyền đã có nhiều cố gắng để hòa nhập các ai khác, để đảm bảo sự công bằng trong cơ hội<br />
nhóm DTTS vào xu thế chung, kể cả việc miễn học tập của học sinh DTTS, bằng sự quản lý của<br />
học phí cũng như việc lập các trường nội trú, mình phải tạo nên những ưu tiên đặc biệt cho<br />
việc đi học của nhóm xã hội này vẫn ở mức thấp giáo dục nơi đây. Trước hết, Nhà nước phải là<br />
và tình trạng mù chữ vẫn còn ở mức cao. Mối chủ thể trực tiếp cung ứng dịch vụ giáo dục cho<br />
quan tâm gìn giữ phương thức sản xuất và các các em, với vai trò như một “bà đỡ” cho giáo<br />
định hướng văn hóa đã duy trì thái độ né tránh dục vùng DTTS. Đồng thời, Nhà nước quản lý<br />
việc đi học của các nhóm DTTS4. Bên cạnh đó, bằng những chính sách riêng, đặc biệt, ưu tiên<br />
những hủ tục lạc hậu, trình độ dân trí thấp cũng hơn bên cạnh hệ thống những chính sách chung<br />
gây ra sự thiếu công bằng xã hội trong giáo dục trong cả nước, nhằm tạo những “cú hích”, điều<br />
giữa học sinh vùng DTTS với học sinh miền xuôi hòa những bất bình đẳng phát sinh trong giáo<br />
cũng như giữa chính các nhóm học sinh trong dục phổ thông vùng DTTS, xây dựng những nền<br />
vùng. Tỉ lệ nhập học thấp hơn ở nhóm DTTS là tảng, tạo dựng những cơ sở vững chắc hỗ trợ<br />
do các chi phí cơ hội và chi phí tiền mặt cao hơn giáo dục phát triển. Đó là những hỗ trợ, ưu tiên<br />
và thiếu nhận thức phù hợp về giáo dục5. cho học sinh, cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo<br />
Hơn nữa, một trong những nguyên nhân dục về chế độ học tập, sinh hoạt, cơ hội học tập,<br />
chính lại xuất phát từ phía xã hội. Trong khi giáo về cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học, về<br />
dục phổ thông ở khu vực đô thị, đồng bằng thu tinh thần,… để giáo dục phổ thông vùng DTTS<br />
hút được xã hội hóa rất mạnh (song song với việc có cơ hội và điều kiện phát triển như những vùng<br />
cung ứng của Nhà nước ở hệ thống các trường miền khác. Điều này thể hiện một cách rõ rệt,<br />
học công thì có sự tham gia rất mạnh mẽ, hùng sinh động bản chất nhân văn, tính phục vụ của<br />
hậu của các trường ngoài công lập), thì giáo dục Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện mục<br />
vùng DTTS không thể huy động sự đầu tư từ tiêu xây dựng và phát triển một xã hội học tập<br />
khu vực ngoài nhà nước vì vấn đề lợi ích. Do cho tất cả mọi người.<br />
đối tượng học là học sinh DTTS luôn luôn thuộc 4. Giải pháp tiếp tục đảm bảo tính công<br />
diện nghèo, không thể hoặc hạn chế trong khả bằng xã hội trong giáo dục vùng dân tộc thiểu<br />
năng chi trả cho học tập nên các chủ thể ngoài số Việt Nam<br />
nhà nước sẽ không thể có được lợi nhuận nếu đầu - Hoàn thiện hệ thống chính sách ưu tiên,<br />
4<br />
. Đỗ Minh Hải, Những rào cản trong việc tiếp cận giáo dục hỗ trợ giáo dục phổ thông vùng DTTS nhằm tạo<br />
của trẻ em gái vùng dân tộc miền núi phía Bắc. những điều kiện thuận lợi nhất gia tăng khả năng<br />
5<br />
. ADB (2002), Phụ nữ ở Việt Nam, Hà Nội. tiếp cận giáo dục của học sinh vùng DTTS;<br />
<br />
28 Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
- Tiếp tục củng cố hệ thống trường lớp ở DTTS phát triển hơn, qua đó tạo thêm nhiều cơ<br />
vùng DTTS; đa dạng hóa các loại hình trường hội học tập tốt cho học sinh dân tộc thiểu số,<br />
lớp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã giảm dần khoảng cách giáo dục so với các vùng<br />
hội của vùng, đặc biệt là hệ thống trường phổ thuận lợi trong cả nước.<br />
thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc Tài liệu tham khảo<br />
bán trú, lớp ghép, các điểm trường cắm bản,... để<br />
học sinh có điều kiện cơ sở vật chất tốt, thuận lợi 1. ADB (2002), Phụ nữ ở Việt Nam, Hà Nội;<br />
phục vụ học tập; 2. Bộ Chính trị, Thông báo Số 242 – TB/<br />
- Thực hiện chương trình, nội dụng, TW Ban Chấp hành trung ương Đảng, Kết luận<br />
phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm của Bộ Chính trị về việc thực hiện Nghị quyết<br />
nhận thức và điều kiện học tập của học sinh dân Trung ương 2 (khóa VIII), Phương hướng phát<br />
tộc như chương trình song ngữ: dạy tiếng việt triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020;<br />
và dạy bằng tiếng dân tộc giúp học sinh dễ hiểu, 3. Bộ GD&ĐT và UNICEF (2014), “Báo<br />
dễ nhận thức để có thể đọc thông, viết thạo cũng cáo Trẻ em ngoài nhà trường: nghiên cứu của<br />
như đạt được chuẩn đánh giá của Bộ Giáo dục và Việt Nam”;<br />
Đào tạo đặt ra; 4. Đỗ Minh Hải, Những rào cản trong<br />
- Tổ chức tốt các hình thức giáo dục đặc thù việc tiếp cận giáo dục của trẻ em gái vùng<br />
nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân dân tộc miền núi phía Bắc; (http://ilssa.org.<br />
tộc, lồng ghép vào khung chương trình chung; vn/2015/07/16/nhung rao can trong viec tiep can<br />
- Phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ giao duc cua tre em gai vung dan toc mien nui<br />
quản lý giáo dục, nâng cao đời sống vật chất và phia bac/);<br />
tinh thần của đội ngũ giáo viên ở các vùng DTTS 5. Geoffrey B. Hainsworth (2001), “Phát<br />
giúp giáo viên yên tâm công tác, cống hiến cho triển nguồn nhân lực”, In trong Nolwen Henaff<br />
sự nghiệp giáo dục còn nhiều khó khăn, trở ngại và Jean Yves Martin (Chủ biên), Lao động, việc<br />
nơi đây; làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi<br />
- Nâng cao trình độ dân trí của người dân, mới, Nxb. Thế giới, Hà Nội;<br />
nhận thức, sự quan tâm của toàn xã hội về quyền 6. Trần Quý Long (2014) (Viện Nghiên<br />
học tập của trẻ em để tăng cường sự gắn kết giữa cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học<br />
gia đình, nhà trường và xã hội trong chăm sóc, Xã hội Việt Nam) Tiếp cận giáo dục của trẻ<br />
giáo dục trẻ em vùng DTTS, tạo cơ hội học tập em Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng, Tạp chí<br />
ngày càng nhiều hơn cho các em. Nghiên cứu con người số 6/2014;<br />
- Tăng cường đầu tư nguồn lực, trong đó 7. Tổng cục Thống kê, Kết quả Điều tra<br />
đẩy mạnh xã hội hóa để giáo dục phổ thông vùng Dân số và nhà ở năm 2009.<br />
<br />
<br />
ABSTRACT<br />
ENSURING SOCIAL SECURITY IN EDUCATION - CONCERNING ISSUES IN STATE<br />
MANAGEMENT OF ETHNIC MINORITY GENERAL EDUCATION IN VIETNAM<br />
TODAY.<br />
In the process of fundamental and comprehensive educational reform in Vietnam, in order<br />
to meet the requirements of international integration today, education in Vietnam has coped with<br />
many urgent issues. One of the issues is ensuring social justice in education in minority areas. This<br />
required state management agencies to build and develop a learning society for all children in ethnic<br />
minorities in remote, isolated areas who will get equal chance in access to educational institutions<br />
and schools.<br />
Keywords: Social Justice in Education; State Management ò Ethnic Minority General<br />
Education; Ethnic Minority Areas.<br />
<br />
Số 17 - Tháng 3 năm 2017 29<br />