intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dân tộc Thái

Chia sẻ: Nguyễn Duykhanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:67

148
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thái ở Việt Nam có dân số 1.550.423 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt trên hầu hết tỉnh, thành phố. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh: Sơn La [Mương La] - (572.441 người, chiếm 53,2% dân số toàn tỉnh và 36,9% tổng số người Thái tại Việt Nam), Nghệ An(295.132 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh và 19,0% tổng số người Thái tại Việt Nam).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dân tộc Thái

  1. Dân tộc Thái I. Đặc điểm : Theo Tổng điều tra dân số  và nhà ở năm 2009, người Thái ở Việt Nam  có dân số 1.550.423 người, là dân tộc có dân số  đứng thứ 3 tại Việt Nam, có   mặt trên hầu hết tỉnh, thành phố. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh: Sơn  La [Mương La] ­ (572.441 người, chiếm 53,2% dân số toàn tỉnh và 36,9% tổng   số  người Thái tại Việt Nam), Nghệ  An(295.132 người, chiếm 10,1% dân số  toàn tỉnh và 19,0% tổng số  người Thái tại Việt Nam),  Thanh Hóa (225.336  người, chiếm 6,6% dân số  toàn tỉnh và 14,5% tổng số  người Thái tại Việt   Nam), Điện Biên [Mương Thèng ] (186.270 người, chiếm 38,0% dân số  toàn  tỉnh và 12,0% tổng số  người Thái tại Việt Nam),  Lai Châu [Mương Lay] ­  (119.805 người, chiếm 32,3% dân số toàn tỉnh và 7,7% tổng số người Thái tại   Việt   Nam), Yên   Bái [Mương   Lo]   ­   (53.104   người), Hòa   Bình (31.386  người), Đắk Lắk (17.135 người), Đắk Nông (10.311 người)... Ngoài ra còn có  chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước ngoài, chủ yếu là  Pháp và Hoa Kỳ. Dân tộc Thái bao gồm nhiều nhóm :  1. Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) : Cư  trú chủ  yếu  ở  2 tỉnh Sơn La, Hoàng Liên Sơn và các huyện Điện  Biên, Tuần Giáo tỉnh Lai Châu. Ở miền Tây Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh, những   nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng đã bị ảnh hưởng nhiều   về văn hóa và nhân chủng của các cư dân địa phương Lào. Họ đến Việt Nam vào khoảng thế kỉ thứ XI và XII. Bộ phận Tày Thanh  từ  Mường Thanh (vùng Điện Biên) qua Lào và Thanh Hóa tới Nghệ  An cách 
  2. đây hai, ba trăm năm. Nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và  chịu ảnh hưởng văn hóa Lào. Bộ phận Tày Mười ban đầu là một phần dân cư  xã Chiềng Pấc di vào Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh từ thời Lê Thái Tổ. 2. Nhóm Thái Trắng (Táy Đón và Táy Khao) : Cư  trú chủ  yếu  ở  tỉnh Lai Châu và các huyện Quỳnh Nhai, Bắc Yên,  Phú Yên (Sơn La).  Ở  Đà Bắc thuộc Hà Liên Sơn, có một số  Thái Trắng đã   chịu  ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày.  Ở  Sa Pa, Bắc Hà, những nhóm gốc   Thái Trắng ngày nay đã Tày hóa. Một số nhóm Thái ở Thanh Hóa cũng gốc từ  Thái Trắng. Thái Trắng là con cháu người Bạch Y đã cư  trú từ  lâu  ở  Tây Bắc và   Nam Vân Nam. Nhưng phải đợi đến đầu thiên niên kỉ thứ II sau Công nguyên,   họ mới chiếm được ưu thế ở dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu. Đến  thế  kỉ  thứ XIII, họ  đã làm chủ  Mường Lay.  Ở vùng ven song Hồng, họ  đến  sớm hơn người Thái Đen vì trong hành trình hành quân, Lạng Chượng đã gặp   các tù trưởng Thái Trắng  ở  dọc đường. Bộ  phận Thái Trắng sau phát triển   thế   lực   sang   các   vùng   Quỳnh   Nhai   (Sơn   La),   Mường   Tè   (Lai   Châu),   tới  Mường Tấc (Phú Yên) và một bộ phận xuống Đà Bắc và Thanh Hóa 3. Một ngành khác, gồm nhiều nhóm phức tạp : Cư trú chủ yếu  ở Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hà Sơn Bình) và các  huyện miền núi hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ  Tĩnh. Nhóm Thái Mộc Châu từ  Lào sang vào khoảng thế  kỉ  XIV chịu  ảnh hưởng về nhân chủng và văn hóa  của cả  2 ngành Thái Trắng và Thái Đen. Nhóm Thái Mai Châu gốc từ  miền  Bắc Hà (Hoàng Liên Sơn) chuyển về  vào khoảng thế  kỉ  XIV, từ  đó xuống   Mường Khoáng (Thanh Hóa) và một số  ngược lên Châu Mộc (Sơn La), hòa  vào nhóm Thái cũ đã  ở  đó. Người Thái  ở  Thanh Hóa tiếp tục được bổ  sung   bằng những luồng di dân từ  Lào qua hay Tây Bắc về, có quan hệ  qua lại   huyết thống với văn hóa và người Mường. Bộ  phận Tày Mường hay Tày 
  3. Chiềng là nhóm đông đảo nhất  ở  Nghệ  Tĩnh cơ  cấu không thống nhất gồm  nhiều nhóm nhỏ  họp thành, có mặt muộn nhất  ở  đất Nghệ  Tĩnh vào thế  kỉ  XIV. Nhóm đến đầu tiên là nhóm lập nghiệp ở Mường Nọc (Quế Phong) sau   lan rộng ra thành lập 2 trung tam khác: Châu Tiến (Quỳ Châu) và Khun Tinh   (Quỳ  Hợp). Một số  nhóm  ở  vùng Cửa Rào trên song Nậm Pao (ngọn sông  Lam) được gọi là Tày Pao hay các nhóm ở huyện Tương Pương, Con Cương  đến cùng thời gian đó hay muộn hơn. II. HÌNH THÁI KINH TẾ : Khi đến Việt Nam, người Thái đã biết làm ruộng nước. Nước là yếu tố  quan trọng bậc nhất trong việc trồng lúa, cần quanh vụ  và khi có nước mới  bắt đầu cày cấy được. Đồng bào đã phải bỏ nhiều công sức để hoàn thiện hệ  thống thủy nông thích hợp với việc trồng lúa  ở  những thung lũng chạy dọc  theo các con suối và khai phá thêm ruộng đồng. Nhiều đoạn trong các sách sử  và truyện kể của người Thái đã ghi chép lại việc khai khẩn đất đai mở  rộng   diện tích canh tác ở những vùng ven sông Đà từ Quỳnh Nhai qua Thuận Châu,   Mường La đến Phù Yên (Sơn La), vùng Mường Lay, Mường Thanh, Than  Uyên (Lai Châu), vùng Mường Lò, Mường Cha (Nghĩa Lộ  nay thuộc Hoàng   Liên Sơn), vùng Mường Hạ, Mường Pa (Mai Châu – Hà Sơn Bình), vùng  Mường Khoòng ( Thanh Hóa), vùng ba huyện Quế  Phong, Quỳ  Châu, Quỳ  Hợp (Nghệ  Tĩnh)... Qua nhiều thế hệ, người Thái đã có nhiều sáng kiến tạo  ra những công trình thủy lợi thích hợp với địa thế  ruộng đất. Họ  có nhiều  kinh nghiệm trong việc đào mương, đắp phai, bắc  ống dẫn nước về  ruộng,  cũng như  trong việc sử  dụng một cách phổ  biến và rất tài tình chiếc con   nước, một thứ máy móc đơn giản, vào việc dẫn nước vào ruộng.
  4. Cũng đã từ lâu, người Thái biết dùng cày và sức kéo (trâu, bò) vào việc  canh tác. Có giả  thiết cho tên tự  gọi của đồng bào Táy, chính là tên tự  giới   thiệu với các cư dân khác tộc mình là người cày ruộng. Tuy nhiên, trước Cách  mạng Tháng Tám,  ở  một nơi chưa dùng cày, vẫn dùng lối “hỏa canh thủy  nậu”. Đồng bào đốt rơm, rạ, cỏ ở ruộng rồi tháo nước vào cho trâu quần sục   bùn hoặc bừa thẳng không cần cày bằng bừa răng gỗ rồi cấy lúa. Lối canh tác   này thích hợp với tinh chất đất đai  ở  một số  thửa ruộng miền núi mà ở  đây   nếu dùng cày hay bừa sâu quá lớp đất màu xốp và mỏng thì lại làm hỏng đất.   Nó chỉ thích hợp khi việc bón phân chưa xảy ra. Việc dùng phân bón từ phân  chuồng, phân bắc, phân xanh cho đến phân hóa học là một biến đổi lớn trong   sinh hoạt sản xuất của đồng bào từ sau ngày giải phóng. Trước kia, việc gieo mạ và làm mạ có nhiều cách khác nhau và rất đáng  lưu ý. Đồng bào thường ngâm giống vào nước ấm và cứ 20 cân giống lại hòa   một lạng muối. Khi hạt mọc mầm, đem gieo vào ruộng mạ. Cách gieo có nơi  cây mạ đã lên cao được hai đốt ngón tay. Khi cây mạ cao 20 – 25 phân, đồng   bào nhổ  lên cấy đầy vào thửa ruộng mạ  khác. Khi cây mạ  cứng cáp, họ  lại   nhổ lên và cấy vào ruộng. Cách cấy chuyển qua hai thửa ruộng mạ, theo quan   niệm của đồng bào, làm cây lúa khỏe, mọc nhanh.  Nói chung, trước đây, lúa chỉ cấy một vụ, rất ít nơi hai vụ. Hiện nay,   tình hình cấy hai vụ lại phổ biến. Những giống mới được đem trồng cho năng   suất khá cao. Trước đây, ruộng chỉ  cung cấp cho cư  dân Thái một số  lượng lương   thực hàng năm và cũng không thật đầy đủ  để  nuôi người và gia súc. Đó là  không kể một bộ phận Thái không nhỏ chỉ sống về nương rẫy. Nương nhằm  cung cấp một số lương thực nhất định: lúa, ngô, khoai, sắn… và một số  sản   phẩm khác: vừng, lạc, bầu, bí, rau xanh để  dùng làm thức ăn, bông chàm để  đáp  ứng  nhu cầu  về  quần,  chăn,  màn,  đệm…Bên  cạnh  ruộng,  nương  trở  thành một tư  liệu sản xuất không thể  thiếu được đồng bào. Nương nhằm 
  5. cung cấp một số  lương thực thực phẩm nhất định: lúa, ngô, khoai, sắn…và  một số  sản phẩm khác: vừng, lạc, bầu, bí, rau xanh để  dung làm thức ăn,   bông chàm để đáp ứng nhu cầu về quần áo, chăn, màn, đệm…Nương Thái có  2 loại: nương hay rẫy như nương lúa, ngô, sắn làm hai, ba năm phải bỏ  hóa,  thường đi đôi với các công cụ là gậy chọc lỗ hay cuốc. Nương bông, chàm đã   được xới, bón kĩ, có nơi còn bón lót, cày ải. Loại nương này đã bắt đầu được   thâm canh nhưng chưa đến mức độ  chuyển hóa thành ruộng hay thành vườn  được. Nương rau cũng  ở  tình trạng này. Trước Cách mạng,  ở  vùng Thái,   hiếm thấy những mảnh vườn rau như  ở dưới xuôi. Ngược lại, nhà nào cũng  có một loại “vườn treo” dùng để trồng một vài khóm hành hay các cây làm đồ  gia vị. Đó là những máng gỗ đựng đất đặt ở sàn phía sau nhà. Sau ngày giải phóng, việc trồng lúa có năng suất cao hơn là nhờ  tiếp  thu những kĩ thuật và phương pháp canh tác mới. “Nước, phân, cần, giống”   được chú trọng và giải quyết tùy theo khả  năng của địa phương với sự  giúp   đỡ của Chính phủ. Đã xuất hiện những công cụ cải tiến, những máy móc loại  nhỏ  hay vừa… Đất được khai thác mạnh hơn nhờ  làm thủy lợi, bỏ  phân tro,  tăng diện tích, tăng vụ. Sản lượng lúa có nơi đã đạt trên 4 tấn/ha, trung bình 2   – 3 tấn/ha. Nhờ  ruộng đất, đời sống cư  dân Thái có phần sung túc hơn cư  dân  quanh vùng. Nhưng họ cũng chưa thoát khỏi cảnh tháng ba, ngày tám, những   năm đói kém do lũ lụt, hạn hán gây ra. Họ  không bị  chết đói là nhờ  có rừng bao quanh có khả  năng cung cấp   cho họ  các thứ  củ  hay than cây có chất bột. Lại them, từng mùa, rừng cung  cấp các loại rau, quả, hạt dại, nấm, mộc nhĩ, măng, rêu đá, các loại côn trùng.   Dưới khe suối có tôm, cua, ốc, cá nhỏ… Những thứ đó thường xuyên tham gia  vào 2 bữa ăn chính hang ngày của đồng bào. Nên hài lượm vẫn đóng một vị trí   nhất định trong đời sống kinh tế của những cư dân này.
  6. Rừng còn cung cấp cho đồn bào nguyên vật liệu để  làm nhà, đan lát  những gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những cây thuốc và những   lâm thổ sản quý. Hiện nay do chính sách thu mua lâm thổ sản và khuyến khích  viêc khai thác và trồng rừng, có hợp tác xã đã thu thập được những món tiền   lớn góp phần nâng cao đời sống xã viên. Trong rừng, các loại chim, thú là đối tượng để  đồng bào săn bắn. Tuy   nhiên, nghề này chưa bao giờ chiếm vị trí quan trọng vì ở rừng nhiệt đới, thú   nhiều đến đâu cũng không thể  cung cấp lượng thịt thường xuyên cần thiết   cho con người. Vả lại cư dân trồng trọt, người Thái chỉ  săn bắn lúc nhàn rỗi  với mục đích bảo vệ  mùa màng. Săn có nhiều thể  loại từ lối săn tập thể  có  tính sơ khai như lối săn đón, vây ráp để xua thú ngã xuống khe hay để người   đón bắn, hoặc để thú xô vào lưới đã giăng sẵn cho đến cách săn cá nhân bằng  nỏ, bằng súng hỏa mai. Đồng bào cũng săn bằng bẫy, nhưng ít phổ biến hơn   các cư dân ở trên rẻo cao, vì đi đôi với việc chăn nuôi thả rông, bẫy đôi khi lại  có tác dụng ngược lại. Tên tẩm thuốc độc cũng rất ít nơi biết dùng. Trái với săn bắn, nghề đánh cá phát triển hơn.“Pây kin pa, má kin lẩu”   tức là đi ăn cá, về  uống rượu là câu nói cửa miệng của đồng bào. Cá là món   ăn thường thấy trong bữa ăn thường ngày và không thể thiếu được trên mâm  lễ  và khi nhà có khách. Nên ngoài việc nuôi cá ruộng tài tình và phổ  biến,   hàng năm có thể cung cấp cho mỗi gia đình hàng tạ cá để làm mắm, sấy khô,  các con sông, con suối chảy qua bản là nguồn cung cấp thường xuyên của  đồng bào. Phổ  biến nhà nào cũng có một chiếc chài, đơm, đó…có nhiều loại   và mỗi loại có chức năng khác nhau thích hợp với đối tượng và môi trường  đánh cá. Đặc biệt là đến mùa lũ, có cách làm chặng. Suối được ngăn hướng   dòng nước chỉ chảy vào một chiếc cầu tre, một đầu được nâng cao cho nước  không chảy tới. Đến đầu chặng, cá bị mắc cạn không ra được. Nếu chặng to,  mỗi mùa nước có thể thu được hàng chục tạ cá.
  7. Trừ  những ngày đánh cá tập thể  toàn mường hay toàn bản được tổ  chức vào những dịp có liên quan đến tôn giáo, người dân dùng lưới quay,  duốc cá, làm chặng… hay đánh cá cá nhân đều được hưởng cá bắt được,  không phải chia cho bọn thống trị. Tuy nhiên có nơi chúa đất cũng chiếm  riêng những khúc sông lắm cá, những hang nhiều tôm, cũng như  chiếm các  hang don, tổ ong, các khu rừng thú hay về. Rừng không chỉ  là nguồn cung cấp, dữ  trữ  nguyên liệu lương thực, là  đất để  săn bắn, mà còn là nơi chăn gia súc.  Ở  đây ít có những đồng cỏ  lớn.  Nhưng  ở  từng địa phương, người Thái vẫn tìm kiếm được chỗ  để  thả  rông   trâu bò trong những lúc không dùng chúng vào sản xuất. Xưa kia mỗi bản hay   những bản cạnh tranh nhau thường khoanh một vùng, thường là một thung  lũng hẹp, kín gọi là “púng”. Púng thường chỉ có một lối ra vào. Còn chỗ  nào   hở  trâu chui qua được thì được rào kín. Trâu sống đó từng bầy, tự  bảo vệ  nhau chống thú rừng. Đàn trâu có nơi tới hàng trăm con. Việc thả  rông trâu bò nay không thích hợp vì đồng bào quanh năm đã   cầy cấy vụ  này tiếp vụ  khác. Hợp tác xã đã phải có kế  hoạch xây dựng   chuồng trại và chăn dắt. Đồng bào chú ý chăn nuôi lợn và gia cầm để  dung   vào những dịp tế lễ, cúng bái hay khi nhà có khách và để nộp quan, nộp chúa.   Mỡ lợn được dữ trữ quanh năm. Các nghề  thủ  công của người Thái chưa tách khỏi nông nghiệp và chỉ  có thể  coi là nghề  phụ  gia đình. Có thể  nói phụ  nữ  Thái là những thợ  dệt   chăm chỉ, lành nghề, sản xuất không những đủ  chăn, màn, quần áo cho gia   đình mà còn đem trao đổi. Người Thái nổi tiếng với những tấm thổ cẩm dệt   rất tinh vi với những mô­tip hoa văn hình thú, chim, cây cối. Đôi nơi, họ  có   khả  năng dệt những hình lãnh tụ  nhiều màu. Nghề  đan lát là công việc của   đàn ông. Họ chỉ đan những mặt hàng thô kệch dùng hàng ngày. Lác đác có những bản người Thái có lò gốm, nơi làm vại, nơi làm nồi,  với chiếc bàn xoay thô sơ, năng suất thấp. Người nông dân Thái kiêm làm đồ 
  8. gốm này chỉ  nhân hàng đặt và sản xuất vào những tháng nông nhàn. Có một  số ít người biết làm nghề bạc, nghề rèn. Trong xã hội hầu như không có chợ búa, việc trao đổi hàng hóa thường  chỉ hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu là dưới hình thức hàng đổi   hàng với các cư  dân khác tộc  ở  rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh thoảng có những   chuyến   hàng   ngược   sông   hay   những   đoàn   ngựa,   bò   của   các   thương   nhân   người Lào, người Miến đem các nhu yếu phẩm đến bán hoặc trao đổi lấy  những sản phẩm địa phương.  Ở  một vài địa điểm vùng ven biên giới, chợ  được tổ  chức định kì. Dưới thời Pháp thuộc, nảy sinh hình thức độc quyền  buôn bán của một số  chúa đất. Nhưng khi cách mạng thành công, hình thức   buôn bán độc quyền nhường chỗ  cho hình thức thương nghiệp xã hội chủ  nghĩa với những cửa hàng mậu dịch, những trạm thu mua và những hợp tác xã   mua bán. III. VĂN HÓA VẬT CHẤT : 1. VẬN CHUYỂN : Cũng như  các dân tộc khác, trong 54 dân tộc anh em, người Thái cũng  sử  dụng cá phương tiện vận chuyển cổ  xưa: gùi, cưỡi ngựa, thồ  song phổ  biến nhất là gánh, còn gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán là các hình  thức vận chuyển thông dụng trên bộ.  Ở  dọc các con sông lớn, họ  rất nổi   tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én. 2. ẨM THỰC : Tầm quan trọng của ăn uống cùng với  ở  và mặc thiết nghĩ là điều  không phải bàn nhiều. Nhưng nếu chúng ta có thể nhắc lại luận điểm rất nổi  tiếng của Ăng ghen và đã trở  thành nguyên lý kinh điển là con người trước  
  9. hết cấn phải ăn, ở và mặc rồi mới có thể  nói đến chuyện hoạt động xã hội,   khoa học, nghệ  thuật, tôn giáo …sẽ  thấy rằng ăn,  ở, mặc có liên quan đến  những vấn đền lớn hơn nhiều so với quan niệm mang tính dung tục, coi   miếng ăn là thứ “quá khẩu thành tàn”. Ngày nay gạo tẻ  đã trở  thành lương thực chính của người Thái, tuy  nhiên gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Trong các “đặc sản”   nếp có 2 thứ là: Xôi và cơm lam : 2.1. XÔI (khảu ón) : Xôi được đồ  từ  gạo ngâm qua đem trong những chiếc chõ gỗ. Nồi để  đồ  xôi là cái ninh (mỏ  nưng) cao, bằng đồng. Xôi đồ  chin được dỡ  ra mâm  bao giờ cũng phải quạt cho nguội rồi mới cho lại vào chõ hay các giỏ xôi (ép  khảu) để ăn hàng ngày. Xôi là khẩu phần lương thực thong dụng, và từ xôi người ta làm thành   nhiều thứ  có giá trị  như  là quà bánh cho trẻ  con, người già ăn lót dạ  hay ăn  cho ngon miệng. Các món ăn này bao hàm trong đó có cạư quan tâm , tình cảm  quý mến mà người ta dành cho người già và con trẻ, Có 3 loại quà như vậy: Xôi nướng (khảu chì) Người ta nắm xôi thành nắm rồi đặt lên than hồng (gọi là lam lho); bóp  xôi vo thành cục năm vào đầu que hong trên than (gọi là mó); nắm xôi rồi ấn  bẹt thành hình quạt cắm vào đầu que hong than (gọi là vi); bóp xôi lăn thành   thỏi dài căm vào đầu que, bôi thêm mỡ hoặc mật mía rồi nướng xôi sẽ phồng,   thơm  (gọi là ống – súng); nặn xôi thành thỏi rồi uốn nối 2 đầu dính vào nhau,  tạo thành hình vòng tay đặt trực tiếp trên than hồng (gọi là póc khèn – vòng  tay). Xôi cặp (bái khảu)
  10. Xôi nặn thành hình đĩa cặp các thức ăn đã được nghiền nát hoặc xé vụn  rồi lăn thành nắm xôi có nhân. Có nhiều tên gọi xôi cặp, chẳng hạn: cặp  chứng luộc (bái xáy), cặp cá (bái pa), cặp ong non (bái to), cặp thịt xé hoặc   ruốc (bái nhứa), cặp đường mía (bái nặm ỏi). Xôi vừng (khảu lét ngạ) Đây là món xôi trộn cùng vừng đen, có vị  ăn ngậy, mùi thơm, món xôi  này trước đây còn được dùng như là 1 biểu hiện của sự tỏ tình, hay là muốn   nhắc lại tình cũ, nghĩa xưa. 2.2. CƠM LAM (khảu làm) Cơm lam là loại cơm chín trong loại ống đặc biệt thuộc họ tre. Gạo đẻ  làm cơn phải là gạo nếp thơm và dẻo. Người ta chọn 1 loại  ống bánh tẻ  mà  thành ruột của nó có mùi thơm như  hương cơm nếp để  lam  ống lam. Gạo  được ngâm trước rồi cho vào  ống với 1 lượng nước vừa phải,sau  đó đặt  nghiêng trên ngọn lửa xoay đều cho  ống không bị  cháy. Nước sôi và cạn thì  dập lửa, nướng  ống cơm trên than hồng. Cơm chin lấy ra đẻ  nguội, cạo bóc   lớp vỏ, ăn rất dẻo thơm mà không ngán. Món cơm lam này thường được làm cho sản phụ, nó cũng có giá trị như  quà bánh cho người già, trẻ con, cho khách quý hay người thân đi xa nhà cần   có lương thực mang theo vài ba ngày. Nếu xét dưới góc độ  lịch sử  thì cơm lam, đồ  lam nói chung có thể  là  những món ăn đã có từ rất sớm, vì các rừng nhiệt đới Việt Nam và Đông Nam   Á rất sẵn tre nứa… Với đặc trưng 1 nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc điển hình “cơm  cày ruộng, cá kiếm ăn”, thực phẩm dùng trong bữa ăn của người Thái về mặt  so sánh giống với nhiều tộc người ở Đông Nam Á. Đó là thói quen ăn các loài  động vật với 1 lượng khá nhiều rau trong bữa ăn.
  11. Sống trong môi trường thung lũng với hệ  thống song suối dày đặc là  nguồn cung cấp thuỷ  sản phong phú cho con người, Người Thái có câu tục   nhữ  “ Lúa  ở  ruộng, cá  ở  nước” ( Khảu dú na, pa dú nặm) hay “Miếng cơm   trắng, khúc cá bạc” (Khảu đón, tón pa khao) để  nói về món cá trong kết cấu  của bữa ăn. Ngay cả trong ngôn ngữ văn chương, đẻ biểu thị mùa cá người ta   vẫn dùng những “mùa lúa, mùa cá” để  thể hiện chu kì 1 năm hay nhiều năm.  Cũng cần lưu ý rằng do làm ruộng nước mà người ta có thể đánh bắt cá ngay  trong các thửa ruộng, các cánh đồng của mình. Đấy là chưa nói ở nhiều vùng   người Thái có nghề  nuôi cá ruộng, 1 nguồn lợi lớn làm giàu thành phần đạm  trong bữa ăn của họ. Trước hết là món cá sống, ăn gỏi ( tiếng Thái gọi là cỏi). Món này chỉ  phổ  biến đối với đàn ông. Người ta ăn gỏi với các loại cá chép nhỏ  cỡ  gần  bằng 2 ngón tay, cả con hoặc ăn gỏi loại cá chép to lọc lấy phần nạc nhất ở 2   bên lườn của nó. Các món dùng cho ăn gỏi có nước chua, rau thơm, hành.   ớt,hoa chuối thái nhỏ, các loại lá chát. Ăn gỏi trở thành 1 thú ăn của đàn ông  và người ta sánh gỏi cá ngang với thịt: “Thèm thịt thì ăn thịt, thèm cá thì ăn gỏi   cá” (Xép nhứa kin nhứa ma, Xép pa kin pa cỏi). Cá chín cũng có nhiều cách chế biến, trong đó món ăn được ưa thích là  món cá nướng (pa pinh). Người ta có thể nướng cá bằng cách hong trên than  hay đặt trực tiếp trên than hồng, hoặc lùi cá trong chất bùn dẻo vào đống tro   than đang cháy Cá cũng được dùng để  nấu canh, kho như  nhiều dân tộc khác. Người  Thái rất thích ăn cá chua. Cá chua được làm từ  cá con trộn với cơm lên men  cho vào ống nứa để 1 số ngày. Khi ăn đổ ra đun thành canh. Ở các vùng Thái (  Thanh Hoá, Nghệ  An) trước kia món cá chua (pa xỏm) là một thứ không thể  thiếu được trong các đồ sính lễ của cả quý tộc và bình dân Mắm là món ăn dự trữ, đồng thời cũng là món gia giảm. Ở  Sơn La đã  nổi   tiếng   về   các   món   mắm   cá   của   người   Mường   Chiến,   mắm   “đòng 
  12. đong”(mắm lý) của thị xã Sơn La. Người ta có thể để các loại mắm này hang   năm. Mắm   để   lâu thường   ăn  sống  ngon hơn,  măm  mới  làm thường  phải  chưng lên trước khi ăn. Có thể  ăn xôi chấm mắm cung các loại măng, rau  ghém như: măng lay luộc, măng loi sống, quả non và búp của cây vả, quả và  lá cây sung… Khi kiếm được nhiều cá người ta sấy khô để  làm món ăn dần.  Ở  Tây  Bắc, cá sấy khô là 1 thứ đồ dẫn cưới, là lễ vật quý để thờ cúng tỏ  tiên, biếu   tặng bạn bè, người than. Bên cạnh cá, thịt cũng là món ăn được coi là quan trọng. Nguồn thức ăn   thịt là do chăn nuôi gia đình cung cấp, cũng có thể do săn bắn, đặt bẫy mà có  được. Trong các món ăn rất đặc trưng Thái còn phải kể  đến món nặm pia.  Nặm pia là nhủ  tương trong ruột non của các loài động vật ăn cỏ  có vị  vừa   bùi, vừa đắng. Món này có tác dụng kích thích dịch vị, dung để  chấm lạp,  chấm thịt luộc rất hợp. Thịt nạc thái mỏng, để  sống, ngâm vào nước măng chua cho tái rồi ăn  thì gọi là xa, là món ăn của những người đàn ông. Thịt băm nhỏ rồi nhúng tái  hoặc rang chín dậy mùi thơm, đỏ vào nước chua có các gia vị đã chuẩn bị sẵn  để ăn thì gọi là lạp chin, thường dành cho phụ nữ và trẻ em. Món thứ hai cũng rất Thái là món chéo. Thành phần không đổi của chéo   là muối và ớt giã, cùng tỏi, rau thơm, mùi, lá hành….có thể thêm gan gà luộc  chín, ruột cá, cá nướng…Có thể  thêm các gia vị  rồi giã nát để  chấm thịt, cá,  rau, măng. Có nhiều loại chéo : Chéo ớt giã với muối gọi là chéo ượt cưa, nếu  thêm tỏi để sống hoặc tỏi nướng gọi là chéo hua hom, thêm rau thơm, tỏi, cá   nướng gọi là chéo pa. Mỗi món chéo như  vậy ăn với 1 loại thức ăn phù hợp  nào đó.
  13. Người Thái ưa thích ăn có các vị : Cay, chua, chát, đắng, bùi, ít dùng các   món ngọt, lợ, đậm, nồng…hay uống rượu cần, cất rượu. Ngoài ra tục ăn trầu, hút thuốc lào cũng được người Thái biết đến như  là những tập quán quen thuộc của nhiều tộc người. Tuy vậy,  ở Tây Bắc hiện  nay tục ăn trầu hầu như đã gần mất hẳn, tục uống rượu cần cũng không phổ  biến và điển hình như   ở  miền Tây Thanh Hoá, Nghệ  An. Người Thái hút  thuốc bằng điếu  ống tre, nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ.   Người Thái trắng trước khi hút còn có lệ  mời người xung quanh như  trước   khi ăn. 3. TRANG PHỤC: 3.1. TRANG PHỤC NỮ: Y TRANG PHỤC PHỤ NỮ THÁI ĐEN: 1. Khăn đội đầu (piêu) : “Em xe sợi thành vóc hoa dâu Em dệt cửi thành gấm vân chéo Em dệt tơ thành đoá hoa vàng Người các bản các phường muốn khóc Đều ước ao được em thêu khăn” (Dân ca Thái) Nếu chỉ trừ một bộ phận phụ nữ nhóm Thái Trắng đội nón tất thì đa số  phụ  nữ  Thái Mường Thanh (Lai Châu), Mường La ( Sơn La), Mường Lo  (Hoàng Liên Sơn), Mai Châu ( Hoà Bình), Thanh Hoá, Nghệ An đều đội khăn   vải. Khăn vải dùng để đội trên đầu, người Thái gọi là “piêu” “Piêu” có nhiều loại khác nhau : có loại được thêu hoa văn chỉ màu sặc  sỡ,có loại chỉ  là một tấm vải bông nhuộm chàm. Tuỳ  từng vùng từng địa  phương mà “piêu”cũng có những sắc thái riêng. “Piêu” có tác dụng che đầu  
  14. khi đi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông giá lạnh. Không chỉ có vậy “piêu”   còn là vật trang sức quan trọng của các cô gái Thái trong sinh hoạt hàng ngày,   nhất là trong lúc đi hơi hay trong lễ hội. Xung quanh viền của “piêu” còn có các “cút piêu” được làm từ  một  mảnh vải đỏ rộng khoảng 1cm nên trong bọc lõi chỉ rồi cuộn tròn lại. Tiếp đó  cuộn vải tròn được khâu vắt thành 1 hình tròn rồi quấn dây vải lại theo hình  tròn ốc, “cút piêu” sau đó được quấn thêm các loại chỉ màu thành hình các múi  trong hình tròn. Các “cút piêu” sau khi làm xong được ghép rất khéo vào đầu  piêu. Phụ nữ Thái dùng các loại chỉ màu để ghép “cút” và “piêu”. Các loại đường khâu đều do phụ nữ Thái tự sáng tạo ra, có nhiều kiểu:  móc xích, chân rết, xương cá…Các “cút piêu” trước hết được đặt trên 3 đoạn  thẳng của mỗi đầu khăn. Còn hính 4 góc khăn họ dùng dây làm cút còn dư tết   thành hình bông hoa cách điệu. “Cút piêu” thường được sắp xếp thành từng  chùm số  lẻ  (3,5,7 cái) trên các vị  trí cách đều nhau  ở  2 đầu khăn. Bởi vậy,   “cút”  ở  trên “piêu” bao giờ  cũng là “cút” chùm. Bình thường phụ  nữ  Thái  thường đội “piêu” có cút chùm ba. Nhưng khi tặng piêu cho người bậc trên,  người mình yêu thương, quý trọng, kính yêu…thì tặng “piêu” có cút chùm 5  trở lên. Sau khi bọc viền và ghép “cút piêu” xong, phụ  nữ  Thái bắt đầu công  việc thêu “piêu”.Trong quá trình thêu, họ  có thể  thêu theo ý muốn chủ  quan   của mình. Nét đặc biệt là người phụ  nữ  Thái không thêu “piêu”  ở  mặt phải  mà lại thêu mặt trái, các hoa văn với đồ  án và màu sắc lại hiện lên  ở  mặt  phải. Đó là lối thêu truyền thống với trí tưởng tượng, kỹ  thuật và mỹ  thuật  dân gian tài tình.“Piêu” được thêu theo lối luồn chỉ hay đan chỉ màu vào vải. 2. Trâm cài tóc ( may khắt cẩu) :
  15. Phụ nữ Thái để tóc dài nên phải búi. Tóc có thể búi ra sau gáy hoặc búi  ngược lên đỉnh đầu. Việc búi tóc không chỉ  cho gọn, tiện lợi trong sinh hoạt   và lao động mà còn cho đẹp. Đối với phụ  nữ  Thái, việc búi tóc có khéo hay   không sẽlàm tăng hoặc giảm vẻ đẹp gương mặt của chính mình. Khi búi tóc,  phụ nữ Thái thường dùng thêm tóc để độ và dùng trâm cài tóc. Trâm cài tóc của phụ nữ Thái là 1 loại kim một đầu có mũi và một đầu  nhọn.Trâm thường được làm bằng bạc và ngà voi. Mũ trâm là 1 miếng bạc  hình tròn có đường kính trên 1cm. Các cô gái khi chưa lấy chồng thường búi tóc sau gáy và sử  dụng trâm  của mẹ  làm cho. Đến khi lấy chồng, phụ  nữ  Thái búi tóc ngược trên đỉnh  đầu. Từ đó trở đi họ sử dụng trân cài của nhà chồng tặng trong lễ “Tăng cẩu”  (Búi tóc ngược) trong dịp cưới. 3. Hoa tai (cóng hu) : Đa số phụ nữ Thái đều đeo hoa tai. Khi chưa lấy chồng, các cô gái Thái  đeo hoa tau bố mẹ đẻ cho, khi đi lấy chồng thì các cô lại đeo hoa tai của mẹ  chồng tặng, sự trang điểm hoa tai là điều phổ biến đối với các cô gái Thái. 4. Áo (xửa cóm) Trong bộ y phục phụ nữ Thái, nổi tiếng và đậm đà màu sắc dân tộc là  chiếc “xửa cóm”, loại áo ngắn được các ngành Thái sử  dụng hành ngày, với  hàng cúc bướm (mák pém). Hàng mák pém với số  lẻ  11 chiếc được bố  trí  khéo  léo,  dày   đặc,  lóng  lánh   ánh  bạc  trước  ngực  các   cô  gái  như   toả   hào  quang.“Xửa cóm” có hàng cúc bướm giữa ngực chủ  yếu phổ biến  ở phụ nữ  Thái vùng Tây Bắc. Đây là loại áo xẻ  ngực, dài tay, khi mặc áo ôm sát lấy   thân người.  “Mák pém” là những bộ cúc hình con bướm, ve sầu … đính ở 2 bên nẹp  áo giữa ngực. Với chất liệu kim loại, màu sáng nổi lên trên màu tối của chất  liệu vải, hàng “mák pém” nổi bật giữa chiếc xửa cóm tạo nên 1 hiệu quả 
  16. thẩm mỹ, một sự chu ý. Một áo ngắn trung bình có từu 11 – 13 bộ cúc bướm.   Số bộ cúc bướm nhất thiết phải là số lẻ. Nhìn lại toàn bộ  “xửa cóm” nếu thoáng qua ta thấy rất giản dị, song  nếu quan sát kĩ ta lại thấy không đơn giản. Đó là sự gia công đúng mực về kỹ  thuật và nghệ thuật. Điều đó làm cho “xửa cóm” Thái nổi bật bởi sự hài hoà  giữa cái che và cái phô ra, giữa cái giản dị mà không kém phần lộng lẫy. 5. Vòng cổ (pók co) : Nếu như đối với một số dân tôc như : H Mông, Dao vòng cổ nhất thiết  phải có trong trang sức của mọi người thì  ở  đồng bào Thái không hoàn toàn  như  vậy. Trước dây trong các bản, mường của người Thái phần lớn cư  dân   đều có vòng cổ  tuy nhiên vòng cổ  đắt hơn hoa tai nên hiện nay vòng cổ  thường thấy đeo ở các em gái,trai nhỏ tuổi làm bùa hộ mệnh. 6. Vòng tay (pók khẻn) : Vòng tay là vật trang sức được phụ  nữ  Thái  ưa dùng. Bao gồm những   vòng tròn khép kín hoặc co khoá làm bằng bạc đeo ở cổ tay phụ nữ. Vòng tay   bao giờ cũng được đeo từng đôi. Nghĩa là hai tay phụ nữ Thái đều đeo vòng. Ít   nhất mỗi tay một chiếc, được trang trí chạm khắc hoa văn, có loại để trơn. Vòng tay bạc lấp lánh ở 2 cổ tay người phụ nữ Thái làm sinh động vẻ  đẹp làm tăng thêm sự duyen dáng của họ. Vòng tay nằm ở cổ tay tức là điểm   cuối của  ống tay áo và đầu bàn tay với chất liệu bạc có giá trị  như1 điểm  chốt của toàn bộ  bố  cục của chất liệu kim loại trong mối quan hệ với chất   liệu vải và màu da.  Vòng tay còn là vật “bảo mệnh” của người Thái. Đồng bào quan niệm  vòng tay cũng như vòng cổ, với chất liệu bạc có thể  “đánh giá” trừ độc hại.   Một số  vùng Thái, đồng bào còn cho con cái đeo vòng bằng vàng hoặc vàng   giả để trừ tà ma.
  17. 7. Thắt lưng (xài ẻo) : Thắt lưng là một dải băng vải có chức năng giữ cho cạp váy quấn chặt   ở  cơ  thể  người mặc váy. Thắt lưng truyền thống của phụ  nữ  Thái thường  làm bằng vải tơ tằm óng ả. Ngoài thắt lưng dệt bằng tơ tằm, người Thái còn   phổ biến dùng loại thắt lưng dệt bằng sợi bông. Thắt lưng dệt băng sợi bông  thường đem nhuộm rồi mới dùng. Thắt lưng thường được nhuộm màu xanh   lá cây. Các cô gái còn gia công thêm 2 đầu thắt lưng miếng vải màu cho đẹp.  Các cô còn thêu xung quanh miếng vải ghép ở 2 đầu khăn. 8. Xà tích : Xà tích là dây bạc phụ nữ Thái dùng để  đeo chìa khóa và những đồ nữ  trang nhỏ  khác. Một bộ  xà tích gồm: Dây đeo chìa khóa bằng bạc, một hộp   đựng kim bằng bạc, túi vải đựng tiền (ghép bằng vải nhiều màu), dao nhíp,  bấm móng tay. Xà tích được gài vào thắt lưng, buông xuống một bên hông. Trên nền chàm  của váy, xà tích bạc óng ánh đung đưa theo nhịp chân bước tạo nên một vẻ  đẹp vừa diêm dúa vừa sang trọng. Trong những ngày thường các cô gái ít đeo   xà tích. Họ chỉ đeo trong những dịp hội hè, lễ  tết, cưới xin…Nhưng với phụ  nữ  có chồng, vai trò tay hòm chìa khóa nặng hơn con gái nên lúc nào xà tích   cũng luôn luôn bên mình. Trong quan niệm truyền thống, xà tích được gắn thêm hộp kim không  phải là vô thức. Hôp kim gồm 9 cái đeo vào dây bạc được xem như là vật chủ  yếu để trừ tà ma. Có hộp kim trong chùm xà tích phụ nữ Thái yên tâm không  sợ  bị  làm hại, quấy rầy bản thân và làm hại con cái. Trong những đồ  vật  chính đeo vào dây xà tích có thể có thứ này thứ khác nhưng hộp kim thì khônh  
  18. thể  thiếu được. Vì lẽ  đó mà ý nghĩa của xà tích vượt ra ngoài giá trị  trang  điểm bởi nó còn thể hiện một tín ngưỡng dân gian của dân tộc Thái. 9. Váy (xỉn ông) : Váy được tạo thành bởi 4 mảnh vải khổ  40cm, dài trên dưới 90 cm,   khâu khép kín lại theo chiều dài, cạp váy được can từ miếng vải khac từ than  váy. Cạp váy thường được làm bằng vải màu trắng hoặc đỏ, khi nối vào  thân váy, cạp váy có chiều cao khoảng 10cm, người Thái gọi cạp váy là “đầu  váy” (hua xỉn). Tên gọi đó nói lên sự quy định khi sử dụng váy. Đầu váy luôn  ở phía trên để phân biệt với chân váy phía dưới. Phía dưới chân váy được phụ  nữ  Thái viền hoặc dáp them miếng vải khác màu vừa cho cứng vừa tạo nên   một giá trị thẩm mỹ riêng. Y TRANG PHỤC PHỤ NỮ THÁI ĐEN : Nói chung trang phục phụ  nữ  Thái Trắng và Thái Đen cũng có những   nét giống nhau về  : hoa tai, vòng cổ, vòng tay, thắt lưng, xà tích, váy. Tuy   nhiên, trang phục phụ  nữ  Thái Trắng có một số  nét khác biệt so với trang  phục của phụ nữ Thái Đen, đó là:  Phụ nữ Thái Trắng không đội khăn piêu.  Trong đó có một bộ phận phụ nữ Thái không đội “piêu” mà đội nón. Đó  là phụ nữ Thái Trắng Lai Châu và một số vùng Thái Đen. Người Thái gọi loại  nón đan lợp lá bằng nón tát. Bên trong nón có vách để đội đầu. Loại nón này  gần giống với chiếc nón thúng của người Kinh mà người ta còn thấy  ở  liền   anh, liền chị quan họ. Dân ca Thái có câu : 
  19. “Nón Kinh chưa nên vành Nón tát chưa buộc quai Anh chàng trai trơn xin đến tìm vợ” Các cô gái Thái Trắng đội nón này trông thanh thoát. Nón không che kín  mặt mà nở xoè ra như bông hoa tên đầu tôn thêm khuôn mặt đẹp xinh của các  cô gái Thái. Nón không chỉ che sương, gió, nắng, mưa mà còn là đạo cụ trong   điệu xoè nổi tiếng trong và ngoài nước của đồng bào Thái.  Đồng bào Thái Đen (Sơn La) ngoài đội piêu ra cỏn đội cúp làm bằng  cật nứa. Loại nón này chóp nhọn, giống nón lá của người Kinh ở đồng bằng   song nặng hơn gấp nhiều lần. Phụ nữ Thái Trắng không dùng trâm cài tóc mà họ buộc tóc phía sau. Và  họ cũng không có tục “Tằng cẩu” như người Thái Đen. Áo của phụ  nữ  Thái Trắng tương đối giống áo của phụ  nữ  Thái Đen   nhưng có một nét khác biệt là ở cổ  áo không phải là cổ  cao mà là cổ  áo hình   thìa, hình chữ V, và màu áo thường là màu sáng, màu được dùng nhiều nhất là  màu trắng.  3.2.TRANG PHỤC NAM : Có một nét chung trong trang phục của nhiều thành phần dân tộc  ở  nước ta cũng như nhiều cư dân trên thế giới là trang phục nam bao giờ cũng   giản gị hơn trang phục nữ và trang phục của nam giới Thái cũng vậy. Trang phục nam giới Thái chủ yếu gồm: khăn, áo, quần  1. Khăn : Khăn của nam giới không công phu, không đẹp như  khăn “piêu” của  phụ nữ mà đó chỉ là một miếng vải màu chàm đen. Khăn của nam giới thường   có hai loại: một gọi là “khằn pau” dài > 1m, một loại gọi là “ khằn trọc” dài 
  20. gần 1m. Đàn ông thường quấn khăn trên đầu khi lao động hoặc trong sinh   hoạt. “Khằn pau” được quấn trên đầu khi đi xa, hoặc dùng trong các ngày hội  hè, lễ tết. “Khằn pau’’ là loại khăn được sử dụng trong những ngày lễ tết nên  được vấn cẩn thận, trang trọng hơn. “Khằn pau” được vấn theo kiểu khăn   xếp của người Kinh, tức là quấn nhiều vòng tạo thành các lớp xếp lên nhau.   “Khằn trọc” sử dụng khi đi làm ruộng, nương, trong lao động hàng ngày. Cũng như khăn “piêu” của nữ, hai loại khăn của nam giới có tác dụng   như  chiếc mũ. “khằn” giúp con người bảo vệ  cái đầu, che nắng, tránh rét.   “Khằn trọc” được quấn đơn giản trên đầu theo lối chữ  nhân. Cách vấn này  tiện, nhanh. Chỉ  khi trưởng thành, 13­14 tuổi thanh niên nam người Thái mới bắt  đầu dùng khăn. Nhìn chung  ở tuổi trẻ nam giới Thái ưa dùng khăn màu chàm  biếc, còn các cụ ông hay dùng khăn màu chàm đen. 2. Áo :  Áo của nam giới đơn giản về cấu tạo và trang trí so với áo của nữ giới.  Áo của đàn ông dân tộc Thái được cắt may theo kiểu xẻ ngực, cổ tròn, không  cầu vai, 2 túi dưới…đây là loại áo cánh mặc thông dụng. Loại áo này cũng   góp phần quan trọng tạo nên đặc điểm giới tính của trang phục nam. Áo nam giản dị, ít trang trí so với áo nữ, ít ai nhìn thấy đôi “mák may”  lấp ló  ở  chỗ  gián tiếp được xẻ  tà và đường giáp hông áo. Đó là nơi được  trang trí duy nhất trên áo nam giới. “Mák may” được quấn bằng chỉ  màu,  không có lõi bên trong. Đó là các loại chỉ  xanh, đỏ, vàng…trong đó màu đỏ  được dùng với tỉ  lệ  lớn hơn màu khác. Chỗ  xẻ  tà của áo nam được người   Thái liên tưởng đến sự  sinh sôi, nảy nở. Đồng bào quan niệm chỗ  xẻ  tà áo  giống như  chỗ  chia đôi trên thân cây, từ  “mák”  ở  đây biểu thị  cho sự  nảy  mầm, phát triển vươn lên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2