intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc trong thời đại 4.0

Chia sẻ: Linh Thùy Dung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:10

70
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung tài liệu nghiên cứu về sự ra đời của các cộng đồng dân tộc - quốc gia trên thê giới có những quan niệm khác nhau giữa các quốc gia ở phương Tây và phương Đông. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc trong thời đại 4.0

  1. DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI  CÁCH MẠNG 4.0 1. Một số vấn đề chung 1.1. Dân tộc Dân tộc là cộng đồng những người cùng chung một lịch sử (lịch sử hình thành   và phát triển của dân tộc), nói chung một ngôn ngữ, sống chung trên một lãnh thổ, có  chung một nền văn hoá hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này là tổng hợp các giá trị  vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, tiêu biểu cho trình độ văn minh đã đạt   được.  Theo nghĩa thông thường – nghĩa hẹp, thuật ngữ  “dân tộc” dùng để  chỉ  một   cộng đồng người. Mỗi dân tộc có tính bền vững nội tại , được thống nhất bởi một   số yếu tố đặc trưng như địa vực cư trú, ngôn ngữ  (tiếng nói), những đặc điểm văn  hóa, đời sống kinh tế, ý thức dân tộc và nhờ đó người ta có thể phân biệt được dân  tộc này với dân tộc khác, ví dụ như: dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Thái,… Theo nghĩa rộng, dân tộc được hiểu là những cộng đồng dân tộc – chính trị  tức là dân tộc ­ quốc gia (Nation). Dân tộc theo nghĩa một quốc gia trong đó tổng  hợp nhiều cộng đồng người (dân tộc/tộc người), được hình thành do nhu cầu tồn   tại trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài. Ví dụ như: dân tộc Việt Nam ­ quốc gia   Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh là đa số; Trung Quốc là  một quốc gia có nhiều dân tộc, ngoài dân tộc Hán còn có 55 dân tộc thiểu số khác. Như  vậy, khái niệm dân tộc không phải bao giờ  cũng trùng hợp với khái  niệm quốc gia theo nghĩa là một cộng đồng chính trị ­ xã hội được quản lý bằng bộ  máy nhà nước. Có quốc gia chỉ  gồm một dân tộc (hiếm có, như trường hợp Triều  Tiên trước khi bị  chia cắt), song phần lớn là những quốc gia nhiều dân tộc (nhiều  dân tộc nhỏ  quy tụ  xung quanh một dân tộc chủ  yếu, thường là đông hơn và phát   triển hơn trong lịch sử). Cũng có tình hình là những người cùng một dân tộc nhưng   sống phân tán ở những quốc gia khác nhau.  1
  2. Nghiên cứu về sự  ra đời của các cộng đồng dân tộc ­ quốc gia trên thê giới  có những quan niệm khác nhau giữa các quốc gia  ở  phương Tây và phương Đông.   Ở phương Tây dựa chủ yếu vào tình hình của châu Âu mà cho rằng, dân tộc chỉ trở  thành dân tộc khi có sự  xuất hiện của chủ  nghĩa tư  bản, khi xuất hiện thị  trường   dân tộc. Tuy nhiên điều này lại không hoàn toàn đúng với các dân tộc ­ quốc gia  ở  phương Đông (trong đó có Việt Nam), tính cố  kết dân tộc có thể  bắt nguồn từ  nhiều nguyên nhân kinh tế, chính trị khác, như nhu cầu có những công trình trị thuỷ  lớn ở các vùng trồng lúa nước, nhu cầu chống lại sự xâm lược, đô hộ và đồng hoá   của ngoại tộc.  Trong lịch sử, các dân tộc hình thành và phát triển rất không đồng đều cả về  thời gian, quy mô, sức sống lẫn trình độ phát triển. Đã có tình hình nhiều dân tộc tự  phát liên kết với nhau, hoà nhập vào nhau hoặc đồng hoá, thôn tính lẫn nhau. Xu thế  lịch sử của dân tộc là cần có nhà nước để bảo vệ lãnh thổ của mình. Ý thức về chủ  quyền lãnh thổ phát triển thành ý thức quốc gia dân tộc, tinh thần dân tộc hay chủ  nghĩa dân tộc. Bản thân nhà nước, đến lượt nó, lại có tác động trở  lại củng cố sự  đoàn kết dân tộc, sự thống nhất nhiều dân tộc trong biên giới của mình.  1.2. Chủ nghĩa dân tộc Chủ  nghĩa dân tộc hay còn là ý thức dân tộc, là tinh thần dân tộc. Ý thức  dân tộc trước hết là ý thức về cội nguồn dân tộc của mỗi con người: mình từ  đâu  đến? Sau đó là ý thức về quyền dân tộc: quyền làm chủ  lãnh thổ  (đất nước), làm  chủ  đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc mình. Đó là tinh thần độc lập, tự  chủ của mỗi dân tộc. Đó là quyền tự nhiên, mỗi thành viên của dân tộc đều thấy có  nghĩa vụ  thiêng liêng phải giữ  gìn và bảo vệ. Chủ  nghĩa dân tộc còn là ý thức  về phẩm giá dân tộc. Dân tộc tồn tại và phát triển là thành quả của sức lao động và   đấu tranh sáng tạo của nhiều thế hệ tiền bối. Họ đã tạo ra tất cả những giá trị  vật   chất và tinh thần hợp thành nền văn hoá dân tộc, vừa có bản sắc riêng, vừa là bộ  phận hợp thành nền văn hoá chung của nhân loại. Như  vậy, chủ  nghĩa dân tộc  đề  cập đến một hệ  tư  tưởng, một tình cảm, một hình thức văn hóa, hoặc một phong   trào tập trung vào quốc gia hay dân tộc.  2
  3. Nhận định về sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa dân tộc có 2 khuynh  hướng như sau: Theo khuynh hướng dân chủ tư sản, nhà dân tộc học người Mỹ Louis Snyder   cho rằng chủ  nghĩa dân tộc là trào lưu chính trị  bắt nguồn từ  Cách mạng tư  sản  Pháp vào nửa sau thế  kỷ  XVIII. Sau cách mạng tư  sản Anh, Pháp và cuộc chiến  tranh giành độc lập  ở  13 bang thuộc địa Bắc Mỹ, các “quốc gia dân tộc” (nation­ state) lần lượt ra đời  ở  khu vực này. Thần quyền của giáo hội và vương quyền   phong kiến được thay thế  bằng “chủ  quyền nhân dân” (theo khuôn khổ  của pháp  quyền tư sản). Từ đó, sản sinh tư tưởng tôn sùng dân tộc mình và quốc gia dân tộc   mình. Vì vậy, nhà dân tộc học George Gooch đã nói rằng “chủ nghĩa dân tộc là con  đẻ của Đại cách mạng Pháp”. Chủ nghĩa dân tộc tư sản còn đi đến chỗ bành trướng   và xâm lược khắp nơi trên thế giới. Giai cấp tư sản nắm quyền thống trị ở Tây Âu  lúc ấy cho rằng họ có quyền mở rộng quyền thống trị của mình để khai hóa các dân   tộc khác. Đối mặt với cuộc xâm lược của chủ  nghĩa dân tộc tư  sản Tây Âu, nhân  dân các nước Châu Á, Châu Phi và Mỹ  Latinh đã anh dũng đấu tranh chống xâm   lược, bảo vệ  độc lập dân tộc. Phong trào giải phóng dân tộc vì vậy đã phát triển   mạnh mẽ  trong thế  kỷ  XX, điển hình là hai cuộc chiến đấu của nhân dân Việt   Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong khi đó, những người theo chủ  nghĩa xã hội khoa học cho rằng chủ  nghĩa dân tộc là hệ  tư  tưởng tư  sản được thể  hiện trong quan hệ  dân tộc, là xu  hướng chính trị tư sản trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc. Sau khi giai cấp tư  sản thực thi chủ  nghĩa thực dân và xâm lược các dân tộc khác, chủ  nghĩa dân tộc  biểu hiện dưới hai hình thức: chủ nghĩa dân tộc nước lớn hoặc còn gọi là chủ nghĩa   sô­vanh nước lớn, và chủ nghĩa dân tộc địa phương. Chủ nghĩa dân tộc của các dân  tộc bị  áp bức, đấu tranh chống thực dân, giành và bảo vệ  độc lập dân tộc mang ý  nghĩa tích cực và tiến bộ. Nhưng đáng chú ý, người ta không gọi đó là chủ nghĩa dân  tộc, mà gọi là  tinh thần dân tộc, ý thức dân tộc. Đó cũng chính là chủ  nghĩa yêu  nước. Chủ nghĩa yêu nước là đặc trưng cơ bản của cuộc đấu tranh của các dân tộc  bị áp bức chống thực dân đế quốc, giành độc lập dân tộc. 3
  4. Sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ngày nay rất phức tạp, do đa số các quốc   gia là đa sắc tộc hoặc có nhiều nhóm tự  nhận vị  thế  quốc gia, trong nhiều trường   hợp, sự theo đuổi quyền tự chủ mang tính dân tộc chủ nghĩa đã gây ra xung đột giữa  nhân dân và nhà nước, trong đó có chiến tranh (cả  nội chiến và ngoại chiến).  Ở  nhiều nơi, chủ  nghĩa dân tộc đã biến tướng thành chủ  nghĩa ly khai, gây ra hàng  loạt cuộc xung đột sắc tộc, và trong những trường hợp cực đoan là diệt chủng, như  Liên bang Nga hiện nay cũng đang đối mặt với hàng loạt vấn đề mâu thuẫn và xung  đột dân tộc, mà điển hình là vấn đề Chesnia. Các thế lực chủ nghĩa ly khai dân tộc  cũng ngày càng lớn mạnh  ở mức độ khác nhau, hình thành nên các thế lực chính trị  và lực lượng quân sự, thông qua các cơ  chế  dân chủ  phương Tây hoặc hoạt động  khủng bố  thông qua bạo lực nhằm mở  rộng chủ  nghĩa ly khai, thực hiện quyền  dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước độc lập. Tất cả các nhân tố  đó kết hợp với  nhau đang tạo nên một cục diện phức tạp và không ổn định không chỉ trong nội bộ  nhiều nước mà còn đe dọa nghiêm trọng nền an ninh và ổn định thế giới. 1.3. Cách mạng công nghiệp 4.0 Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được đánh số 4.0 chính vì trước đây đã có 3  cuộc cách mạng tương tự từng diễn ra: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất  (từ 1784) xảy ra khi loài người phát minh động cơ hơi nước, mở ra một kỷ nguyên  mới trong lịch sử nhân loại; Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (từ 1870) khi   loài người phát minh ra động cơ điện, mang lại cuộc sống văn minh hơn; Cuộc cách   mạng công nghiệp lần thứ ba (từ 1969) xuất hiện khi con người phát minh ra bóng  bán dẫn, điện tử. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet… là những công   nghệ chúng ta có được nhờ cuộc cách mạng này. Trên cơ  sở  đó, thế  giới không dừng lại  ở  các trang lịch sử  đó mà tiếp tục  chuyển động, kéo theo sự  ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Được nhen  nhóm từ  những năm 2000 và đến này đã có những sự  bùng nổ  to lớn, cuộc cách  mạng thứ  4 là cuộc cách mạng nghiên về  các công nghệ  số, Internet với mục đích   biến thế  giới thực thành một thế  giới số. Năm 2013, khái niệm Công nghiệp 4.0   xuất hiện trong một báo cáo của Đức nhằm đề cập đến chiến lược công nghệ cao,   4
  5. điện toán hóa sản xuất mà không còn cần đến sự tham gia của con người. Tính đến  năm 2017, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự  án của Đức, lan rộng ra   nhiều nước và trở thành một xu thế tất yếu của việc phát triển kinh tế, xã hội… Các lĩnh vực mà cuộc cách mạng công nghiệp tác động đến bao gồm: Lĩnh vực kỹ  thuật số: Trí tuệ  nhân tạo (AI), Vạn vật Internet (Internet of   Things), Lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn (Big Data). Lĩnh vực vật lý: In 3D, Vật liệu mới, Robot cao cấp, xe tự lái. Lĩnh vực công nghệ sinh học. Lĩnh vực năng lượng mới. Có thể nói, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là xu thế tất yếu mà bất kể dân   tộc ­ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải tham gia, đều không thể đứng ngoài   cuộc. Trước những chuyển biến mạnh mẽ  về  mặt kinh tế  thì đời sống xã hội,   chính trị cũng vì thế mà thay đổi theo. Các quá trình liên kết trên thế giới như Toàn  cầu hóa, Khu vực hóa sẽ  ngày càng mở rộng hơn. Các quốc gia, dân tộc ngày càng  trở nên gắn kết với nhau chặt chẽ hơn, trở thành bộ phận cấu thành của hệ thống,   ràng buộc và phụ  thuộc nhau bởi các quy định hay các nguyên tắc chung. Thế  giới  toàn cầu hóa cũng thúc đẩy môi trường hợp tác, đồng thời là mặt trận đấu tranh   giữa các quốc gia độc lập có chủ  quyền và các lực lượng tiến bộ khác vì các mục  tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển. 2. Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc trong thời đại Cách mạng 4.0 Trong tình hình  thế  giới đương đại hiện nay có những biến chuyển, dịch   chuyển to lớn trên nhiều mặt, đặc biệt dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa  học công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số, thông tin và công nghệ sinh học (hay  còn gọi là Cách mạng công nghiệp 4.0) đã làm cho xu thế  toàn cầu hóa phát triển   mạnh mẽ. Thế giới toàn cầu hóa là một không gian kinh tế, xã hội, văn hóa và chính   trị dưới sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế do đông đảo các quốc gia dân tộc   và các chủ  thể  quan hệ  quốc tế khác triển khai. Hội nhập và toàn cầu hóa là điều   kiện để  phát triển kinh tế  ­ xã hội, con người ngang tầm thời đại và điều kiện để  5
  6. làm giàu và phát triển các dân tộc theo hướng hiện đại, khắc phục những hủ tục để  cải tạo phong tục, tập quán... Những vấn đề  đặt ra cho dân tộc và chủ  nghĩa dân tộc trong thời đại  Cách mạng 4.0 ­ Quan hệ  đa chiều bao gồm cả  những tương tác tích cực và hạn chế  giữa   tộc người với tộc người trong phạm vi quốc gia. Quan hệ đa chiều gồm cả  nhưng ̃   tiến bộ và hạn chế của tộc người với tộc người trên phạm vi quốc tế. Từ những so   sánh quan hệ này hình thành tâm lý so sánh về trình độ phát triển và mức hưởng thụ  kinh tế, văn hóa xã hội giữa các tộc người trong phạm vi quốc gia và quốc tế, các   thế  lực bên ngoài lợi dụng vấn đề  dân tộc, tôn giáo, nhân quyền gây mất ổn định   chính trị. ­ Quan hệ truyền thống và hiện đại đang trở  thành vấn đề  lớn mà các quốc   gia dân tộc phải đối mặt và bắt buộc phải giải quyết. Truyền thống tạo nên những   sắc thái văn hóa và cũng là cơ  sở  gắn kết tính cộng đồng trở  nên mạnh mẽ  hơn,   đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và cùng chia sẻ lợi ích có được. Tâm lý quốc gia, dân tộc  cũng hình thành từ  những giá trị  truyền thống và yêu nước. Trong khi yếu tố  hiện   đại phần lớn là những yếu tố  ngoại lai, các gia tr ́ ị  văn minh và lối sống công   nghiệp. Điểm mấu chốt là giải quyết mối quan hệ  đó như  thế  nào, giữ  lại cái gì,   tiếp nhận cái gì, hòa trộn thế nào là những câu hỏi khó. ­ Sự đối diện giữa đời sống vật chất và các giá trị. Xã hội, tâm linh ngày càng  trở  nên phức tạp, đan xen và xuất hiện ngày càng phổ  biến trong đời sống xã hội.   Toàn cầu hóa dẫn đến sự  xâm nhập, du nhập các dòng tư  tưởng tôn giáo, tâm linh  trên toàn thế giới dù rằng mức độ có khác nhau, nhưng rõ ràng yếu tố này đang chi   phối đời sống các cá nhân và cộng đồng mạnh mẽ dễ dẫn đến sự  chệch dong n ̀ ếu   không có sự định hướng, kiểm soát phù hợp. ­ Vấn đề bản sắc và đồng hóa tự nhiên hoặc có chủ định cũng là vấn đề  lớn  đặt ra. Bản sắc khẳng định giá trị và sự tồn tại của một quốc gia dân tộc nhưng cũng   không thể  giữ  bản sắc theo nghĩa tuyệt đối, khép kín mà phải có yếu tố  hòa nhập.   6
  7. Nhưng nếu không có sự độc lập, tự chủ  thì sẽ  dẫn đến sự  đồng hóa, cả  theo nghĩa  nhân chủng học, cả về văn hóa, theo con đường thôn tính tự nhiên hoặc đôi khi cả sự  tự nguyện. ­ Vấn đề  phát triển và phát triển bền vững là những yêu cầu mà mỗi quốc   gia dân tộc phải lựa chọn con đường đi, sách lược phù hợp nhằm giải quyết hợp lý  mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lâu dài. Rõ ràng, trong một tương lai xa phải   bắt đầu cho phát triển bền vững ngay từ bây giờ nhưng với nhiều quốc gia, điều đó   là chưa thể vì nhu cầu đời sống thực tại. ­ Vấn đề dân chủ, công bằng và phân tầng xa hôi. Đó là h ̃ ̣ ệ quả tất yếu của  quá trình phát triển hiện đại gắn với quá trình toàn cầu hóa, phân công lại lao động,  phân chia lại các giá trị. Dân chủ, công bằng và phân tầng xã hội diễn ra mạnh mẽ  ở các nước đang phát triển, giữa khối một số nước giàu nhất với khối phần lớn các   nước nghèo nhất trên thế giới, thúc đẩy quá trình này đi nhanh hơn so với tiến trình  lịch sử. Trong thời đại 4.0, khi mà các  ứng dụng thông minh có khả  năng xóa bỏ  nhiều rào cản mang tính chất biên giới lãnh thổ, có khả  năng gắn kết nhiều con   người lại với nhau không phân biệt dân tộc, tôn giáo, văn hóa… thì cũng đặt ra  những vấn đề  như: Ranh giới ý thức hệ, tôn giáo, lý tưởng cùng chung chế  đô xã ̣   hội sẽ không còn nhiều ý nghĩa; Nguy cơ bị các thế lực cường quyền toàn cầu triển   khai nhiều học thuyết và hành động bất chấp chủ  quyền quốc gia và độc lập dân  tộc của các nước trên thế  giới sẽ  gia tăng; Xu thế  phát triển đa cực của thế  giới   cùng những mâu thuẫn của quá trình toàn cầu hóa kết hợp sự  cuồng tín tôn giáo đã  nảy sinh chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi trong đời sống quốc tế. Nói theo cách  khác, trong thời đại này, chủ nghĩa dân tộc bên cạnh những nội dung chân chính và   tích cực của nó, cũng chứa đựng và dễ  bùng phát những khuynh hướng phát triển   tiêu cực kéo theo chuỗi bất ổn của quốc gia, dân tộc và ảnh hưởng trực tiếp tới an   ninh toàn cầu. 3. Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam 7
  8. Việt Nam là một nước đa tộc người, gồm 54 tộc người, trong đó người Việt   chiếm đa số tuyệt đối với tỉ lệ khoảng 87% dân số và các tộc người sống đan xen,  không hình thành không gian lãnh thổ riêng của từng tộc người. Tộc người Việt giữ  vai trò trung tâm tập hợp và cố kết các tộc người trong một quốc gia thống nhất và  tiếng Việt dần dần trở thành tiếng nói chung của quốc gia, tuy trong từng vùng địa­ văn hoá tộc người, tiếng nói của từng tộc người vẫn bảo tồn và tiếng nói của tộc   người chiếm  ứu thế  trong vùng được sự  dụng như  tiếng nói trong giao tiếp vùng   cùng với tiếng Việt. Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về  giải quyết vấn đề  dân tộc * Quan điểm, đường lối trong việc giải quyết vấn đề dân tộc quốc gia Thứ nhất, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia ­ độc lập dân tộc trong thời   kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước. Xây dựng kinh tế độc lập, tự  chủ, chủ  động hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 07­NQ/TW, ngày 27­11­2001, của   Bộ Chính trị khóa IX xác định nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó nhấn  mạnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, bảo đảm độc lập tự  chủ  và   định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản  sắc văn hóa dân tộc. Hội nhập quốc tế tranh thủ hòa bình, phát triển kinh tế và cải   thiện đời sống nhân dân.  Thứ hai, đổi mới và thống nhất nhận thức kịp thời xây dựng độc lập, tự chủ  và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới. Giải quyết tốt 8 mối quan h ệ đặt ra và  giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Độc lập và tự  chủ  có liên quan mật thiết   nhưng không đồng nhất nhau và đều có những nội hàm riêng trên thực tế. Độc lập   là quyền và sự  công nhận chủ  quyền, là sự  khẳng định tính đơn nhất nhưng vẫn   nằm trong thế đan xen, hợp tác trong các khối kinh tế, chính trị. Tự  chủ  là sự  chủ  động, tự quyết và tự giải quyết các vấn đề thuộc về quốc gia độc lập, trên nguyên   tắc không can thiệp. Vấn đề quan trọng nhất là nâng cao tự chủ quốc gia. 8
  9. Độc lập chính trị là vô cùng quan trọng và được coi là nguyên tắc bất di bất   dịch trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Chính trị ở đây là vấn đề nhà nước   và chính quyền. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quản trị toàn cầu đang trở thành một   xu hướng đan xen và tồn tại bên cạnh quản trị quốc gia, trong quản lý quốc gia như  một phương thức quản trị hữu hiệu. Thứ  ba, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia,  đồng thời giải quyết có  hiệu quả  mối quan hệ  giữa giữ  vững độc lập, tự  chủ  và tích cực, chủ  động hội  nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế, quân sự của quốc   gia. Sức mạnh đó bao gồm các cấu thành: Tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ  thuật,   quốc phòng và an ninh; các giá trị truyền thống và đương đại Việt Nam, bao gồm   cả  các hệ  giá trị  mới nhằm thúc đẩy sự  phát triển của đất nước; củng cố  vị  thế  quốc gia trên trường quốc tế  và khu vực, củng cố  chủ  quyền quốc gia trên cả  vùng biển và đất liền, củng cố và bảo vệ độc lập, dân tộc. Thứ  tư, kết hợp chặt chẽ  hai nhiệm vụ  chiến lược xây dựng chủ  nghĩa xã  hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ này cần được nhận  thức đầy đủ  trong bối cảnh mới khi mà bảo vệ  Tổ  quốc không chỉ  trên mặt trận   sức mạnh vũ khí trực tiếp mà cả trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ  môi trường. Và nó cần phải được chú trọng xử lý ngay trong hoạch định chính sách  phát triển kinh tế ­ xã hội, các đề án, quy hoạch, kế hoạch. * Quan điểm, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc trong nước Vấn đề  dân tộc luôn được Đảng quan tâm và thể  hiện trong từng văn kiện của  Đảng. Có thể  thấy, đường lối, chính sách của Đảng về  vấn đề  dân tộc được khái  quát trên những điểm cơ bản là: ­ Trong nội bộ quốc gia và với các quốc gia khác, đó là việc giải quyết vấn  đề dân tộc, chính sách dân tộc trên cơ sở kiên trì phát huy truyền thống “độc lập dân  tộc” gắn với “chủ nghĩa xã hội”, và “không có gì quý hơn độc lập tự do”. ­ Giải quyết vấn đề  dân tộc  ở  nước ta là giải phóng con người thoát khỏi  nghèo nàn, lạc hậu; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,   9
  10. văn minh; thực hiện dân chủ, tự do cho các dân tộc; phát huy truyền thống đoàn kết  xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. ­ Việc giải quyết vấn đề dân tộc không chỉ là vấn đề mang tính chính trị ­xã   hội sâu sắc mà còn mang tính liên ngành, tính toàn diện, tác động đến nhiều cấp,   nhiều ngành trong hệ thống tổ chức nhà nước, hệ thống chính trị xã hội các cấp từ  Trung ương đến địa phương. Tại Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc cũng từng phát triển mạnh mẽ trong thời kì   đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Nội dung cơ bản của chủ  nghĩa dân tộc Việt   Nam là chủ  nghĩa yêu nước truyền thống được nâng cao trên cơ  sở  kết hợp với   những nhân tố  mới của thời đại, trong bối cảnh và yêu cầu chống chủ  nghĩa thực   dân, giải phóng dân tộc. Vì vậy năm 1924 Nguyễn ái Quốc đã từng nêu cao chủ  nghĩa dân tộc như  “động lực lớn của đất nước”(13), đã khơi dậy và thúc đẩy các  tầng lớp nhân dân sôi nổi tham gia các phong trào yêu nước, giành độc lập và giải  phóng dân tộc. Trong bối cạnh thế giới hiện nay, lại nêu cao chủ  nghĩa yêu nước   như  một động lực tinh thần để  đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước, chấn hưng   dân tộc. Trong nội dung của khái niệm “chủ nghĩa yêu nước” hiện đại bao gồm cả  chủ nghĩa dân tộc truyền thống và những nội dung tích cực của chủ  nghĩa dân tộc   thời kì chống chủ nghĩa thực dân./. 10
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2