intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Chia sẻ: Vũ Phương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

1.005
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu "Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cậni" để nắm bắt các nội dung chính cũng như giá trị nghệ thuật trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận. Từ đó, có thêm kiến thức để phân tích, cảm nhận tác phẩm để đạt được kết quả tốt nhất.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

VĂN MẪU LỚP 11 TỔNG HỢP CÁC DÀN Ý MẪU PHÂN TÍCH BÀI THƠ TRÀNG GIANG DÀN Ý 1: Đề: Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 1.Mở bài: Trong phần mở đề, cần khẳng định Huy Cận (1919-2005) là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào “Thơ Mới” (1932-1945), bài thơ Tràng giang trong tập Lửa thiêng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận. Bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. 2.Thân bài: Phân tích bài thơ để làm rõ vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại a)Trước hết, nhan đề bài thơ Tràng giang gợi lên không khí những bài thơ cổ: một dòng sông dài rộng, những khoảng cách xa xôi, những chia li cách trở (chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương. . .). Tràng giang còn gợi tên con sông Trường giang, nơi Thôi Hiệu viết Hoàng Hạc lâu, Liù Bạch viết Hoàng Hạc lâu, tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng. . . + Huy Cận có thể viết Trường giang nhưng phải viết Tràng giang vì vần “ang” liên tiếp hai lần nghe buồn và mênh mang hơn. + Trước khi vào phần chính, Huy Cận còn viết một câu “đề từ”: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài Không chỉ có trời rộng và sông dài của thơ cổ, Huy Cận còn đưa vào đó nổi bâng khuâng của thời đại : trời rộng nhớ sông dài. + Thật ra thì con sông trong bài thơ Huy Cận không phải là Trường Giang của Trung Quốc trong thơ xưa, mà chính là con sông Hồng của Việt Nam. Bên dòng sông ấy, nơi một bến đò có tên là bến Chèm, Huy Cận đã cảm xúc mà viết nên bài Tràng giang của mình. b)Phân tích bài thơ qua từng khổ thơ để làm rõ vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Bốn khổ thơ như bốn bức tranh cổ, nhưng ẩn chứa trong đó nỗi cô đơn của con người hiện đại. Bức tranh thứ nhất: - Những hình ảnh cổ điển: một dòng tràng giang phẳng lặng, một con thuyền lặng lẽ trôi, một cành củi khô nhỏ bé. - Cảm giác buồn của con người hiện đại: + Sóng gợn tràng giang nhưng lại buồn điệp điệp (điệp từ điệp điệp – từ cái hữu hình của sóng trên tràng giang mà nhận ra cái vô hình là nỗi buồn của con người). + Thuyền và nước bên nhau nhưng giữa thuyền và nước là sự xa cách hững hờ. Thuyền và nước theo hai chiều đối nghịch (về – lại), nổi lên giữa cuộc chia li là sầu trăm ngả. + Cành củi bé nhỏ giữa tràng giang mênh mông, nhà thơ còn cố tình làm rõ: củi – một cành – khô. Đã thế, như có điều vô lí: một cành củi – lạc mấy dòng. Cành củi ở đây không chỉ là cành củi mà còn là cảm nhận về thận phận bé nhỏ của con người. Bức tranh thứ hai: - Bức tranh phía bên kia tràng giang với những nét đơn sơ: mấy cồn đất nhỏ thưa thớt, những làn gió nhẹ thổi qua. - Bức tranh vẫn tiếp tục gợi lên nỗi buồn và cô đơn, bởi vì những cồn đất chỉ là lơ thơ cồn nhỏ, gió chỉ là gió đìu hiu. Câu thơ gợi một hình ảnh trong Chinh phụ ngâm : Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò - Một chút âm thanh mơ hồ: từ đâu gợi cảm giác mơ hồ, âm thanh lại rất nhỏ: làng xa – vãn chợ chiều. - Cảm nhận về nỗi buồn không chỉ trong không gian mà cả trong thời gian. Đây là cảm nhận chỉ con người thời hiện đại mới có. Thời gian ngả sang chiều, giữa tràng giang và bầu trời càng cách xa, theo hai chiều đối nghịch: nắng xuống – trời lên. Khoảng xa cách càng trở nên đặc biệt với cái nhìn của nhà thơ: trời lên sâu chót vót. Trời không chỉ trên đầu mà còn là trời soi bóng xuống trường giang, vũ trụ mở ra vô tận. - Thân phận bé nhỏ và cô đơn của con người càng thấm thía trong sự so sánh: sông dài, trời rộng – bến cô liêu. Sông dài trời rộng là không gian ba chiều, bến cô liêu là cái bến Chèm, nơi nhà thơ đang ngồi, như cũng chính là thân phận con người. Bức tranh thứ ba: - Những hình ảnh quen thuộc: những cánh bèo mặt nước, những bãi bờ với những cây cỏ tiếp nối bên tràng giang đến tận chân trời. - Hình ảnh của thân phận con người: bèo dạt về đâu (lạc loài, trôi nổi). Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm đến một sự gần gũi, một sự kết nối, rồi để thấm thía một sự đơn độc trọn vẹn. Hai từ “không” trong hai câu thơ như hai cái lắc đầu buồn bã. Chỉ có con người đơn độc giữa không gian vô tình, vô cảm. Bức tranh thứ tư khép lại bộ tranh cổ: - Một không gian quen thuộc, đúng là hình ảnh trong một bức tranh cổ : một rặng núi xa, những đám mây bạc từ mặt đất chầm chậm dâng cao. - Giữa bầu trời có một cánh chim nhỏ nghiêng xuống, tạo nên một bức tranh lạ. Đây không còn là bức tranh cổ: chỉ có một cánh chim đơn độc, không phải một đàn chim vẫn bay trong những bức tranh chiều quen thuộc. Đặc biệt cảm giác của nhà thơ: chim nghiêng cánh nhỏ – bóng chiều sa. Bóng chiều như đổ sập xuống theo cánh chim nhỏ. - Không nhìn vào không gian nữa, nhà thơ nhìn vào chính tâm hồn mình. Nhà thơ gọi tâm hồn mình là lòng quê, gợi nhớ đến “hồn quê”â của Thúy Kiều nơi đất khách : Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa Nhà thơ còn cảm nhận lòng quê dợn dợn. Dùng điệp từ dợn dợn để nói về sóng trên tràng giang mà nói về tâm trạng của chính mình : một cảm giác ngất ngây choáng váng. - Cuối cùng đọng lại từ tràng giang là: nhớ nhà. Nói không khói hoàng hôn, nhà thơ muốn nhắc đến hai câu kết trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu: Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai (Bản dịch của Tản Đà) Nhắc đến nỗi nhớ nhà của nhà thơ xưa, ý Huy Cận muốn nhấn mạnh : so với nhà thơ xưa, Huy Cận bây giờ nhớ nhà hơn nhiều, Huy Cận buồn hơn nhiều, cô đơn hơn nhiều. 3. Phần kết luận, ý cần làm rõ: - Tràng giang của Huy Cận đẹp vì những hình ảnh, những từ ngữ đẹp như thơ cổ, cho người đọc thưởng thức những bức tranh quen thuộc của phong cảnh sông nước quê hương. - Tràng giang của Huy Cận thực sự là một bài thơ của thơ hiện đại, mang cảm nhận về nỗi buồn và nỗi cô đơn của con người hiện đại, nhất là con người trong khoảng những năm ba mươi của thế kỉ trước. DÀN Ý 2: Đề : Thơ Huy cận luôn thấm đẫm một nỗi buồn, “cái buồn tỏa ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh”. Hãy phân tích thi phẩm “Tràng giang” để thấy rõ điều đó. I. MB – Thơ Huy cận luôn thấm đẫm một nỗi buồn, “cái buồn tỏa ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh”.Do đó thi nhân thường khắc họa những cảnh lụi tàn, bơ vơ, hoang vắng, chia lìa. – “Tràng giang” là bài thơ bộc lộ tâm trạng sầu của Huy Cận. Mỗi khổ thơ khác nhau thực chất là sự triển khai khác nhau của nỗi buồn, nỗi cô đơn dường như không biết đến ngoại cảnh. II. TB – Tựa đề “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang” đã tạo ra âm hưởng mênh mang. Cái mênh mang, rộng dài của sông nước gợi ra màu bàng bạc,, hư vô. – Câu đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã mở đầu cho cảm giác không gian thường trực trong thơ Huy Cận. Cảm giác rợn ngợp ấy là nguồn gốc của nỗi cô đơn, trong các sáng tác của tác giả này. – Khổ 1: + Thế đối của hai cặp câu đầu tạo ra cảm giác về một không gian mênh mông đối lập với sự nhỏ bé, đìu hiu ( sông dài – thuyền nhỏ). + Sóng “gợn” tạo ra một không gian dàn trải mênh mông với nỗi buồn “điệp điệp”. Đó là nỗi buồn nhẹ, nhưng buồn lâu, buồn lạnh, buồn day dứt, dai dẳng. + Hình ảnh thuyền và nước được miêu tả trong thế chia lìa gợi cảnh buồn thương. + Hình ảnh “củi một cành khô” – một hình ảnh đơn sơ, tho ráp, mộc mạc và rất mới trong thơ ca thời kì bấy giờ gợi sự cô đơn, lẻ loi “lạc” trong dòng nước mênh mang càng gợi nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định. Tất cả các sự vật trong khổ thơ này đều được miêu tả trong thế chia lìa, li tan, không có sự gắn bó. – Khổ 2: Nỗi buồn như thấm sâu vào cảnh vật. + Tác giả miêu tả không gian với cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu”. Đây là cặp từ biểu hiện sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn. + “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có thể hiểu theo 2 cách (có hoặc không có tiếng chợ chiều đã vãn). Nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu thơ này cũng miêu tả sự lặng lẽ, cô tịch. Theo cách hiểu thứ nhất, làm gì có tiếng chợ chiều đã vãn thể hiện sự vắng bóng của âm thanh cuộc sống con người trong bức tranh tràng giang. Theo cách hiểu thứ 2, tiếng chợ chiều vẳng lại từ đâu cũng không làm tăng thêm sự náo nhiệt của buổi chiều bởi âm thanh không rõ ấy chỉ làm day dứt thêm nỗi buồn và sự quạnh vắng. Bởi lẽ trong toàn bộ bài thơ này, dường như Huy Cận muốn phủ nhận tất cả những gì mang dấu ấn náo nhiệt của cuộc sống con người ( Không một chuyến đò, không một cây cầu). + Không gian ba chiều được mở ra trong hai câu thơ sau của khổ thơ này. Không gian rợn ngợp này càng tô đậm hơn nỗi cô đơn của con người trong vũ trụ mênh mông, thăm thẳm. Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. – Khổ 3: + Hình ảnh những cánh “bèo dạt” lại gợi lên cảm giác chia li đã xuất hiện từ đầu thi phẩm. + Sự cô quạnh đã được đặc tả bằng cái không tồn tại ( không gian mênh mông, trong đó không có bất cứ dấu hiệu nào là của thế giới con người: không cầu, không chuyến đò ngang). Nỗi buồn này như vậy không chỉ là nỗi buồn giữa trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về cuộc đời và nhân thế. – Khổ 4: + Khổ thơ này mang đậm đậm dấu ấn Đường thi với nỗi buồn thiên cổ. + Hình ảnh mây cao, núi bạc mở ra một không gian hùng vĩ. Trong không gian hùng vĩ đó, xuất hiện một cánh chim nhỏ bé, đơn lẻ. Sự đối lập đó tạo ra không gian mênh mông hơn và nỗi buồn cũng nặng nề hơn, cô quạnh hơn. + Trong không gian nó, nỗi nhớ quê hương trong lòng tác giả càng làm cho nỗi buồn, nỗi cô đơn trở nên sâu sắc hơn. Nhà thơ sử dụng chất liệu thơ Thôi Hiệu ( “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”) để viết về nỗi nhớ mong tha thiết của mình sâu hơn thi nhân xưa. Huy Cận không cần không cần khói sóng, không cần khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Đó đã trở thành nỗi nhớ thường trực trong lòng ông. Và có khi dang ở nhà cũng nhớ nhà – đó là nỗi nhớ ngôi nhà quê hương mo ước, ngôi nhà tự do ( “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”). III. KB – Trong “Tràng giang”, tác giả không có ý định khắc họa một bức tranh thiên nhiên hài hòa, đầy đủ, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ấn tượng về một nỗi buồn đìu hiu, xa vắng, trải dài vô tận. Nỗi buồn thấm đẫm vào ngoại cảm chứ không phải ngoại cảnh là nguyên cớ của nỗi buồn.

ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2