Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
<br />
<br />
ĐÀO TẠO NGHỀ<br />
GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG TẠO NGUỒN NHÂN LỰC<br />
CHẤT LƯỢNG CAO CHO VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ<br />
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY (*)<br />
Vũ Thị Thanh Minh(1)<br />
<br />
Đ ào tạo nghề được xem như là một giải pháp quan trọng gắn với quá trình phát<br />
triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề thất nghiệp, thiếu việc<br />
làm cho người lao động. Trong công cuộc đổi mới đất nước, phát triển đào tạo nghề là giải<br />
pháp quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng nông thôn, miền<br />
núi, nâng cao trình độ dân trí cho lao động nông thôn và lao động dân tộc thiểu số ở nước ta<br />
Từ khóa: Đào tạo nghề; nguồn nhân lực chất lượng cao; vùng dân tộc thiểu số trong<br />
giai đoạn hiện nay; giải pháp quan trọng.<br />
<br />
Ngay từ khi nước nhà được độc lập, trong Trên cơ sở tổng kết thực hiện Nghị quyết TW 2<br />
sách lược “diệt giặc đói và giặc dốt” cho đồng (khoá VIII) và cụ thể hoá văn kiện Đại hội Đảng<br />
bào cả nước, Đảng ta đã hết sức quan tâm đến toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị TW 6 (khoá IX)<br />
phát triển hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó có đã kết luận những vấn đề rất quan trọng có<br />
đào tạo nghề. Đào tạo nghề được xem như là giải tính chất chủ trương, quan điểm để định hướng<br />
pháp gắn với phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói phát triển GD&ĐT, kể cả đào tạo nghề từ năm<br />
giảm nghèo, giải quyết vấn đề thất nghiệp, thiếu 2005 đến năm 2010. Đặc biệt, Nghị quyết Hội<br />
việc làm cho người lao động. Trong công cuộc nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa<br />
đổi mới đất nước, phát triển đào tạo nghề là giải XI1 đã đưa ra quan điểm chỉ đạo cụ thể GD&ĐT<br />
pháp quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển trong điều kiện hội nhập quốc tế: “Chuyển mạnh<br />
dịch cơ cấu kinh tế vùng nông thôn, miền núi; quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức<br />
nâng cao trình độ dân trí cho lao động nông thôn sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất<br />
(LĐNT) và lao động dân tộc thiểu số (LĐDTTS) người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với<br />
ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo<br />
VIII của Đảng là dấu mốc quan trọng trong đổi dục gia đình và giáo dục xã hội” và “Ưu tiên đầu<br />
mới tư duy về phát triển và đào tạo nghề trong tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng<br />
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên<br />
hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng<br />
quyết Hội nghị TW 2 (khoá VIII) và các Nghị chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa<br />
quyết tiếp theo đã cụ thể hoá, đồng thời đề ra giáo dục và đào tạo”. Nghị quyết đã đưa ra mục<br />
các giải pháp để thực hiện các mục tiêu của tiêu cụ thể cho đào tạo nghề: Tập trung đào tạo<br />
Nghị quyết Đại hội VIII về lĩnh vực giáo dục và nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm<br />
đào tạo (GD&ĐT), trong đó có đào tạo lao động nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề<br />
kỹ thuật. Đó là những định hướng chiến lược nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào<br />
về phát triển GD&ĐT trong thời kỳ đổi mới. tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng,<br />
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực<br />
một lần nữa khẳng định chủ trương, quan điểm 1<br />
. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện<br />
GD&ĐT nói chung, đào tạo nghề nói riêng và giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều<br />
đặc biệt có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu sắc. kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 25/4/2017; Ngày phản biện: 10/5/2017; Ngày duyệt đăng: 25/5/2017 Số 18 - Tháng 6 năm 2017<br />
(1)<br />
Học viện Dân tộc; e-mail: vuthanhminh@cema.gov.vn<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm (Nghị định<br />
nước và quốc tế”, đồng thời “Bảo đảm cơ hội 19/2005/ NĐ-CP qui định thủ tục thành lập tổ<br />
cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng chức giới thiệu việc làm),... Chính sách về đào<br />
khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho lao động giai<br />
nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn đoạn 2011-2015 gồm: Đề án Hỗ trợ phụ nữ học<br />
nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015, Chương<br />
thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề,...” trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề giai<br />
Quan điểm của Đảng về GD&ĐT, đào tạo nghề đoạn 2012-2015; Chính sách hỗ trợ giải quyết<br />
đã được cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị<br />
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020: Phấn đấu thu hồi đất nông nghiệp; Qui định mức hỗ trợ học<br />
hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông nghề đối với người lao động đang hưởng trợ cấp<br />
thôn, đưa tỷ lệ lao động được đào tạo nghề lên thất nghiệp; Luật Giáo dục nghề nghiệp,…<br />
khoảng 55% tổng lao động xã hội vào năm 2020.<br />
Thực hiện giáo dục quốc dân, đào tạo nghề<br />
Có chính sách thu hút những người được đào<br />
giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao<br />
tạo về làm việc ở nông thôn, nhất là miền núi và<br />
động, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm<br />
vùng sâu, vùng xa. Phát triển mạng lưới dạy nghề<br />
đặc biệt đến công tác đào tạo nghề cho đồng bào<br />
theo hướng dân chủ hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa<br />
DTTS. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc<br />
nhằm từng bước nâng cao chất lượng dạy nghề<br />
lần thứ X, Đảng ta đã đưa ra định hướng rất cụ<br />
với phương châm hiệu quả, bền vững.<br />
thể: Về giáo dục đào tạo: Ưu tiên đầu tư phát<br />
Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về triển giáo dục đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng<br />
phát triển lao động qua đào tạo nghề, về đào tạo đồng bào DTTS,... Về dạy nghề: Tổ chức dạy<br />
nghề đã được thể chế hoá trong Bộ luật Lao động nghề, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ sản xuất<br />
đầu tiên của Việt Nam (có hiệu lực từ 1/1/1995) phù hợp cho nông dân, đồng bào DTTS.<br />
và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật<br />
Điều 36, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã<br />
Lao động (có hiệu lực từ 1/1/2003); trong Luật<br />
hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), quy định Nhà<br />
giáo dục (có hiệu lực từ 1/6/1999) và sửa đổi năm<br />
nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát<br />
2005 và Luật dạy nghề (có hiệu lực từ 1/6/2007);<br />
triển giáo dục đào tạo ở miền núi, các vùng dân<br />
Luật Giáo dục nghề nghiệp (có hiệu lực từ<br />
tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn. Trong<br />
1/7/2015); trong Chiến lược phát triển giáo dục<br />
Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày<br />
2001-2010, Chiến lược phát triển giáo dục giai<br />
23/6/1994, tại Điều 21 đã quy định: Cơ sở dạy<br />
đoạn 2011-2020 và trong nhiều chính sách, nghị<br />
nghề cho người DTTS được xét giảm, miễn thuế.<br />
định, thông tư hướng dẫn của Nhà nước. Ngoài<br />
Luật lao động, Luật Dạy nghề, giai đoạn 2005- Điều 10, Luật giáo dục (1998) quy<br />
2010 còn có tới 8 chính sách về đào tạo nghề và định: Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con<br />
hỗ trợ việc làm cho lao động nói chung và lao em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có<br />
động nữ nói riêng: Chính sách hỗ trợ dạy nghề điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối<br />
ngắn hạn cho lao động nông thôn; Chương trình tượng hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật và<br />
mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2007- đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác<br />
2010; Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình.<br />
bền vững đối với 61 huyện nghèo (2008); Chính Tại Nghị định 139/NĐ-CP ngày 20/11/2006 của<br />
sách phát triển ngành nghề nông thôn (Nghị Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi<br />
định 66/2006/ NĐ-CP về phát triển ngành nghề hành Luật Giáo dục và Bộ Luật Lao động (sửa<br />
nông thôn); Chính sách khuyến nông, khuyến đổi) về dạy nghề cũng có 2 điều quy định chính<br />
ngư (Nghị định 56/2005 NĐ-CP về khuyến sách đối với DTTS: (1) Cơ sở dạy nghề cho người<br />
nông, khuyến lâm); Chính sách đền bù, hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số được xét giảm miễn thuế (Điều<br />
gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp (Nghị định 22); (2) Người học nghề là người DTTS được hỗ<br />
197/2004/ NĐ-CP về hỗ trợ hộ gia đình đào tạo trợ học nghề (Điều 24). Khoản 2 điều 7 Luật dạy<br />
nghề khi bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp); nghề (2005) khi nói về chính sách của Nhà nước<br />
Chính sách hỗ trợ việc làm; Chính sách phát triển đối với phát triển dạy nghề đã khẳng định “ Chú<br />
<br />
<br />
Số 18 - Tháng 6 năm 2017 19<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
trọng phát triển dạy nghề ở các vùng có điều kiện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ<br />
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. Trong đó, Nhà nghèo; người DTTS; người tàn tật; người trong<br />
nước có chính sách đầu tư bảo đảm các điều kiện diện thu hồi đất canh tác; phụ nữ bị mất việc làm<br />
cho cơ sở dạy nghề tiếp nhận học sinh phổ thông trong các doanh nghiệp.<br />
dân tộc nội trú khi ra trường được vào học nghề<br />
Trong giai đoạn 2007- 2010, 2010-2015<br />
(Điều 54). Học sinh tốt nghiệp trường Trung học<br />
và giai đoạn 2016-2020 chính sách dạy nghề cho<br />
cơ sở dân tộc nội trú, trường Trung học phổ thông<br />
nông dân, ngày càng được chú trọng. Trong đó,<br />
dân tộc nội trú, kể cả nội trú dân nuôi được tuyển<br />
có quan tâm đến học sinh, sinh viên thuộc hộ<br />
thẳng vào học trường trung cấp nghề. Học sinh<br />
nghèo, gia đình chính sách, phụ nữ. Quyết định số<br />
Trường phổ thông dân tộc nội trú khi chuyển<br />
81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng<br />
sang học nghề được hưởng chính sách như học<br />
Chính phủ về Chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn<br />
sinh trường phổ thông dân tộc nội trú (Điều 65).<br />
hạn cho lao động nông thôn chỉ rõ “Ưu tiên các<br />
Gần đây nhất Luật Giáo dục nghề nghiệp nhóm lao động bị mất đất sản xuất do Nhà nước<br />
cũng đã khẳng định người DTTS được hỗ trợ đào thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; lao<br />
tạo nghề và giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, một động thuộc diện chính sách, dân tộc thiểu số; lao<br />
số chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã động nữ và lao động chưa có việc làm”2. Quyết<br />
hội vùng Tây Bắc,Tây Nguyên, Tây Nam bộ của định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ<br />
Đảng và Nhà nước cũng có nội dung hỗ trợ đào tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án về Dạy nghề<br />
tạo nghề, chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đến năm 2020” với mục<br />
cho đồng bào. Cụ thể như: Quyết định số 20/QĐ- tiêu tăng cường khả năng tiếp cận của các đối<br />
TTg ngày 20/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ tượng này đến hệ thống dạy nghề. Phụ nữ là đối<br />
về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng tượng hưởng lợi nhiều trong chính sách này.<br />
đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010; Quyết<br />
Trong các giai đoạn 2007-2010, bình quân<br />
định số 74/2008/QĐ-TTg ngày 09/6/2008 của Thủ<br />
mỗi năm đã hỗ trợ cho trên 300 nghìn lao động<br />
tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ giải<br />
nông thôn học nghề ngắn hạn và sơ cấp nghề3.<br />
quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm<br />
Hàng năm, ngân sách nhà nước chi khoảng 4.400<br />
cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn<br />
tỷ đồng: miễn học phí (2.162 tỷ đồng); giảm học<br />
vùng ĐBSCL giai đoạn 2008 – 2010; Quyết định<br />
phí (383 tỷ đồng) và hỗ trợ chi phí học tập (1.856<br />
số 1033/QĐ-TTg, ngày 30/6/2011 của Thủ tướng<br />
tỷ đồng), trong đó có hỗ trợ dạy nghề. Công bằng<br />
Chính phủ về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy<br />
xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt<br />
nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn<br />
tăng cơ hội học tập cho trẻ em gái, trẻ em DTTS,<br />
2011-2015. Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg ngày<br />
con em các gia đình nghèo và trẻ em khuyết tật.<br />
20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về một số<br />
Hàng loạt chính sách xã hội ban hành trong thời<br />
chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và giải quyết<br />
kỳ 2007-2010 đã quan tâm đến cung cấp tín dụng<br />
việc làm cho đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó<br />
ưu đãi nhằm hỗ trợ việc làm cho các nhóm đối<br />
khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn<br />
tượng đặc thù như hộ nghèo, người DTTS, người<br />
2013 – 2015,…<br />
khuyết tật, hộ bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp<br />
Nhìn tổng thể, chủ trương quan điểm của phải học nghề để chuyển đổi việc làm, thanh<br />
Đảng ta về đào tạo nghề không chỉ dừng lại ở niên, phụ nữ,...<br />
hệ tư tưởng, ở tầm định hướng chính sách mà<br />
Chương trình mục tiêu quốc gia về việc<br />
nó đã được thể chế hóa về mặt Nhà nước thành<br />
làm đã hỗ trợ tạo việc làm trong các cơ sở sản xuất<br />
hệ thống cơ chế, chính sách. Đó là một hệ thống<br />
kinh doanh (doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang trại,<br />
chủ trương quan điểm nhất quán, toàn diện và<br />
làng nghề,…), tạo nhiều việc làm cho người lao<br />
không ngừng được hoàn thiện. Đối tượng thụ<br />
hưởng các chính sách này bao gồm cả nam giới 2<br />
. Điều 1, Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005<br />
và phụ nữ. Một số chính sách còn dành ưu tiên của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách hỗ trợ dạy nghề<br />
đối với phụ nữ, đặc biệt là các nhóm phụ nữ đặc ngắn hạn cho lao động nông thôn.<br />
thù như người thuộc diện được hưởng chính sách 3<br />
. Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động-TBXH. Báo cáo tình<br />
ưu đãi, người có công với cách mạng; hộ nghèo; hình phát triển dạy nghề năm 2011.<br />
<br />
<br />
20 Số 18 - Tháng 6 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
động, hộ gia đình, hộ DTTS và các đối tượng đặc Cùng với hệ thống chính sách đào tạo nghề<br />
thù (người khuyết tật, lao động khu vực chuyển và hỗ trợ việc làm cho lao động của Nhà nước,<br />
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp,…). Thời từng địa phương căn cứ vào điều kiện cụ thể cũng<br />
kỳ 2007-2010, mỗi năm Quỹ quốc gia giải quyết đã ban hành nhiều chính sách, xây dựng nhiều<br />
việc làm góp phần tạo việc làm cho khoảng 350 mô hình đào tạo hiệu quả, nhằm tạo điều kiện tối<br />
ngàn lao động, trong đó lao động nữ chiếm trên đa cho lao động được tiếp cận thông tin, được đào<br />
40%.4 Hoạt động đưa lao động đi làm việc có thời tạo nghề, chuyển đổi nghề phát triển sinh kế.<br />
hạn ở nước ngoài là một trong những giải pháp<br />
Theo Viện Khoa học lao động và xã hội<br />
để tạo việc làm gắn với xóa đói giảm nghèo bền<br />
thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội<br />
vững. Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài<br />
(LĐTB&XH): Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động5<br />
tăng đều hàng năm.<br />
cả nước tiếp tục tăng, đạt 78,1% vào năm 2015<br />
Trong hệ thống luật pháp, chính sách về và dự báo đạt 78,6% vào năm 2020. Qui mô lực<br />
đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho lao động nói lượng lao động cũng tiếp tục tăng, đạt 54,81 triệu<br />
chung và lao động nữ nói riêng, đáng quan tâm người, năm 2015 và dự báo là 58,23 triệu người<br />
nhất là sự ra đời của Luật Bình đẳng giới (ra đời vào 2020. Theo giới tính, lực lượng lao động nữ<br />
năm 2006, có hiệu lực năm 2007) và những điều đạt 26,15 triệu người năm 2015 và ước sẽ đạt<br />
khoản qui định của Luật. Theo đó, việc thực hiện 27,50 triệu người năm 2020. Lực lượng lao động<br />
bình đẳng giới trong giáo dục, đào tạo, dạy nghề nữ chiếm trên 47% tổng lực lượng lao động. Trước<br />
là hết sức quan trọng để nâng cao năng lực, vị nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng phải<br />
thế của phụ nữ. Luật quy định cụ thể những nội giảm tốc độ tăng lực lượng lao động, đòi hỏi phải<br />
dung của bình đẳng giới trong giáo dục, đào tạo khai thác hiệu quả nguồn vốn và nâng cao chất<br />
như: Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi tham gia đào lượng nguồn nhân lực, do vậy, nhu cầu lao động<br />
tạo, trong lựa chọn ngành, nghề đào tạo, trong qua đào tạo đã tăng nhanh. Mục tiêu tỷ lệ lao động<br />
thụ hưởng các chính sách về GD&ĐT. Một số qua đào tạo nghề trong tổng số lao động của từng<br />
biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lĩnh vực sẽ là: Nông, lâm, ngư nghiệp (khoảng<br />
GD&ĐT, dạy nghề cũng được đề cập như: Quy 35%); công nghiệp - xây dựng (khoảng 63%); dịch<br />
định tỷ lệ nam nữ tham gia học tập, đào tạo; tỷ lệ vụ (khoảng 50%), đặt ra yêu cầu lớn cho công tác<br />
nữ được tạo việc làm, hỗ trợ lao động nữ nông dạy nghề, đặc biệt là dạy nghề cho lao động nông<br />
thôn học nghề,… Bình đẳng giới là xu thế phát thôn, cho đồng bào DTTS. Trong đó có nhu cầu<br />
triển tất yếu, vì phụ nữ ngày càng chứng tỏ vị đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động.<br />
thế, khả năng đóng góp của họ cho gia đình và xã<br />
Nhìn chung, nội dung chủ yếu của chính<br />
hội. Tuy nhiên, ở những vùng sâu, vùng xa, vùng<br />
sách đào tạo nghề, đào tạo nghề cho LĐNN,<br />
đồng bào DTTS, công tác bình đẳng giới gặp khó<br />
LĐDTTS của chúng ta giai đoạn vừa qua tập<br />
khăn hơn. Phụ nữ DTTS phải gánh chịu nhiều<br />
trung vào những vấn đề sau:<br />
thiệt thòi, chưa được nam giới quan tâm, chia sẻ<br />
công việc gia đình; ít được tiếp cận các dịch vụ Thứ nhất, người lao động ở nông thôn được<br />
chăm sóc sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình. Trước tham gia chương trình đào tạo nghề của Chính<br />
thực trạng đó, chiến lược quốc gia về bình đẳng phủ ban hành. Trong đó ưu tiên dạy nghề cho các<br />
giới giai đoạn 2011- 2020 tập trung vào đối tượng đối tượng là người có công với cách mạng, hộ<br />
phụ nữ nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng nghèo, người DTTS, người tàn tật, người bị thu<br />
bào DTTS. Mục tiêu là giúp chị em có quyền hồi đất canh tác, phụ nữ.<br />
bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực. Thứ hai, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề được<br />
Thông qua các buổi tuyên truyền bình đẳng giới lấy từ ngân sách trung ương, địa phương, doanh<br />
về những vùng nông thôn, Ban vì sự tiến bộ phụ nghiệp. Trong đó, ngân sách trung ương đảm bảo<br />
nữ các cấp đã giúp chị em dần thay đổi những kinh phí để thực hiện chính sách hỗ trợ lao động<br />
định kiến, nâng cao nhận thức, trang bị những kỹ nông thôn học nghề, hoạt động đào tạo; các cá<br />
năng để nhận biết và dám đấu tranh cho quyền lợi nhân, doanh nghiệp tham gia công tác đào tạo<br />
chính đáng của mình.<br />
5<br />
. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ phần trăm số<br />
. Số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội<br />
4<br />
người tham gia lao động so với tổng nguồn lao động<br />
<br />
Số 18 - Tháng 6 năm 2017 21<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
nghề được hưởng mức thuế ưu đãi theo đúng quy đồng bằng Sông Cửu Long. LĐNT, LĐDTTS chủ<br />
định của pháp luật. yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất nông - lâm -<br />
ngư nghiệp (trên 70%), công nghiệp - xây dựng<br />
Thứ ba, Các chính sách đã tạo điều<br />
(gần 10%), dịch vụ (khoảng 20%). Đời sống của<br />
kiện tối đa cho lao động nông thôn, vùng đặc<br />
đa số đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ<br />
biệt khó khăn (ĐBKK), lao động DTTS, lao<br />
hộ nghèo vùng dân tộc và miền núi (DT&MN)<br />
động nữ được đào tạo nghề để có việc làm<br />
cuối năm 2015 khoảng 16,8%, trong đó: các tỉnh<br />
phù hợp, có thu nhập, nâng cao đời sống.<br />
vùng Tây Bắc 34,52%, Đông Bắc 20,74%, duyên<br />
Đào tạo nghề luôn được gắn với giải quyết việc<br />
hải miền Trung 11,4%, Tây Nguyên 17,14% và<br />
làm cho người lao động. Đây là đặc điểm nổi bật<br />
đồng bằng sông Cửu Long 9,66%. Năm 2016, nhờ<br />
của đề án 1956 của Chính phủ về đào tạo nghề<br />
thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển kinh<br />
cho người lao động nông thôn, đặc biệt là hộ<br />
tế - xã hội, tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo tiếp cận đa<br />
nghèo người DTTS. Đối với khu vực Tây Nam<br />
chiều vùng dân tộc và miền núi ước giảm khoảng<br />
bộ, tỷ lệ nông dân và người DTTS chưa được đào<br />
2% so với năm 2015 (cả nước giảm khoảng 1,3%<br />
tạo nghề còn chiếm tỷ lệ khá cao so với các vùng<br />
- 1,5%), riêng các huyện nghèo giảm 4%7.<br />
khác, nên công tác dạy nghề được đặc biệt chú<br />
trọng. Đề án 1956 của Chính phủ đã có những Kinh tế của đồng bào chủ yếu tự cung,<br />
đóng góp trực tiếp cho việc nâng cao chất lượng tự cấp, trình độ sản xuất còn lạc hậu. Nhiều hộ<br />
nguồn nhân lực, kỹ năng lao động cho người lao DTTS thiếu đất sản xuất, đất ở; nhiều làng nghề<br />
động, đặc biệt là phụ nữ DTTS. truyền thống bị mai một, đời sống bà con còn vô<br />
cùng khó khăn. Thực hiện chủ trương của Đảng<br />
Thứ tư, Các chính sách, đề án được xây<br />
về phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền<br />
dựng trên cơ sở dạy nghề phù hợp với nhu cầu,<br />
núi thông qua nâng cao chất lượng đào tạo nghề<br />
khả năng thực tế của các nhóm dân cư, người<br />
cho lao động nông thôn, cho đồng bào DTTS,<br />
DTTS; đồng thời đảm bảo dạy nghề theo nhu cầu<br />
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các Ban chỉ đạo Tây<br />
của thị trường lao động.<br />
Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ, Bộ LĐTB&XH<br />
Thứ năm, Các chính sách đào tạo nghề đều cùng các sở Ban ngành ở địa phương, công tác đào<br />
đề cao sự liên kết giữa các bên tham gia ở tất cả tạo nghề cho LĐNT, LĐDTTS ở vùng có đông<br />
các khâu của đào tạo nghề. Từ khâu tuyển sinh đồng bào sinh sống được chú trọng, Theo Báo<br />
đầu vào đến quá trình đào tạo và đầu ra phải có cáo của Hội đồng Dân tộc (Quốc Hội khóa 13),<br />
sự phối hợp ăn ý giữa chính quyền - đại diện cơ báo cáo về kết quả thực hiện chính sách đào tạo<br />
quan quản lý nhà nước; doanh nghiệp - đại diện nghề cho lao động nông thôn vùng DTTS từ năm<br />
tiếp nhận lao động qua đào tạo nghề; người lao 2010 đến 2013 (Quyết định 1956/QĐ-TTg, ngày<br />
động - đại diện bên hưởng thụ hỗ trợ. Trong đó, 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt<br />
chính quyền quản lý đóng vai trò cầu nối trung Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến<br />
gian cho nhà tuyển dụng doanh nghiệp và người năm 2020 - gọi tắt là Đề án 1956: Tại 51 tỉnh có<br />
lao động, thường xuyên điều tra khảo sát nhu cầu DTTS, cư trú tập trung theo cộng đồng đã có 468<br />
lao động của nhà tuyển dụng lao động và thông cơ sở đào tạo nghề (Trung tâm dạy nghề, hoặc<br />
tin rộng rãi đến các cấp và trực tiếp đến người lao Trường Trung cấp nghề công lập) được đầu tư cơ<br />
động, đặc biệt người lao động chưa có việc làm sở vật chất, thiết bị dạy nghề, với tổng kinh phí<br />
hoặc mới nghỉ việc. Những thay đổi không ngừng 2.311,6 tỷ đồng (ngân sách Trung ương 1.968,1<br />
trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay đã tỷ, chiếm 85,2%; ngân sách địa phương và lồng<br />
đặt ra cho công tác đào tạo nghề không chỉ đào ghép các nguồn vốn khác 343,5 tỷ đồng, chiếm<br />
tạo một lần mà phải có kế hoạch đào tạo lâu dài, 14,8%). Ngoài ra, tại các tỉnh có đông LĐDTTS,<br />
đào tạo lại, đào tạo nâng cao mới đáp ứng được đã có 01 Trường Cao đẳng nghề thanh niên dân<br />
nhu cầu của thực tế. tộc Tây Nguyên và 10 Trường Trung cấp nghề<br />
Hiện nay, đồng bào DTTS của nước ta có Dân tộc nội trú (Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái,<br />
số dân là 13,39 triệu người, chiếm 14,6% dân số Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam,<br />
cả nước6 sống tập trung chủ yếu ở vùng miền núi Phú Yên, An Giang, Kiên Giang); 02 khoa Dân<br />
phía Bắc, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và tộc nội trú tại Trường Cao đẳng nghề Hòa Bình<br />
6<br />
. Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra thực trạng phát triển 7<br />
. Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tổng kết công tác dân tộc năm<br />
kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số, năm 2015 2016 và triển khai nhiệm vụ năm 2017.<br />
<br />
22 Số 18 - Tháng 6 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
và Sóc Trăng; xây dựng ký túc xá, trang thiết bị quyết việc làm cho 6.600 lao động, trong đó xuất<br />
dạy nghề cho các trường trung cấp, cao đẳng khẩu 100 lao động. Năm 2014, Yên Bái tạo việc<br />
nghề của một số tỉnh. Tính đến tháng 6-2013, làm mới cho 18.174 lao động (xuất khẩu lao động<br />
Tổng số LĐNT được học nghề: 886.621 người, đạt 742 người)9.<br />
trong đó LĐDTTS 223.792 người, chiếm tỷ lệ<br />
Sơ kết 3 năm thực hiện Đề án 1956 ở Tây<br />
25,24% so với tổng số lao động được đào tạo. Tỷ<br />
nguyên (đào tạo nghề cho lao động nông thôn),<br />
lệ LĐDTTS trong độ tuổi được đào tạo nghề theo<br />
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên khẳng định: Các tỉnh<br />
Đề án 1956: 223.792/7.820.909 người, chiếm tỷ<br />
Tây Nguyên đã tuyển sinh dạy nghề cho gần<br />
lệ 2,86% (trong khi tỷ lệ lao động trong độ tuổi<br />
90.000 lao động nông thôn. Chất lượng đào tạo<br />
được đào tạo nghề của của cả nước là 37,3%).<br />
nghề cũng từng bước được nâng lên. Cụ thể, chỉ<br />
Tổng số LĐNT sau học nghề có việc làm: 620.028<br />
riêng từ năm 2010 đến năm 2013, tỷ lệ lao động<br />
người, đạt tỷ lệ 73,07% so với tổng số lao động<br />
nông thôn sau học nghề được các doanh nghiệp<br />
đã học xong nghề. Tỷ lệ LĐNT, LĐDTTS tự tạo<br />
tuyển dụng hoặc tự tạo việc làm tại chỗ đạt trên<br />
việc làm sau khi học nghề chiếm tỷ lệ cao 63,1%;<br />
78%, trong đó có trên 2.000 hộ nghèo sau học<br />
đặc biệt lao động học nghề nông nghiệp tự tạo<br />
nghề có việc làm, thu nhập ổn định và đã thoát<br />
việc làm chiếm tỷ lệ rất cao (87,74%). Hơn 3<br />
nghèo. Có 2.687 hộ sau học nghề đã đầu tư mở<br />
năm (2010-2013), có 16.000 LĐDTTS được thụ<br />
rộng sản xuất, thành lập các tổ sản xuất kinh<br />
hưởng chính sách xuất khẩu lao động, đã đi làm<br />
doanh dịch vụ và trở thành hộ có thu nhập khá<br />
việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó 7.132<br />
so với bình quân chung của địa phương. Hiện<br />
LĐDTTS thuộc 62 huyện nghèo8. Đa số LĐDTTS<br />
nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Tây Nguyên<br />
đi xuất khẩu lao động đều có việc làm, thu nhập<br />
đạt khoảng 37%, trong đó qua đào tạo nghề có<br />
ổn định. Thông qua đào tạo nghề và tìm việc làm<br />
khoảng 30%. Trong những năm qua, công tác dạy<br />
cho LĐDTTS, nhiều hộ gia đình DTTS đã thoát<br />
nghề ở Tây Nguyên đã phát triển theo hướng gắn<br />
nghèo, xây dựng được nhà cửa, mua sắm tài sản,<br />
với các chương trình về lao động, việc làm, xuất<br />
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả.<br />
khẩu lao động, xoá đói, giảm nghèo, nên đã có<br />
Nhiều mô hình đào tạo nghề và mô hình nghề<br />
những hiệu quả rõ rêt. Mô hình đào tạo nghề rõ<br />
được áp dụng, được nhân rộng hiệu quả.<br />
nhất ở Tây Nguyên hiện nay là sự phối hợp, liên<br />
Theo Báo cáo của Bộ trưởng Bộ kết “4 nhà”, đó là nhà quản lý, nhà trường, nhà<br />
LĐTB&XH tại Hội nghị “Đánh giá thực trạng nông và nhà doanh nghiệp.<br />
thực hiện chính sách xuất khẩu lao động, dạy<br />
Toàn vùng đồng bằng Sông Cửu Long,<br />
nghề, giảm nghèo tại các huyện khó khăn vùng<br />
hiện đã có 364 cơ sở dạy nghề, trong đó có 39<br />
Tây bắc” (1/2015): “Năm 2014, các địa phương<br />
cơ sở dạy nghề ngoài công lập (chiếm 22,16%).<br />
trong toàn vùng Tây Bắc đã tuyển sinh, đào tạo<br />
Trong giai đoạn 2011-2015, tổng số tuyển sinh<br />
cho hơn 243.000 người được học nghề, bằng<br />
học nghề là 1.238.643 người ở các trình độ đào<br />
12% tổng số người được đào tạo nghề cả nước,<br />
tạo nghề. Hiện có 9.556 hộ nghèo có người tham<br />
trong đó có hơn 71.000 người DTTS và hơn<br />
gia học nghề đã thoát được nghèo, trong tổng số<br />
13.000 người thuộc hộ nghèo”. Dạy nghề và các<br />
44.959 người nghèo tham gia học nghề; 8.293 hộ<br />
chính sách liên quan trực tiếp đến đào tạo nhân<br />
gia đình có người tham gia học nghề trở thành<br />
lực địa phương cũng được chú ý. Nguồn nhân lực<br />
hộ khá10. Kết quả điều tra phiếu hỏi của đề tài<br />
đã qua đào tạo của Tây Bắc cũng tăng dần qua<br />
“Nghiên cứu kết quả một số chủ trương, chính<br />
các năm. Hoà Bình và Điện Biên có tỷ lệ nhân<br />
sách đối với đồng bào Khmer và những vấn đề<br />
lực trên 15 tuổi đã qua đào tạo vượt mức trung<br />
đặt ra”11 cho thấy, đa số đồng bào Khmer và đồng<br />
bình cả nước. Tại Lai Châu, năm 2014, số lao<br />
động được đào tạo nghề và giải quyết việc làm 9<br />
. Báo cáo tại Hội nghị Đánh giá thực trạng thực hiện chính<br />
tăng: đào tạo nghề cho 5.077 lao động, nâng tỷ sách xuất khẩu lao động, dạy nghề, giảm nghèo tại các huyện<br />
lệ lao động qua đào tạo, tập huấn lên 38%; giải khó khăn vùng Tây bắc (1/2015).<br />
10<br />
. Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Báo cáo Sơ kết 3 năm năm triển<br />
8<br />
. Hội đồng Dân tộc Quốc Hội (khóa 13), Kết quả giám sát khai Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ về “Đào<br />
việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, năm 2013<br />
thôn vùng dân tộc thiểu số, năm 2013. 11<br />
. Ủy ban Dân tộc, Đề tài cấp bộ thực hiện năm 2016-2017.<br />
<br />
<br />
Số 18 - Tháng 6 năm 2017 23<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
bào Kinh đều cho rằng: Trong điều kiện đất đai LĐNT, LĐDTTS chưa phù hợp, chưa đáp ứng<br />
vùng Tây Nam bộ hiện rất hạn hẹp và biến đổi nhu cầu đào tạo nghề tại địa phương, cụ thể: các<br />
khí hậu gây ngập mặn, hạn mặn như hiện nay, gây quy định về mức chi hỗ trợ tiền ăn, chi phí đi lại<br />
nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp thì đào tạo quá thấp, trong khi đó cơ sở đào tạo lại quá xa.<br />
nghề cho đồng bào Khmer và hỗ trợ chuyển đổi so với nơi ở của đồng bào. Các nghề mang tính<br />
nghề cho đồng bào là rất phù hợp và rất cần thiết kỹ thuật cao chưa phát triển. Trình độ người lao<br />
(208/360 ý kiến chủ hộ Khmer, chiếm 57,8% và động chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường<br />
28/40 ý kiến chủ hộ Kinh, chiếm 70% cho là rất lao động. Việc xuất khẩu lao động còn nhiều hạn<br />
phù hợp và rất cần thiết). Nhưng đào tạo nghề chế.<br />
nên tránh đào tạo tràn lan mà đào tạo phải gắn<br />
Thực tế cho thấy, quá trình đào tạo nghề cho<br />
với giải quyết việc làm sau đào tạo nghề. Giai<br />
đồng bào DTTS, đặc biệt là đồng bào ở vùng sâu,<br />
đoạn 2016-2020, khu vực ĐBSCL phấn đấu<br />
vùng xa, vùng ĐBKK chưa đạt được hiệu quả như<br />
mỗi năm sẽ dạy nghề cho khoảng 300 nghìn<br />
mong muốn. Nguyên nhân là do nội dung, phương<br />
lao động trong vùng. Đồng thời phấn đấu đến<br />
pháp giảng dạy một số nơi chỉ mang tính ngắn hạn,<br />
năm 2020, có ít nhất 2 trường nghề đạt tiêu chí<br />
cung cấp kiến thức trong sản xuất nông nghiệp là<br />
trường nghề chất lượng cao, 3 trường nghề nội<br />
chính, trong khi đồng bào thiếu tư liệu sản xuất<br />
trú đảm bảo chất lượng đào tạo cho học sinh<br />
(đất); việc thu hút được các doanh nghiệp, trong đó<br />
DTTS nội trú, 100 lượt nghề trọng điểm ở các<br />
có doanh nghiệp đầu tư vào vùng DTTS rất ít, nên<br />
cấp độ đạt chuẩn tối thiểu. Theo báo cáo của<br />
rất khó khăn kết hợp được đào tạo nghề gắn với<br />
ngân hàng Chính sách Xã hội, 10 tháng đầu năm<br />
giải quyết việc làm tại chỗ. Nhiều lao động được<br />
2016, cả nước đã hỗ trợ giải quyết việc làm cho<br />
đào tạo nhưng không có việc làm hoặc làm những<br />
85.025 lao động, trong đó hơn 8.000 lao động là<br />
công việc không phù hợp với ngành nghề được<br />
người DTTS12.<br />
đào tạo hoặc gia công làm được các sản phẩm thủ<br />
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công công mỹ nghệ nhưng gặp khó khăn trong tiêu thụ<br />
tác đào tạo nghề cho đồng bào DTTS vẫn còn sản phẩm, từ đó không thu hút được lao động học<br />
có những hạn chế nhất định. Công tác đào tạo nghề, ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực.<br />
nghề ở vùng DTTS mới chỉ đáp ứng được khoảng Bên cạnh đó, nhiều cơ sở đào tạo còn khó khăn về<br />
1/5 nhu cầu học nghề của địa phương. Sau học cơ sở vật chất, thiếu nơi thực hành. Chương trình<br />
nghề, lao động được giải quyết việc làm, có thu đào tạo nghề còn nặng về lý thuyết, chưa thực sự<br />
nhập cao còn quá ít ỏi. Chưa có chính sách phù phù hợp với trình độ nhận thức của LĐNT, đặc biệt<br />
hợp để khuyến khích các cơ sở dạy nghề mở rộng là LĐDTTS. Hầu hết đối tượng học nghề ở nông<br />
quy mô tuyển sinh. Nhiều địa phương vùng sâu, thôn chỉ được đào tạo trình độ sơ cấp và dưới 3<br />
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn chưa có mô hình tháng. Đa số người lao động sau khi được đào tạo<br />
dạy nghề phù hợp cho từng đối tượng, nhất là nghề vẫn làm nghề cũ (nghề nông nghiệp chiếm<br />
cho phụ nữ DTTS. Công tác xã hội hóa giáo dục tỷ lệ trên 80%). Tỷ lệ LĐDTTS được đào tạo<br />
chưa được đẩy mạnh, chưa huy động được nguồn nghề rất thấp (dưới 3% so với LĐDTTS trong độ<br />
lực từ doanh nghiệp và nhân dân. Có nơi công tuổi)13. LĐDTTS vẫn ít có cơ hội được học nghề<br />
tác đào tạo nghề chưa phù hợp với thực tế nhu bài bản, thường chỉ theo các lớp dưới 3 tháng.<br />
cầu địa phương. Chất lượng đào tạo nghề chưa Hiện nay vùng DTTS &MN lại là nơi chịu ảnh<br />
cao do trình độ học vấn của người lao động, đặc hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu (hạn hán<br />
biệt là chất lượng lao động vùng sâu, vùng xa, kéo dài ở Tây nguyên; hạn mặn và xâm mặn nặng<br />
vùng đồng bào DTTS không đồng đều, nên số lao ở Tây Nam bộ), cũng lại là nơi chịu ảnh hưởng<br />
động nông thôn tham gia học nghề chủ yếu là học của khủng hoảng kinh tế thế giới,... Những yếu<br />
những nghề đơn giản, hoặc bồi dưỡng kiến thức tố này đã ảnh hưởng rất nhiều đến thị trường lao<br />
ít ngày. Đặc biệt, thiếu các cơ chế, chính sách ưu động, việc làm. Bên cạnh đó là các nguyên nhân<br />
tiên đối với người học nghề là người DTTS. Một chủ quan: Sự phối hợp chưa đồng bộ của các Bộ,<br />
số quy định, định mức về hỗ trợ đào tạo nghề cho<br />
13<br />
. Hội đồng dân tộc Quốc Hội (khóa 13) Kết quả giám sát<br />
. Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tổng kết công tác dân tộc năm<br />
12<br />
việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông<br />
2016 và triển khai nhiệm vụ năm 2017. thôn vùng dân tộc thiểu số, năm 2013<br />
<br />
24 Số 18 - Tháng 6 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
ban ngành Trung ương trong thực hiện các chính đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào vùng<br />
sách dạy nghề cho LDDTTS, vùng DTTS. Nhiều DTTS, sử dụng lao động là người DTTS tại chỗ<br />
địa phương còn trông chờ ỷ lại vào Đảng, nhà vào làm việc tại doanh nghiệp. Đồng thời, khuyến<br />
nước mà ko có những chính sách dạy nghề đặc khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế,<br />
thù cho địa phương. Do bản tính rụt rè, thiếu tự các cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập tham gia<br />
tin, ngại thay đổi môi trường sống, thay đổi cách đào tạo nghề gắn với thu hút lao động nông thôn,<br />
thức làm ăn, nên đồng bào chưa nhận thức đúng, lao động DTTS vào doanh nghiệp.<br />
chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học nghề<br />
Thứ hai, Cần thực hiện hướng nghiệp nghề<br />
để lập nghiệp, nên chủ yếu tham gia các lớp ngắn<br />
cho học sinh DTTS ngay khi còn học phổ thông.<br />
hạn dưới 03 tháng và tập trung vào nghề nông, lâm<br />
Tăng cường công tác đào tạo nghề ở các trường<br />
nghiệp hoặc lao động giản đơn,… Nhiều lao động<br />
phổ thông Dân tộc nội trú để khi tốt nghiệp, nếu<br />
DTTS chưa coi trọng việc học nghề, chưa coi học<br />
không tiếp tục học Cao đẳng, Đại học thì khi<br />
nghề để xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giầu.<br />
trở về quê hương các em đã thạo một (hoặc hai)<br />
Bên cạnh đó, kinh phí bố trí cho công tác dạy nghề<br />
nghề, tự nuôi sống bản thân và gia đình, đồng<br />
thấp, lại chủ yếu dành cho xây dựng cơ sở đào tạo,<br />
thời góp phần xây dựng quê hương.<br />
chi hỗ trợ cho người học còn hạn hẹp.<br />
Thứ ba, Trong chiến lược nâng cao chất<br />
Để nâng cao chất lượng học nghề và giải<br />
lượng nguồn nhân lực cho vùng DTTS&MN cần<br />
quyết việc làm cho đồng bào Khmer nói riêng<br />
đầu tư và hỗ trợ thỏa đáng hơn nữa cho công<br />
và đồng bào DTTS vùng Đồng bằng sông Cửu<br />
tác đào tạo nghề cho con em DTTS ít người, hộ<br />
Long nói chung cần tăng cường hơn nữa cơ chế<br />
nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng ĐBKK, nhằm<br />
chính sách thu hút doanh nghiệp, đặc biệt doanh<br />
bảo đảm sự công bằng về cơ hội đào tạo nghề<br />
nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào vùng DTTS, sử<br />
(hỗ trợ kinh phí đi lại, sinh hoạt cho đồng bào ở<br />
dụng lao động là người DTTS tại chỗ vào làm<br />
xa trung tâm đào tạo nghề; hoặc tổ chức đào tạo<br />
việc tại doanh nghiệp. Đồng thời, khuyến khích<br />
nghề tại thôn bản,…), giảm sự chênh lệch về tỷ lệ<br />
các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các<br />
đào tạo nghề, việc làm và thu nhập giữa các vùng,<br />
cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập tham gia đào<br />
miền, các thành phần dân tộc, nhất là các đối<br />
tạo nghề gắn với thu hút lao động nông thôn, lao<br />
tượng thuộc hộ nghèo, DTTS, vùng ĐBKK với<br />
động DTTS vào doanh nghiệp. Với đồng bào ở<br />
mức trung bình của Trung ương và địa phương..<br />
vùng sâu, vùng xa, vùng ĐBKK tham gia học<br />
nghề cần được hỗ trợ kinh phí đi lại, sinh hoạt Thứ tư, Các địa phương căn cứ vào điều<br />
cho đồng bào ở xa trung tâm đào tạo nghề; hoặc kiện phát triển kinh tế- xã hội của địa phương;<br />
tổ chức đào tạo nghề tại thôn/bản, khóm/ấp,… đến văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào;<br />
Các địa phương căn cứ vào điều kiện phát triển đến trình độ LĐNT, LĐDTTS của địa phương để<br />
kinh tế- xã hội của địa phương; đến văn hóa, xây dựng mô hình đào tạo nghề phù hợp, định<br />
phong tục, tập quán của đồng bào; đến trình độ danh nghề của địa phương và định hướng nghề<br />
LĐNT, LDDTTS của địa phương để xây dựng hiệu quả cho đồng bào.<br />
mô hình đào tạo nghề phù hợp, định danh nghề Thứ năm, Thực hiện xây dựng mô hình đào<br />
của địa phương và định hướng nghề hiệu quả cho tạo nghề cho lao động DTTS cần phải có sự phối<br />
đồng bào. Tùy từng độ tuổi, giới tính, thành phần hợp, liên kết chặt chẽ của 4 chủ thể: Cơ quan quản<br />
dân tộc, địa bàn cư trú, trình độ phát triển kinh tế lý (Bộ LĐTB&XH hoặc Sở Lao động, Thương<br />
- xã hội địa phương, để có chương trình đào tạo binh và Xã hội tỉnh hoặc Hội liên hiệp Phụ nữ<br />
nghề và có nghề được đào tạo thích hợp. tỉnh, Tỉnh đoàn thanh niên,…), cơ sở dạy nghề<br />
Thực tế công tác đào tạo nghề cho đồng (trong và ngoài quốc lập), Lao động nông thôn,<br />
bào vùng DTTS hiện nay, đặt ra cho chúng ta một lao động DTTS (được học nghề và có nhu cầu<br />
số vấn đề cần phải quan tâm giải quyết như sau: học nghề) và doanh nghiệp (cơ sở sử dụng lao<br />
động). Cơ quan quản lý đảm bảo thực hiện đầy đủ<br />
Thứ nhất, Để phát triển đào tạo nghề hiệu<br />
các chính sách dạy nghề cho đồng bào. Cơ sở dạy<br />
quả cho vùng DTTS và miền núi cần tăng cường<br />
nghề có nhiệm vụ đào tạo các nghề theo nhu cầu,<br />
hơn nữa cơ chế chính sách thu hút doanh nghiệp,<br />
nguyện vọng của bà con có chất lượng. Đồng bào<br />
<br />
Số 18 - Tháng 6 năm 2017 25<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
DTTS có nhu cầu, nguyện vọng học nghề, đào nông thôn;<br />
tạo các nghề được học nghề. Các doanh nghiệp<br />
[2] Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động,<br />
có thể sử dụng ngay lao động đã học nghề hoặc<br />
Thương binh và Xã hội, Báo cáo tình hình phát<br />
hỗ trợ bà con đã học nghề tìm việc làm ổn định.<br />
triển dạy nghề năm 2011;<br />
Thứ sáu, Về chương trình đào tạo nghề:<br />
[3] Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tổng kết các<br />
Tùy từng độ tuổi, giới tính, thành phần dân tộc,<br />
chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015;<br />
địa bàn cư trú, trình độ phát triển kinh tế - xã hội<br />
địa phương, để có chương trình đào tạo nghề và [4] Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tổng kết công<br />
có nghề được đào tạo thích hợp. Ví dụ, đối với tác dân tộc năm 2016 và triển khai nhiệm vụ năm<br />
phụ nữ DTTS các xã ĐBKK khu vực Tây Nam 2017.<br />
bộ, nên đào tạo nghề ngắn hạn (dưới 3 tháng), [5] Hội đồng Dân tộc Quốc Hội (khóa 13),<br />
đào tạo các nghề gắn với giải quyết việc làm, Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách đào<br />
nhằm xóa đói giảm nghèo cho hộ gia đình. Hiện tạo nghề cho lao động nông thôn vùng dân tộc<br />
nay, các nghề đang được phụ nữ DTTS Tây Nam thiểu số, năm 2013;<br />
bộ quan tâm và có nhu cầu học nhiều là: Kỹ thuật<br />
trồng lúa chất lượng cao, chăn nuôi bò hoặc heo, [6] Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Báo cáo tại Hội<br />
may công nghiệp, dệt thổ cẩm, trồng nấm, kết nghị Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách<br />
hạt cườm,… và một số nghề nhằm hỗ trợ phụ nữ xuất khẩu lao động, dạy nghề, giảm nghèo tại các<br />
xuất khẩu lao động. Đối với thanh niên DTTS huyện khó khăn vùng Tây Bắc (1/2015);<br />
nên hướng tới đào tạo nghề dài hạn (Cao đẳng [7] Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Báo cáo Sơ<br />
hoặc Đại học nghề). Không những đào tạo các kết 3 năm triển khai Quyết định 1956 của Thủ<br />
nghề có trong danh mục nghề của quốc gia mà tướng Chính phủ về “Đào tạo nghề cho lao động<br />
nên đào tạo các nghề trong danh mục nghề quốc nông thôn đến năm 2020”, năm 2013;<br />
tế để hướng tới thị trường lao động việc làm trong<br />
nước của thời kỳ hội nhập quốc tế, hoặc xuất<br />
khẩu lao động. (*) Bài viết là sản phẩm của đề tài nghiên<br />
cứu khoa học “Nghiên cứu mô hình đào tạo nghề<br />
Tài liệu tham khảo<br />
cho phụ nữ dân tộc thiểu số thuộc các xã đặc biệt<br />
[1] Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày khó khăn khu vực Tây Nam Bộ” của Quỹ Khoa<br />
18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về Chính học và Công nghệ quốc gia NAFOSTED, năm<br />
sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động 2015 - 2017<br />
<br />
<br />
<br />
VOCATIONAL TRAINING - IMPORTANT SOLUTION TO CREATE HIGH QUALITY<br />
HUMAN RESOURCES FOR ETHNIC MINORITY PEOPLE IN THE CURRENT PERIOD<br />
<br />
Abstract: Vocational training is seen as a solution to socio-economic development,<br />
poverty reduction, unemployment and unemployment. In the process of national renovation,<br />
vocational training development is an important solution to speed up the economic<br />
restructuring process in rural and mountainous areas, improve the intellectual level of rural<br />
and ethnic labors in our country.<br />
Keywords: Vocational training; Human Resources; high quality human resources;<br />
ethnic minorities in the current period; important solutions.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
26 Số 18 - Tháng 6 năm 2017<br />