Chương 4. Chuẩn hiệu suất và xác định tốc độ phát<br />
Sự phân tích phổ trong chương 3 đã cung cấp thông tin về vị trí, diện tích của các đỉnh<br />
và chuẩn năng lượng cho phép tính được năng lượng phôtôn và nhận diện được các nhân<br />
phóng xạ trong mẫu. Bước còn lại trong phân tích là xác định số phôtôn đã phát ra. Việc<br />
này cần sự tính toán hoặc đo hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần ε. Tốc độ phát bức xạ<br />
được tính theo công thức<br />
R=<br />
<br />
Ν<br />
C1C 2 C 3 ...<br />
T<br />
<br />
(4.1)<br />
<br />
Trong đó N là số đếm của đỉnh năng lượng toàn phần, T là thời gian đo và C là hệ số<br />
hiệu chỉnh.<br />
Các thảo luận chung về các phương pháp chuẩn hiệu suất được đề cập trong phần 4.1<br />
và 4.2, trong phần này ta xem xét các khía cạnh đặc trưng của việc xác định hiệu suất<br />
trong các khoảng năng lượng dưới 60 keV, từ 60 keV tới 3 MeV và trên 3 MeV. Các thảo<br />
luận về xác định hiệu suất toàn phần trình bày trong phần 4.3 và cách xác định hiệu suất<br />
theo hình học từ cách đo với với một nguồn điểm được trình bày trong phần 4.4. Hai<br />
phần 4.5 và 4.7 trình bày các hiệu chỉnh hiệu ứng trùng phùng tổng, trùng phùng ngẫu<br />
nhiên và các hiệu ứng suy giảm áp dụng trong đo hiệu suất và xác định tốc độ phát. Phần<br />
4.8 tóm tắt các khía cạnh khác nhau trong xác định tốc độ phát và thảo luận về thuật ngữ<br />
“hiệu suất” trong một số ứng dụng.<br />
4.1 Các phương pháp chuẩn hiệu suất và giá trị của các đại lượng vật lý đo được<br />
Trong phép đo phổ phôtôn, đại lượng vật lý cần đo là tốc độ phát phôtôn ở một năng<br />
lượng xác định và đại lượng đo được là tốc độ đếm tổng hoặc tốc độ đếm đỉnh. Một cách<br />
tương ứng, ta sẽ phân biệt sự khác nhau giữa hiệu suất tổng εt được thảo luận trong phần<br />
4.3 và hiệu suất đỉnh. Trong một số trường hợp, hiệu suất đỉnh thoát đơn hoặc đôi cũng<br />
giữ một vai trò quan trọng trong các phép đo năng lượng cao khi độ cao của đỉnh thoát<br />
vượt quá độ cao của đỉnh năng lượng toàn phần hoặc một đỉnh thoát phủ lên trên một<br />
đỉnh năng lượng toàn phần quan tâm (xem phần 4.2.3.3).<br />
Hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần được xác định bằng công thức:<br />
ε(E) = n(E)/R(E)<br />
(4.2)<br />
Trong đó:<br />
n(E) = tốc độ đếm ứng với đỉnh có năng lượng E và<br />
R(E)= tốc độ phát phôtôn có năng lượng E của nguồn.<br />
Hiệu suất này liên quan đặc biệt tới hình học giữa nguồn - đầu dò và quá trình phân<br />
tích đỉnh đặc trưng. Đôi lúc, hiệu suất được xem xét trong hai góc độ là hiệu suất ứng với<br />
góc khối và hiệu suất thực εin của đầu dò. Hiệu suất thực là tỉ số của các số đếm trong<br />
một đỉnh với số các phôtôn chạm vào bề mặt của đầu dò. Hiệu suất này có ích trong hình<br />
học đo xác định nhưng hầu như không thể ứng dụng chung được vì hiệu suất nội tại phụ<br />
thuộc vào sự phân bố theo hướng tới của các phôtôn.<br />
Để mô tả đặc điểm thể tích vùng hoạt của đầu dò bán dẫn, các nhà sản xuất so sánh<br />
giá trị hiệu suất tại đỉnh năng lượng toàn phần của phôtôn 1332 keV so với đầu dò tinh<br />
thể NaI(Tl) có đường kính 7.62 cm, độ cao 7.62 cm, khoảng cách giữa nguồn và đầu dò<br />
là 25 cm (thường không ghi cụ thể giá trị hiệu suất của đầu dò NaI này). Giá trị hiệu suất<br />
là tỉ số của các hiệu suất nên được gọi là hiệu suất tương đối εr so với NaI.<br />
Do kỹ thuật chế tạo tinh thể nên kích thước thể tích nhạy của hai đầu dò là rất hiếm<br />
khi giống nhau. Vì vậy người sử dụng phải xác định lại hiệu suất của đầu dò trước khi sử<br />
dụng theo các cách dưới đây.<br />
<br />
126<br />
<br />
4.1.1 Tính hiệu suất<br />
Hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần phụ thuộc vào năng lượng phôtôn một cách<br />
phức tạp. Ở năng lượng thấp, hiệu ứng quang điện trong vật liệu đầu dò là chiếm ưu thế.<br />
Hiệu suất này có thể có thể tính hay ước lượng được. Nó là xác suất của các phôtôn tới<br />
được đầu dò và xác suất mà nó bị hấp thụ trong đầu dò. Giả sử phôtôn tới bề mặt đầu dò<br />
một cách bình thường (theo hướng trên trục phía trước), ta có thể tính gần đúng hiệu suất<br />
thực của đầu dò cửa sổ mỏng với năng lượng phôtôn lên đến 30 keV trong đầu dò Si(Li)<br />
hoặc 70 keV trong đầu dò Ge theo công thức:<br />
εin=1-e-μt<br />
(4.3)<br />
Trong đó μ là hệ số suy giảm tuyến tính trong Si hoặc Ge và t là chiều dày tinh thể.<br />
Giả sử rằng phôtôn đi qua đầu dò mà không có tương tác hoặc đóng góp vào đỉnh<br />
năng lượng toàn phần. Các lớp suy giảm ở phía trước đầu dò như cửa sổ, lớp tiếp xúc và<br />
lớp chết có thể tính được từ các hệ số suy giảm và độ dày tương ứng của lớp.<br />
Ở năng lượng cao hơn, các tán xạ compton và tạo cặp đóng góp vào đỉnh năng lượng<br />
toàn phần nên không thể xác định hiệu suất theo phương trình (4.3). Chưa có một hàm<br />
giải tích nào tính được sự thay đổi hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần có năng lượng<br />
trên 100 keV dựa vào các quá trình vật lý trong đầu dò. Một vài biểu thức bán thực<br />
nghiệm đã được đề suất, tuy nhiên không một biểu thức nào có thể loại trừ nhu cầu về số<br />
liệu thực nghiệm.<br />
Một phép tính gần đúng mang lại các kết quả có thể chấp nhận được là phương pháp<br />
Monte Carlo, nó dựa vào sự mô phỏng lịch sử của các phôtôn riêng lẻ. Mỗi phôtôn theo<br />
đường đi của nó từ bên trong nguồn xuyên qua vật liệu nguồn và đi vào đầu dò.<br />
<br />
Hình 4.1. Ví dụ về lịch sử của một phôtôn trong một đầu dò đồng trục, Ph là hấp thụ<br />
quang điện, C là tán xạ compton, Pa là tạo cặp và A là huỷ cặp. Giả thuyết rằng đường đi<br />
của electron là thẳng, bức xạ hãm, tia X và các electron biến hoán trong xem như bỏ qua.<br />
Các tương tác của phôtôn như hấp thụ quang điện, tán xạ compton hay tạo cặp tạo ra<br />
các electron, positron và các phôtôn thứ cấp (bao gồm bức xạ hãm, bức xạ huỳnh quang<br />
và các lượng tử hủy cặp). Các hạt này và phôtôn thứ cấp sau đó đi theo cách của chúng<br />
trong đầu dò. Tại mỗi điểm tương tác, xác xuất có thể có của mỗi loại tương tác và góc<br />
tán xạ được dùng để xác định kết quả tương tác. Bằng việc theo dõi tất cả các sự kiện đến<br />
giai đoạn cuối cùng, ta có thể tính toàn bộ phân bố phổ. Phân bố này sẽ không bao gồm<br />
việc mở rộng thống kê hay các hiệu ứng của bức xạ bị tán xạ đi vào đầu dò từ vật liệu<br />
xung quanh. Quá trình theo dõi sẽ kết thúc sau khi hạt hay bức xạ biến mất khỏi đầu dò.<br />
Hình 4.1. là ví dụ về lịch sử của các sự kiện dẫn tới tạo ra các xung trong đỉnh năng<br />
lượng toàn phần.<br />
Về mặt lý thuyết, không có giới hạn nào về hình học của nguồn, đầu dò hay khoảng<br />
cách. Tuy nhiên để đơn giản, nguồn hoặc đầu dò thường có dạng hình trụ và bố trí đối<br />
xứng để làm đơn giản tính toán. Các thông tin đầu vào cần thiết cho các chương trình<br />
Monte Carlo như vậy bao gồm:<br />
- Kích thước, hình học của nguồn, khoảng cách đầu dò nguồn.<br />
<br />
127<br />
<br />
- Kích thước vỏ bọc đầu dò, kích thước của vùng nhạy và không nhạy của đầu dò.<br />
- Thành phần cơ bản và tỉ trọng của tất cả các vật liệu mà phôtôn đi qua.<br />
- Hệ số suy giảm của phôtôn với các vật liệu này.<br />
- Năng lượng và sự phụ thuộc tiết diện góc của vật liệu đầu dò với các tương tác<br />
phôtôn khác nhau.<br />
- Thông tin về sự di chuyển của positron và electron trong vật liệu đầu dò.<br />
Có rất nhiều nhóm đã phát triển các chương trình và kỹ thuật mô phỏng tính hiệu suất<br />
của đầu dò. Kết quả so với thực nghiệm thường sai lệch trong khoảng ±5% đến ±10%.<br />
Do sai số của thực nghiệm trong các phép đo này là nhỏ vì vậy sự khác biệt từ 5% đến<br />
10% được cho là sai số của quá trình tính toán. Mức độ sai số này là hợp lí và có ba<br />
nguyên nhân chính sau:<br />
Thứ nhất là do hạn chế về thống kê. Chương trình mô phỏng theo quá trình vật lý có<br />
thật về sự mất năng lượng trong tinh thể mà không làm quá đơn giản các phép tính gần<br />
đúng sẽ cần thời gian đáng kể của máy tính cho mỗi điểm năng lượng nếu muốn kết quả<br />
có một sai số thống kê thấp. Do đó đây sẽ là vấn đề trong tính toán với các tinh thể lớn và<br />
năng lượng cao. Để có sai số thống kê thấp, chẳng hạn 2% cho đầu dò có kích thước<br />
trung bình tại năng lượng 3 MeV, các thủ tục lấy mẫu cần phải tích luỹ được 2500 sự<br />
kiện hấp thụ năng lượng hoàn toàn. Trong khi đó, chỉ có một vài phần trăm của tất cả các<br />
sự kiện dẫn đến hấp thụ năng lượng hoàn toàn do đó cần theo dõi lịch sử của khoảng 105<br />
phôtôn phát vào các góc khối của đầu dò. Do đó để tiết kiệm thời gian, người tính thường<br />
bằng lòng với sai số vài phần trăm của kết quả.<br />
Thứ hai, độ chính xác về hình dạng, thể tích nhạy của tinh thể, đặc biệt là với các đầu<br />
dò đồng trục thường có vài vùng không nhạy. Các nhà sản xuất đầu dò cung cấp thông tin<br />
về kích thước của đầu dò và các vùng không nhạy, nhưng các kích thước này thường<br />
không đủ chính xác.<br />
Thứ ba, hạn chế về vật lý, đó là xác suất tương tác của phôtôn và electron và sai lệch<br />
trong phân bố góc. Độ tin cậy của số liệu thư viện, các hệ số suy giảm cường độ chùm<br />
phôtôn có thể có sai số từ 2% đến 5% phụ thuộc vào năng lượng. Do đó gây ra sai số hệ<br />
thống trong phân bố không gian của các chuyển giao năng lượng. Với các quang electron,<br />
tiết diện tán xạ compton và tạo cặp, sai số dường như lớn hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, độ<br />
tin cậy cũng bao gồm trong các tính toán về các dịch chuyển electron/positron. Vì vậy sẽ<br />
rất khó để định lượng được các sai số này đóng góp bao nhiêu vào độ tin cậy của hiệu<br />
suất đỉnh năng lượng toàn phần.<br />
Một vấn đề khác nữa nảy sinh khi so sánh hiệu suất thực nghiệm và hiệu suất tính<br />
toán là số đếm được quy định thuộc về đỉnh năng lượng toàn phần không cần phải tương<br />
ứng với số sự kiện hấp thụ năng lượng toàn phần được tính bằng chương trình mô phỏng.<br />
Đặc biệt đuôi năng lượng thấp của một đỉnh đo được có thể chỉ được tính phần nào trong<br />
diện tích đỉnh thực nghiệm. Vì thế, khi so sánh kết quả tính mô phỏng và thực nghiệm<br />
cần phải lưu ý đến sự khác biệt này.<br />
Các hạn chế này làm giới hạn kết quả tính chính xác hiệu suất tuyệt đối. Tuy nhiên, ta<br />
có thể dùng các tính toán mô phỏng để tính chính xác hiệu suất tương đối của đầu dò. Vì<br />
thế, tính toán mô phỏng Monte Carlo có thể cung cấp chính xác hình dạng của đường<br />
cong hiệu suất và từ đó có thể ngoại suy ra đường hiệu suất thựuc nghiệm khi có một số<br />
điểm chuẩn.<br />
4.1.2 Các phép đo hiệu suất<br />
Xác định hiệu suất đầu dò bằng thực nghiệm với các nguồn chuẩn thường dễ và chính<br />
xác hơn các tính toán. Nếu ta có một nguồn chuẩn của các nhân phóng xạ được nghiên<br />
<br />
128<br />
<br />
cứu, ta sẽ không cần xác định sự phụ thuộc của năng lượng vào hiệu suất. Ta có thể thay<br />
thế R(E) trong phương trình (4.2) bằng hoạt độ A và biểu diễn tỉ số n(E)/A như hiệu suất<br />
ghi của nhân phóng xạ liên quan cho từng năng lượng phôtôn. Tuy nhiên, trong hầu hết<br />
các phép đo, một nguồn chuẩn của các nhân phóng xạ như vậy là không có sẵn, nên phải<br />
nội suy từ các giá trị hiệu suất thu được ở những năng lượng khác. Một hệ phổ kế thường<br />
được dùng cho nhiều mục đích khác nhau, vì vậy thiết lập một đường cong chuẩn hiệu<br />
suất trong các vùng năng lượng phù hợp với đầu dò là cần thiết.<br />
Các thủ tục chuẩn hiệu suất phụ thuộc vào mức độ chính xác yêu cầu. Nếu độ chính<br />
xác cần sai số khoảng 5%, có thể chuẩn nhanh bằng một hoặc hai nguồn đa năng lượng<br />
và một thủ tục nội suy đơn giản là có thể mang lại độ chính xác thoả đáng. Nếu độ chính<br />
xác cần cao hơn, sai số từ 1% đến 2%, các thủ tục chuẩn cần tinh tế và phức tạp hơn. Các<br />
phép chuẩn tốt có thể đạt sai số khoảng 0.5% trong vùng năng lượng từ 120 đến 1500<br />
keV và 1% trong các vùng từ 5 đến 120 và 1500 đến 3000 keV.<br />
Ta có thể dùng mọi nguồn phôtôn có tốc độ phát đã biết để chuẩn hiệu suất. Tốc độ<br />
phát R(E) của tia gamma ở năng lượng E có thể biết được từ một số phép đo trực tiếp tốc<br />
độ, hoặc từ phép đo hoạt độ nguồn A, xác suất phát tia gamma đã biết p(E), khi đó<br />
R(E)=A.p(E)<br />
(4.4)<br />
Cần phân biệt sự khác nhau giữa hai loại nguồn chuẩn. Loại thứ nhất là “các nguồn<br />
chuẩn sơ cấp”, là các nguồn mà hoạt độ phóng xạ A đã được đo bằng các phương pháp<br />
tuyệt đối, như phương pháp trùng phùng 4πβ-γ và p(E) đã thu được từ nghiên cứu sơ đồ<br />
phân rã, tính toán hoặc các phép đo với các kiểu đầu dò khác mà hiệu suất đã được tính từ<br />
các nguyên lý cơ bản không phải từ các phương pháp chuẩn với nguồn. Hầu hết các nhân<br />
phóng xạ sử dụng chế tạo các nguồn chuẩn nguyên thuỷ có sơ đồ phân rã đơn giản và có<br />
một dịch chuyển phôtôn với xác xuất gần 100%.<br />
Loại thứ hai là “các nguồn chuẩn thứ cấp”, gồm tất cả các nguồn mà p(E) hoặc R(E)<br />
đã thu được từ các phép đo với một đầu dò đã được chuẩn bằng các nguồn chuẩn sơ cấp.<br />
Như vậy một quá trình chuẩn bằng các nguồn thứ cấp, có thể không chính xác bằng<br />
chuẩn với các nguồn sơ cấp, bởi vì tất cả sai số của các nguồn sơ cấp “truyền” vào việc<br />
đánh giá tốc độ phát của các nguồn thứ cấp.<br />
Hầu hết những người làm việc trong các lĩnh vực ứng dụng sẽ không phải bận tâm là<br />
sử dụng nguồn chuẩn sơ cấp hay thứ cấp. Điều quan trọng là độ tin cậy của tốc độ phát.<br />
Tuy nhiên, khi dùng cho mục đích chuẩn hiệu suất với độ chính xác cao hay khi các phép<br />
đo tương ứng với các đầu dò bán dẫn khác không thực hiện được thì việc sử dụng các<br />
nguồn chuẩn sơ cấp là cần thiết.<br />
Để làm giảm đến mức tối thiểu các đòi hỏi liên quan đến đến quá trình chuẩn, các nhà<br />
phổ học thường sử dụng các nguồn chuẩn thứ cấp phát nhiều tia gamma như 152Eu, 133Ba,<br />
110<br />
Agm, 226Ra và 56Co. Nhược điểm của các nguồn chuẩn này là xuất hiện nền phông tán<br />
xạ compton liên tục của các tia gamma năng lượng cao, các đỉnh năng lượng thấp bị<br />
chồng lên trên một phông tương đối cao do đó kết quả diện tích đỉnh có thể bị sai lệch<br />
đáng kể. Hiệu ứng này là một vấn đề rắc rối nếu một đỉnh năng lượng thấp chồng lên<br />
mép compton của một tia gamma năng lượng cao. Do có nhiều năng lượng nên giá trị xác<br />
suất phát phôtôn được sử dụng trong quá trình chuẩn cũng bé hơn. Sự có mặt của các<br />
dịch chuyển nối tầng là đặc trưng của các quá trình phát gamma đa năng lượng sẽ dẫn<br />
đến sự cần thiết phải hiệu chỉnh hiệu ứng trùng phùng tổng.<br />
Ngoài các nguồn một nhân phát đa năng lượng, các nguồn đa nhân phóng xạ cũng<br />
được cung cấp. Các nhân phóng xạ này được lựa chọn để chúng có năng lượng phân bố<br />
<br />
129<br />
<br />
đều trên một dải năng lượng rộng, thời gian bán rã dài một cách hợp lý nên tránh được<br />
các dịch chuyển nối tầng và các đỉnh tia gamma không chồng chập lên nhau.<br />
Các phép đo chuẩn hiệu suất cung cấp một tập hợp các giá trị về hiệu suất tại những<br />
năng lượng nhất định. Từ tập hợp các giá trị này, sử dụng phương pháp khớp bình<br />
phương tốis thiểu sẽ thu được hàm chuẩn hiệu suất. Các hàm giải tích được sử dụng<br />
thường là các đa thức có dạng log(E/E0) hoặc 1/E, dạng hàm mũ, hàm luỹ thừa, hàm tổ<br />
hợp và một số dạng đặc biệt khác. Phương pháp tiếp cận toán học để thu được một hàm<br />
chuẩn hiệu suất trọn vẹn sẽ được thảo luận trong các phần sau.<br />
4.2. Chuẩn hiệu suất theo năng lượng<br />
Hầu hết các ứng dụng đo phôtôn thông thường có năng lượng trong khoảng từ 60 keV<br />
đến 3 MeV. Quá trình chuẩn hiệu suất mô tả trong phần 4.2.1 có thể sử dụng được cho<br />
các năng lượng thấp hơn và cao hơn nhưng có một số đặc điểm cần lưu ý trong các vùng<br />
từ 1-60 keV và từ 3-15 MeV.<br />
4.2.1. Hiệu suất trong vùng từ 60 keV đến 3 MeV<br />
4.2.1.1 Nguồn chuẩn<br />
Bảng 4.1 liệt kê hầu hết các nhân phóng xạ dùng trong các nguồn chuẩn sơ cấp. Đây<br />
là những nguồn chuẩn được cung cấp thương mại và có thời gian sống lớn hơn 30 ngày.<br />
Các tia gamma trong phân rã của 139Ce, 203Hg, 54Mn, 60Co và 22Na có xác suất lớn hơn<br />
99.8% hoặc 100% khi hạt nhân phân rã về trạng thái cơ bản. Các hạt nhân này có sơ đồ<br />
phân rã đơn giản nên rất thích hợp cho chuẩn hiệu suất.<br />
Đồng vị 22Na phân rã pôsitron dẫn tới bức xạ huỷ ở 511 keV có xác suất phát cao (p=<br />
99,93%) và được nhận biết một cách chính xác. Tuy nhiên, nó không được liệt kê trong<br />
bảng 4.1 và không được giới thiệu cho các phép chuẩn hiệu suất chính xác. Tia 511 keV<br />
phát ra từ các điểm huỷ positron, các điểm huỷ có thể xảy ra bên ngoài thể tích của nguồn<br />
22<br />
Na vì thế hình học nguồn-đầu dò sẽ khác với sự huỷ cặp và bức xạ phôtôn 1275 keV<br />
của nguồn. Hơn nữa, đỉnh 511 keV bị mở rộng hơn một cách đáng kể so với một đỉnh tạo<br />
ra từ các tia gamma của cùng năng lượng. Việc này sẽ ảnh hưởng đến kết quả phân tích<br />
đỉnh 511 keV.<br />
Bảng 4.1. Các nhân phóng xạ dùng làm nguồn chuẩn (số liệu trong bảng 6.6).<br />
Nhân phóng xạ<br />
Năng lượng (keV) Xác suất phát (%)<br />
Chu kì bán rã<br />
57<br />
Co<br />
122.0614(3)<br />
85.68(13)<br />
271.79(9)<br />
139<br />
Ce<br />
165.857(6)<br />
79.9(3)<br />
137.640(23)d<br />
203<br />
Hg<br />
279.1967(12)<br />
81.56(8)<br />
46.595(13)d<br />
113<br />
Sn<br />
391.702(4)<br />
64.89(17)<br />
115.09(4)d<br />
85<br />
Sr<br />
514.0076(22)<br />
98.0(10)<br />
64.849(4)d<br />
134<br />
Cs<br />
604.69(2)<br />
97.63(3)<br />
754.28(22)d<br />
137<br />
Cs<br />
661.660(3)<br />
85.20(20)<br />
30.25(11)y<br />
54<br />
Mn<br />
834.843(6)<br />
99.976(2)<br />
312.3(4)d<br />
60<br />
Co<br />
1173.238(4)<br />
99.89(2)<br />
5.2719(14)y<br />
1332.502(5)<br />
99.983(1)<br />
22<br />
Na<br />
1274.542(7)<br />
99.93(2)<br />
2.603(2)y<br />
88<br />
Y<br />
1836.063(13)<br />
99.36(5)<br />
106.630(25)d<br />
Ngoài các nhân trong bảng 4.1 có thể bổ sung thêm các nhân khác như 207Bi(570<br />
keV), 110Agm(695 keV), 95Nb(766 keV), 58Co(811 keV), 46Sc(889 và 1121 keV) và các<br />
nhân có thời gian sống ngắn hơn như 99Tcm(141 keV), 111In(171 và 245 keV), 131I(364<br />
keV), 198Au(412 keV), 140La(1596 keV và 24Na(1369 và 2754 keV). Số liệu phân rã của<br />
các nhân này được trình bày trong bảng 6.6.<br />
<br />
130<br />
<br />