YOMEDIA
Đấu tranh phục hồi lực lượng cách mạng sau cuộc khủng bố trắng của Pháp (1932-1935).
Chia sẻ: Linh Ha
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:8
139
lượt xem
7
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Chính sách mới của Pháp và phong trào cách mạng Việt Nam Hy vọng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam, thực dân Pháp vẫn tăng cường chính sách khủng bố. Hàng vạn chiến sĩ và đồng bào yêu nước bị bắt.
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Đấu tranh phục hồi lực lượng cách mạng sau cuộc khủng bố trắng của Pháp (1932-1935).
- Đấu tranh phục hồi lực lượng cách mạng sau cuộc
khủng bố trắng của Pháp (1932-1935).
1. Chính sách mới của Pháp và phong trào cách
mạng Việt Nam Hy vọng dập tắt phong trào cách
mạng Việt Nam, thực dân Pháp vẫn tăng cường
chính sách khủng bố. Hàng vạn chiến sĩ và đồng
bào yêu nước bị bắt.
1. Chính sách mới của Pháp và phong trào cách
mạng Việt Nam
Hy vọng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam,
thực dân Pháp vẫn tăng cường chính sách khủng bố.
Hàng vạn chiến sĩ và đồng bào yêu nước bị bắt. Các
nhà tù chật ních chính trị phạm. Hàng trăm ng¬ời bị
kết án tử hình. Hai năm 1930-1931, ở Bắc Kỳ, thực
- dân Pháp mở 21 phiên toà đại hình, xử 1.094 vụ,
trong đó có 164 án tử hình, 114 án khổ sai chung
thân, 420 án đầy biệt xứ.
Mặt khác, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn lừa
bịp, mị dân nhằm lừa gạt quần chúng. Tháng 10-1930
Pôn Raynô, Bộ trưởng Thuộc địa Pháp sang Đông
Dương để điều tra tình hình và định ra chính sách đối
phó cho thích hợp. Chính quyền thực dân thi hành
một số biện pháp cải lương, tổ chức lại tr¬ường Cao
đẳng Đông Dương, trường Luật, đưa một số địa chủ,
tư sản, trí thức cao cấp vào một số chức vụ "quan
trọng", cho người "bản xứ" được nhập quốc tịch Pháp
một cách rộng rãi hơn... Nhân cơ hội này những lực
lượng thân Pháp bắt đầu trỗi dậy.
Thực dân Pháp cũng chú ý sử dụng các tổ chức, hình
thức văn hóa tư tưởng vào việc chống lại ảnh hưởng
của trào lưu cách mạng vô sản. Chúng xuyên tạc chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản, chống Liên
- Xô . . . , lợi dụng một số tổ chức tôn giáo để chống
phá cách mạng. Những sòng bạc, tiệm nhảy, tiệm hút,
nhà chứa... được mở để lôi kéo thanh niên vào cuộc
sống đồi truỵ.
Giữa lúc cơ sở cách mạng và quần chúng bị khủng bố
trắng, nhiều cán bộ lãnh đạo bị giặc bắt, thì các chiến
sĩ cộng sản hoạt động ở Trung Quốc và Thái Lan lần
lượt tìm cách trở về nước hoạt động. Tại những tỉnh
biên giới Việt Nam - Trung Quốc như Cao Bằng,
Lạng Sơn, hay biên giới Lào - Thái như Thà Khét,
Xavanakhẹt, các cơ sở cách mạng dần dần được phục
hồi.
Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê
Hồng Phong đã cùng một số đảng viên cộng sản hoạt
động ở trong nước và nước ngoài tổ chức ra Ban lãnh
đạo Trung tướng Đảng. Một Chương trình hành động
được đề ra vào tháng 6 - 1932, nội dung chủ yếu là
đòi các quyền dân chủ cho nhân dân lao động, đòi trả
- lại tự do cho tất cả tù chính trị, bỏ các thứ thuế bất
công, vô lý, xoá độc quyền muối, rượu... 'Chương
trình hành động còn nêu lên sự cấp thiết phải củng
cố, phát triển các tổ chức của Đảng cũng như các tổ
chức quần chúng, đề ra những yêu cầu cụ thể cho
từng giai cấp, tầng lớp nhân dân, như công nhân,
nông dân, binh lính, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu
chủ, dân nghèo thành thị, thanh niên, phụ nữ... Nhiều
đoàn thể sơ khai, như hội cày, hội gặt, đá bóng, đọc
sách báo, hội hiếu hỷ... đã được lập ra. Phong trào
đấu tranh của quần chúng dần dần nhen nhóm trở lại.
Tiêu biểu cho phong trào công - nông ở giai đoạn
phục hồi 1932-1935 phải kể đến các cuộc bãi công
liên tiếp của công nhân làm đường xe lửa Quảng
Nam, Quảng Ngãi (từ đầu năm 1932 đến năm 1933),
công nhân Nhà máy in ácđanh, Textôlanh, Opêniông
Ở Sài Gòn, công nhân xe kéo Ở Gia Định, công nhân
đồn điền Phú Quốc, Dầu Tiếng... Phong trào nông
- dân cũng nổi dậy ở nhiều nơi, như¬ Gia Định. Chợ
Lớn, Chợ Mới (Long Xuyên), Càng Long (Trà
Vinh):.. chống các thứ thuế.
Bên cạnh các cuộc đấu tranh của công nhân và nông
dân, còn có các cuộc bãi thị ở Hải Phòng, Hà Nội,
Hải Dư¬ơng, Sài Gòn... bãi khoá của học sinh Sài
Gòn, biểu tình của binh lính người Việt trong quân
đội Pháp ở Vũng Tàu và sân bay Bạch Mai (Hà Nội).
Cuối năm 1933, các tổ chức của Đảng dần dần được
xây dựng lại và củng cố. Đầu năm 1934, với sự giúp
đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban lãnh dạo hải ngoại của
Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do Lê
Hồng Phong đứng đầu. Trên thực tế, Ban lãnh đạo
hải ngoại đã làm chức năng của Ban chấp hành Trung
ương lâm thời của Đảng.
2. Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông
Dương (tháng 3-1935)
- Từ ngày 27 đến 31-3-1935, Ban lãnh đạo hải ngoại
của Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có
13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên thuộc các
đảng bộ ở trong nước và các tổ chức của Đảng đang
hoạt động ở nước ngoài.
Đại hội nhận định: mặc dầu các tổ chức của Đảng đã
được khôi phục nhưng lực lượng của Đảng vẫn chưa
được phát triển; ở các khu công nghiệp, công nhân
gia nhập Đảng còn ít, hệ thống tổ chức Đảng ch¬a
thật thống nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ Đảng chưa
đ¬ược chặt chẽ.
Đại hội còn nêu rõ ba nhiệm vụ chủ yếu của toàn
Đảng trong thời gian trước mắt là củng cố và phát
triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi và chống
chiến tranh đế quốc.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị và Điều lệ
Đảng, thông qua các nghị quyết về vận động công
- nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính và các
nghị quyết về công tác liên minh phản đế, công tác
trong các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm
13 người trong đó có Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập,
Phùng Chí Kiên, Hoàng Đình Giong, v.v.. Ban Chấp
hành Trung ương Đảng nhất trí cử Nguyễn Ái Quốc
là đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Quốc
tế Cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng là một sự kiện
lịch sử quan trọng, đã khôi phục được hệ thống tổ
chức của Đảng từ trung ương đến địa phương, ở
trong nước và ngoài nước. Đó là sự chuẩn bị cần thiết
để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
Tuy nhiên, lúc đó tình hình thế giới và trong nước đã
có nhiều thay đổi đòi hỏi Đảng phải kịp thời đề ra
phương hướng hoạt động thích hợp. Nhưng Đại hội
lại chưa tổng kết được kinh nghiệm lãnh đạo cách
- mạng trong năm năm qua, kể từ khi Đảng thành lập,
nhất là trong thời kỳ đấu tranh khôi phục và phát
triển phong trào cách mạng.
Thiếu sót của Đại hội là thiếu nhạy bén với tình hình
mới, không thấy rõ nguy cơ chủ nghĩa phát xít trên
thế giới và khả năng mới để đấu tranh chống phát xít,
chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, cơm áo,
hoà bình. Thiếu sót này đã được bổ khuyết khi có
nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản
và nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tháng 7-1936.
Nguồn:Lương Ninh 2000, Chương XV – Cuộc vận
động giành độc lập, tự do (Việt Nam 1930-1945),
Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc
gia, Tr.470-473.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...