intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐỀ ÁN: " Văn hóa trong Kinh doanh"

Chia sẻ: Truong Doan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:33

681
lượt xem
341
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh, làm thế nào để sử dụng mối quan hệ đó, đưa văn hoá vào kinh doanh, sử dụng những đặc trưng của nền văn hoá vào kinh doanh để đạt tốc độ tăng trưởng cao và hiệu quả là những vấn đề đang đặt ra nóng hổi. Những vấn đề đó đã thoát ra khỏi lĩnh vực xã hội đơn thuần mà còn trở thành mối quan tâm của chính khách, các nhà quản lý và các nhà kinh doanh....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐỀ ÁN: " Văn hóa trong Kinh doanh"

  1. TRƯỜNG......................................... KHOA............................................. ĐỀ ÁN Văn hóa trong Kinh doanh
  2. PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước Đảng ta luôn luôn coi trọng yếu tố văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Văn hoá vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và là mục tiêu của chúng ta. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng của nhà nước. Văn hoá ngày càng đóng góp vai trò điều tiết tinh thần, góp phần đắc lực vào việc khai thác những nhân tố tích cực hạn chế nhân tố tiêu cực của mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong xã hội, văn hoá giữ vai trò góp phần hình thành một con đường phát triển phù hợp với đặc điểm của dân tộc và xu hướng phát triển của thế giới. Gần đây các học giả quốc tế nói nhiều, nghiên cứu nhiều về các yếu tố thành công của các nước có nền công nghiệp mới (Wics) trong phát triển trong khu vực Đông Á - Đông Nam Á (là những con rồng – con hổ trong phát triển kinh tế). Sự thành công và năng động đó được xác nhận là sự bắt nguồn từ các yếu tố văn hoá truyền thống, trong đó tính cộng đồng, tính ý thức dân tộc thể hiện rất cao trong quan hệ kinh doanh: sự ham học hỏi, sáng tạo, tính nghiêm túc, kỷ luật cao trong công việc đã được nhấn mạnh và được coi là những nhân tố thúc đẩy quá trình tăng kinh tế bền vững, cân đối của các nước này. Và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam với rất nhiều các quan hệ kinh tế đan xen nhau bên cạnh mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều mặt tiêu cực làm nảy sinh các hành vi kinh doanh thiếu đạo đức – phi văn hoá, chayjt heo lợi nhuận ảnh hưởng đến văn hoá kinh doanh, đến các giá trị kinh doanh nền tảng của nền kinh tế thị trường – làm cho các giá trị đó bị đảo lộn, đe doạ sự bất ổn cho hoạt động kinh tế, chính vì tính cấp thiết của sự xuống cấp thang giá trị đó. Ngoài mục đích đưa ra những nhận thức chung về văn hoá kinh doanh. Còn lý do thứ hai là em muốn nhấn mạnh hơn xây dựng 1
  3. văn hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đó là lý do vì sao em lựa chọn đề tài: Tuy nhiên, văn hoá kinh doanh là những phạm trù rộng lớn có nhiều mối quan hệ tác động qua lại hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải được tiếp tục đi sâu nghiên cứu, thảo luận trong thời gian tới. Cho nên đề án có thể có nhiều hạn chế nhất định. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng quý báu của các bạn, cùng các thầy cô có quan tâm. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Nguyễn Văn Diễn 2
  4. PHẦN II: NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VĂN HOÁ TRONG KINH DOANH I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ TRONG KINH DOANH Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh, làm thế nào để sử dụng mối quan hệ đó, đưa văn hoá vào kinh doanh, sử dụng những đặc trưng của nền văn hoá vào kinh doanh để đạt tốc độ tăng trưởng cao và hiệu quả là những vấn đề đang đặt ra nóng hổi. Những vấn đề đó đã thoát ra khỏi lĩnh vực xã hội đơn thuần mà còn trở thành mối quan tâm của chính khách, các nhà quản lý và các nhà kinh doanh. 1. Khái niệm văn hoá. Cho tới nay, đã có khoảng 400 – 500 định nghĩa về văn hoá. Một con số rất lớn và không xác định như vậy nói lên sự phong phú của khái niệm văn hoá. Từ thế kỷ XIX (năm 1871) Edward Burrwett Tylor đã đưa ra một định nghĩa cổ điển, theo đó văn hoá bao gồm mọi năng lực và thói quen, tập quán của con người với tư cách là thành viên của xã hội. Với định nghĩa đó, văn hoá bao gồm ngôn ngữ, tư tưởng, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, nghi thức, qui tắc, thể chế, chuẩn mực, công cụ, kỹ thuật, công trình nghệ thuật (hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc) và những yếu tố khác có liên quan đến con người. Theo triết học Mác – Lênin: văn hoá là tổng hoà những giá trị vật chất và tinh thần cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của loài người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hình thức khởi đầu và nguồn gốc đầu tiên làm hình thành và phát triển văn hoá là lao động của con người, phương thức hiện lao động và kết quả của lao động và kết quả lao động. Còn theo giáo trình quản lý xã hội khái niệm văn hoá: là một thiết chế xã hội cơ bản, là một phức thể, tổng thể các đặc trưng – diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm...khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền quốc gia, xã hội....văn hoá có thể là hữu thể, có thể là vô hình. 3
  5. Như vậy, dù theo định nghĩa, mọi định nghĩa văn hoá đều chứa một nét chung là “con người” đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn hoá với con người. Văn hoá và con người là hai khái niệm không tách rời nhau. Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hoá. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, con người luôn sáng tạo không ngừng để làm nên giá trị văn hoá. Một trong số những giá trị văn hoá được con người sáng tạo ra ấy chính là bản thân con người – con người có văn hoá. Con người sáng tạo ra văn hoá, đồng thời chính con người cũng là sản phẩm của văn hoá. Trong sơ đồ 1 chỉ rõ: văn hoá là toàn bộ của cải vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử để vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái tốt, cái hợp lý và sự phát triển bền vững an toàn cho cộng đồng, xã hội và nhân loại. Văn hoá (cộng đồng, gia đình, xóm, làng, vùng, miền, quốc gia, nhân loại Văn hoá hữu thể Văn hoá vô (vật chất) hình(tinh thần) Di Các Hệ Hệ Hệ Đạo Lối Lối Tôn Giá ... tích côn thốn thốn thốn đức sốn sốn giáo tín o lịch g g g g g g ngưỡn dục sử trình giao côn tran g kiến thôn g sở g trúc g thiết bị cho sản ất Sự phát triển bền vững, an toàn. + Cái đúng + cái đẹp + Cái tốt + cái hợp lý Sơ đồ 1: Cấu trúc văn hoá 4
  6. - Văn hoá vật chất: là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được thể hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra kể từ các tư liệu sản xuất cho đến các tư liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn khác nhau của xã hội thì các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các giai đoạn phát triển khác nhau của văn hoá. - Văn hoá tinh thần: là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần, bao gồm khoa học ở mức độ áp dụng của thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh hoạt, trình độ học vấn, tình trạng, giáo dục y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức trong hành vi của các thành viên trong xã hội, trình độ phát triển nhu cầu con người...văn hoá còn bao gồm những phong tục tập quán, những phương thức giao tiếp ngôn ngữ. Ranh giới giữa văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần chỉ có tính chất tương đối. - Văn hoá mang tính giai cấp, nó phục vụ cho giai cấp nhất định. Tính giai cấp đó biểu hiện ở chỗ văn hoá do ai sáng tạo ra, phản ánh và phục vụ cho lợi ích của giai cấp nào, những cơ sở vật chất của văn hoá (các phương tiện thông tin, tuyên truyền, các rạp hat....) do ai làm chủ. Tính giai cấp của văn hoá còn thể hiện ở chức năng của văn hoá. Nó giáo dục, xây dựng con người theo một lý tưởng – chính trị – xã hội, đạo đức, thẩm mỹ của một giai cấp nhất định. - Văn hoá mang tính dân tộc, mang tính cộng đồng, tổ chức và được kế thừa qua nhiều thế hệ. Mỗi dân tộc có lịch sử phát triển riêng, có điều kiện tự nhiên, các sinh hoạt riêng, có phong tục tập quán, những thói quen tâm lý riêng. Điều đó qui định đặc điểm riêng của văn hoá dân tộc. 2. Khái niệm kinh doanh. Giải thích nghĩa của từ “kinh doanh” trong một số từ điểm do các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam biên soạn cơ chế là giống nhau. Theo đại từ điển Tiếng Việt, thì kinh doanh có nghĩa là “tổ chức buôn bán để thu lỗ lãi”. 5
  7. Có từ điển từ và ngữ Việt Nam thì kinh doanh là “tổ chức hoạt động về mặt kinh tế để sinh lời”. Lãi hay lỗ ở đây được hiểu là: khi người ta bỏ vốn để buôn bán hoạt động kinh tế thì giá trị thu về phải cao hơn số vốn ban đầu cùng với việc bảo đảm thực hiện các trách nhiệm khác theo pháp luật. Kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn đề là ở chỗ kinh doanh như thế nào, nó đem lại lợi ích và giá trị cho ai? đó chính là vấn đề của văn hoá trong kinh doanh. Như vậy, kinh doanh có thể hiểu như luật doanh nghiệp, xem đó là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. 3. Khái niệm văn hoá trong kinh doanh. Từ hai khái niệm văn hoá và kinh doanh ta đi đến khái niệm văn hoá kinh doanh là gì? Văn hoá trong kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ. Việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh sẽ đem lạij cho kinh doanh và chủ thể kinh doanh một sử mạng cao cả. Đó là sứ mệnh phát triển con người, đem lại sự giàu có, hạnh phúc cho mọi người, sự phồn vinh và vững mạnh của đất nước, sự vẻ vang của dân tộc. Nhận thức được sứ mệnh ấy con người sẽ hay say lao động, không ngại khó khăn gian khổ, thậm chí hy sinh cả lợi ích riêng của mình đóng góp vào lợi ích chung vì xã hội. Do đó, văn hoá trong kinh doanh là bộ phận cấu thành của nền văn hoá dân tộc, phản ánh trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh. Bản chất của văn hoá trong kinh doanh đó là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng cái tốt, 6
  8. cái đẹp. Cái lợi đó tuân theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Ngược lại cái đúng, cái tốt, cái đẹp là cơ sở bền vững cho hoạt động sinh ra cái lợi. Văn hoá kinh doanh cuả các nhà kinh doanh, của doanh nghiệp được nhận biết qua hai phương diện chính. Một là: các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, triết lý sống, tâm lý) được vận dụng vào quá trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hoá về dịch vụ phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hoá. Đó chính là kiểu kinh doanh có văn hoá, kiểu kinh doanh phù hợp với nét đẹp của văn hoá dân tộc. Hai là: cái giá trị, sản phẩm văn hoá như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng, nghệ thuật kinhdoanh...mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động và làm nghề kinh doanh của họ, có tác dụng cổ vũ biểu dương đối với kiểu kinh doanh có văn hoá mà họ đang theo đuổi. Đó chính là lối sống có văn hoá của các chủ thể kinh doanh. Đề cao cái lợi của hoạt động kinh doanh gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái đẹp, nhằm thoả mãn có chất lượng nhu cầu và thị hiếu của đời sống xã hội, mỗi xã hội cần định hình ra thành các truyền thống văn hoá kinh doanh trong nền văn hoá chung của dân tộc. II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ KINH TẾ. Văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực có tác động qua lại với nhau. Không thể có văn hoá suy đồi mà kinh tế phát triển. Văn hoá bao giờ cũng là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, mặt khác, kinh tế phát triển là mảnh đất thuận lợi cho sự phát triển văn hoá của cộng đồng. Lịch sử thế giới cũng như nước Việt Nam đã chứng minh nguyên lý đó. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra, trong quá trình phát triển của nhân loại, một số nước lãnh thổ đã từng có nền văn hoá cao, được xem là cái nôi của nền văn minh nhân loại, thì ngày nay các nước đó không phải là những nước có nền kinh tế phát triển, thậm chí chỉ là những nước đang phát triển. Ví dụ, thời thượng cổ, lưu vực sông Vệ và sông Hoàng Hà của Trung Quốc đã hình thành đời sống đô thị khoảng 3000 7
  9. năm trước công nguyên, khu vực Lưỡng Hà có một nền văn hoá liên tục hơn 3000 năm trước công nguyên, lưu vực sông Nil, với đất đai phì nhiêu, là nơi định cư của người Ai Cập là 3000 năm trước công nguyên khi hạ Ai Cập thống nhất với thượng Ai Cập, thuộc triều đại các vua Pharaon với việc xây dựng các Kim Tự Tháp. Như vậy, từ việc khu xét sự phát triển của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, người ta tìm thấy những dấu ấn và đặc trưng văn hoá của các quốc gia đó trong phát triển kinh tế. Thực tế đó đã bắt buộc người ta không chỉ thừa nhận sự tác động của các yếu tố văn hoá vào quá trình phát triển triển kinh tế, mà còn đi sâu xem xét vai trò của văn hoá cũng như tầm quan trọng của việc đưa các yếu tố văn hoá vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế có thể hiểu. - Văn hoá và kinh tế có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau. Kinh tế phải đảm bảo cho nhu cầu sống tối thiểu của con người, sau đó mới đảm bảo điều kiện cho văn hoá phát triển kinh tế không thể phát triển nếu không có một nền tảng văn hoá, đồng thời văn hoá không chỉ phản ánh kinh tế mà còn là nhân tố tác động đến phát triển kinh tế. Với mối quan hệ đó, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động hiệu quả, có tốc độ cao chừng nào quốc gia đó đạt được sự phát triển kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hoá. - Văn hoá mang tính đặc thù của từng quốc gia, từng khu vực được coi là những di sản quý báu bán tích lũy được qua nhiều thế hệ, mang đậm bản sắc dân tộc. Nhưng đồng thời, với quá trình phát triển, kế thừa và giữa gìn bản sắc riêng, nó còn tiếp thu những tinh hoa văn hoá của quốc gia, dân tộc khác, làm cho văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc vừa có tính hiện đại phù hợp với sự phát triển kinh tế trong điều kiện cách khoa học – kỹ thuật, làm cho vai trò của văn hoá trong hoạt động kinh tế càng được nâng cao và thiết thực khơi dậy mọi 8
  10. tiềm năng sáng tạo của con người, đem lại sự phát triển cao với tốc độ cao và hài hoà trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. 9
  11. III. VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT – KINH DOANH. Theo luật doanh nghiệp, Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhàm mục đích sinh lợi (Điều 3, Chương I, Luật doanh nghiệp). Văn hoá, với tư cách là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, đương nhiên nó trở thành di sản, thành tiền đề cho bất kỳ quá trình phát triển và tiếp theo. Những giá trị vật chất đã sáng tạo ra đương nhiên là cơ sở không thể thiếu được của sự phát triển ở các giai đoạn kế tiếp. Những giá trị văn hoá tinh thần phục vụ cho một nhu cầu không thể thiếu của con người, nó đảm bảo chất lượng của yếu tố con người – yếu tố cơ bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của con người trong sản xuất kinh doanh. 1. Văn hoá với tư cách là tri thức, kiến thức tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển. Sản xuất kinh doanh chính là quá trình con người sử dụng các tri thức, kiến thức tích luỹ được để tạo ra các giá trị vật chất mới. Các tri thức này có thể biểu hiện dưới hình thái ý thức, gắn liền với tư liệu sản xuất và người lao động. Khối lượng các tri thức, kiến thức đó bản thân nó đã là các giá trị văn hoá, đồng thời nó cũng được huy động và sử dụng vào sản xuất – kinh doanh trong môi trường văn hoá. Nếu không có môi trường văn hoá trong sản xuất – kinh doanh thì không thể sử dụng được các tri thức, kiến thức đó, và đương nhiên không thể tạo ra hiệu quả sản xuất, không thể phát triển sản xuất – kinh doanh. Với quan hệ giữa tri thức và kinh doanh như vậy, bắt buộc các giá trị văn hoá dưới dạng tri thức, kiến thức phải được đảm bảo vào sản xuất kinh doanh thì mới đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được phát triển. 10
  12. 2. Các yếu tố văn hoá với tư cách là những biểu hiện của trình độ cao trong sinh hoạt xã hội. Sản xuất kinh doanh không chỉ là quá trình con người sử dụng các tư liệu sản xuất và chiếm hữu vật chất mà con là các mối quan hệ giữa con người với con người. Sản xuất kinh doanh là sự hiệp tác và phân công lao động, đây là quan hệ cơ bản ở cả phạm vi hẹp và phạm vi rộng. Giải quyết tốt mối quan hệ đó là đảm bảo điều kiện thành công của quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng bản thân con người trogn các mối quan hệ đó có những đặc điểm tâm lý khác nhau, nguyện vọng lợi ích khác nhau, khác nhau cả về tuổi tác, về những đặc thù mang tính dân tộc, tôn giáo....sự khác nhau đó dẫn đến sự khác nhau trong sinh hoạt xã hội. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, những sự khác biệt về sinh hoạt trong xã hội tuy không phải là yếu tố của quá trình đó, nhưng luôn thường trực ở mỗi con ngời, mới chỉ lộ ra qua quá trình giao tiếp. Nếu quá trình giao tiếp không nắm bắt được sự khác biệt đó sẽ dẫn đến những điều biểu hiện, hoặc xung đột về suy nghĩ và hành động. Mỗi người trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu có trình độ am hiểu sâu sắc về sinh hoạt xã hội sẽ tạo ra được các ấn tượng, các mối quan hệ tốt đẹp với người khác, tạo được bầu không khí thoả mái tin tưởng lẫn nhau trong tập thể lao động, đảm bảo quan hệ kinh doanh dễ dàng. 3. Các di sản văn hoá của một nền văn minh cổ xưa có vai trò tạo ra động lực tinh thần trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích so sánh các quá trình phát triển và tồn tại của một nền văn minh giúp cho con người hiện đại nhìn lại từ quá khứ, biết được khả năng của chính dân tộc mình, từ đó xem xét hiện tượng và hướng tới tương lai. 4. Các yếu tố văn hoá trong kinh doanh tạo sự phát triển hài hoà, lành mạnh của mỗi quốc gia, tạo ra sức sống của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, tạo ra sức mạnh cộng đồng cho phát triển, tạo điều kiện cho tái sản xuất lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh... Mọi nền sản xuất, suy cho cùng đều nhằm thoả mãn ngày càng cao các lợi ích vật chất và tinh thần của con người. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động 11
  13. cơ thúc đẩy hành động của con người. Nếu quá trình kinh doanh chỉ vì lợi nhuận đơn thuần như vậy thì về mặt kinh tế, quốc gia đó sẽ phát triển lệch lạch những ngành và lĩnh vực ít lợi nhuận sẽ không phát triển được và do vậy không thể đáp ứng được mọi nhu cầu của con người. Về mặt xã hội, con người sẽ mất nhân cách đạo đức xã hội xuống cấp, tội ác gia tăng. Nói đến kinh doanh, là nói đến việc sử dụng tri thức và kiến thức. Sử dụng tri thức đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cá nhân, các cộng đồng người để khai thác hết kho tàng tri thức đó phục vụ cho sản xuất kinh doanh, trí tuệ của mỗi người sẽ bổ sung cho nhau tạo ra trí tuệ tập thể ở một trình độ cao và hoàn thiện hơn. Sự kết hợp đó là nét đẹp văn hoá trong kinh doanh và chính nó tạo ra sức mạnh của tập thể, của cộng đồng. Phục vụ đáp ứng những nhu cầu cụ thể của con người về sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đó ngoài yêu cầu về số lượng và chất lượng nhất định còn đòi hỏi những yêu cầu về thẩm mỹ, tính tiện lợi khi sử dụng. Có thể coi đó là những đòi hỏi của văn hoá tiêu dùng, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nào đáp ứng được những đòi hỏi đó là đáp ứng văn minh tiêu dùng và sẽ có sức sống trên thị trường. Để đạt được điều đó, sản xuất kinh doanh phải gắn liền với các yếu tố văn hoá, thông qua việc tiếp cận các yếu tố văn hoá mà chọn lọc và vật chất hoá chúng trong sản phẩm của mình cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng. Các yếu tố văn hoà là món ăn tinh thần không thể thiếu của đời sống con người, như những nhu cầu vật chất khác. Trong quá trình hoạt động lao động, sự căng thẳng về cơ bắp và thần kinh diễn ra thường xuyên, gây ra mệt mỏi và căng thẳng về tâm lý. Đưa các yếu tố văn hoá vào sản xuất kinh doanh từ việc thiết kế nơi làm việc, các thiết bị và dụng cụ làm việc sẽ giảm bớt được trầm uất của những căng thẳng đó. Đặc biệt đưa các hình thức hoạt động văn hoá vào trước giờ làm việc có thể tạo ra hứng phấn lao động, vào thời gian nghỉ ngơi và cuối giờ làm việc có thể nhanh chóng xoá đi sự căng thẳng và mệt mỏi về tâm lý giúp con người nhanh chóng phục hồi sức lực hơn. 12
  14. CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH VÀ THỰC TRẠNG VỀ VĂN HOÁ TRONG KINH DOANH Ở CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY I. VĂN HOÁ TRONG KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. Kể từ khi ban hành Luật doanh nghiệp đầu năm 2000, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh với trên 100.000 doanh nghiệp, thu hút hơn 100.000 tỷ đồng (tương đương với khoảng 6,7 tỷ USD) vốn đầu tư, tạo ra hơn 1,3 triệu chỗ việc làm, còn doanh nghiệp dãn doanh đóng góp đáng kể cho nền kinh tế năm 2000 có 14413 doanh nghiệp với đăng ký với số vốn 13700 tỷ đồng, năm 2001 ước tính có trên 1800 doanh nghiệp mới đăng ký với số vốn khoảng 22.000 tỷ đồng, chưa kể vốn đăng ký bổ sung. Tổng cộng cả hai năm, có 32413 doanh nghiệp mới đăng ký, gần bằng tổng số doanh nghiệp mới đăng ký trong chín năm, từ 1991 đến 1999 (45005 doanh nghiệp). Theo báo nhân dân số ra ngày 25 – 11 – 2002 thì đến cuối năm 2002 ngoài khoảng 5.000 doanh nghiệp Nhà nước đã có gần 80.000 doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, cùng hơn 2,1 triệu cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể trong toàn quốc. Các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn lao động tại chỗ, đầu tư vốn ít, thu hồi vốn nhanh, linh hoạt, nhanh nhậy, đổi mới công nghệ dễ dàng chuyển đổi thích ứng với yên cầu của thị trường. Bên cạnh sự phát triển không ngừng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, cùng sự đóng góp to lớn trong phát triển. Thì mặt trái của nó tác động nên nền kinh tế là rất lớn. Mặt trái ở đây có thể hiểu là những tiêu cực hay cách khác đó là những biểu hiện kém văn hoá trong kinh doanh. Từ thực tế thấy rằng, các doanh nghiệp ở nước ta vẫn chưa chú ý tới sự cần thiết tất yếu của văn hoá kinh doanh trong hoạt động của mình. Những áp lực kinh tế, nhất là áp lực chạy theo lợi nhuận, hiện không làm cho các doanh nghiệp chú ý tới vấn đề văn hoá kinh doanh hoặc coi đó là yếu tố phụ trợ. 13
  15. Nạn sản xuất hàng giả, hàng nhái nhãn mác, hàng kém chất lượng, kém phẩm chất, nấp bóng lợi dụng những nhãn hiệu có uy tín trên thị trường và tìm cách trà trộn với hàng thật, hàng có chất lượng tốt để tiêu thụ, lừa bịp người tiêu dùng. Do kinh doanh quản lý kém, tổ chức sản phẩm không cạnh tranh được trên thị trường đưa đến thua lỗ phá sản, nhập hàng lậu vào trong nước để trốn thuế, gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo số liệu thống kê trong 4 năm (1999 – 2003) cả nước xảy ra trên 1000 vụ ngộ độc thực phẩm với số người mắc lên hàng nghìn, trong đó có nhiều người tử vong 1999 có 327 vụ, số người mắc là 7576 người, đến năm 2003 là 204 vụ với 5924 người mắc. Ngoài ra số vụ ngộ độc thực phẩm do ăn phải thực phẩm ô nhiễm hoá chất độc hại có chiều hướng tăng lên: Năm 1999 là 11%, năm 2000 là 17%, năm 2002 là 25,2%, năm 2003 là 23%, còn 3 tháng đầu năm 2004 cục quản lý thị trường (Bộ thương mại) bắt và xử lý 1865 vụ hàng giả, hàng kém chất lượng. Các mặt hàng chủ yếu làm giả là rươu, bia, nước giải khát, bánh kẹo. Những con số trên là những minh chứng cho sự làm ăn chộp giật, lừa đảo vì theo đuổi lợi nhuận sản xuất ra các sản phẩm kém chất lượng làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, cũng như lợi ích của người tiêu dùng. Sự kinh doanh không có văn hoá không chỉ xảy ra đối với các doanh nghiệp tư nhân, mà còn xảy ra ngay với các doanh nghiệp Nhà nước. Còn nhiều doanh nghiệp trốn lậu thuế, nợ đọng vốn, khai gian thu nhập để chiếm đoạt thuế VAT. Thiếu quan tâm đến đời sống của công nhân viên như nợ lương, không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...vì lợi nhuận không chú ý tới tính an toàn trong lao động, sức khoẻ của đời sống nhân dân lao động, để ngày càng nhiều người mắc các căn bệnh độc hại. Để thấy rõ sự tác động của những doanh nghiệp kinh doanh có văn hoá đối với nền kinh tế. Những kết quả nghiên cứu thực tế ở nhiều nước về doanh nghiệp mới thành lập đã đi đến kết luận rằng doanh nghiệp càng trẻ càng dễ thất bại, doanh nghiệp càng nhỏ càng dễ thất bại và 90% nguyên nhân thất bại của các doanh nghiệp trẻ là do quản lý tồi. 14
  16. Tuy nhiên, thực tế này không phải dễ dàng được các nhà quản lý doanh nghiệp nhận ra hay chấp nhận. Những kết quả điều tra ở 570 doanh nghiệp trình bày trong bảng sau là một minh chứng. Theo chủ doanh nghiệp Theo chủ nợ Suy thoái kinh tế 68 29 Người quản lý kém năng lực 28 59 Thiếu vốn 48 33 Nợ khó đòi 30 18 Cạnh tranh 40 9 Thiết bị lạc hậu 32 6 Địa điểm bất lợi 15 3 Lãi suất cao 11 2 Thay đổi bất thường 11 2 Bảng 1: Nguyên nhân thất bại của doanh nghiệp mới, theo đối tượng quan sát. Vậy quản lý tồi là như thế nào? Đây là một phạm trù khá rộng đã được bàn nhiều đến trong các nghiên cứu về quản trị kinh doanh. Cách tiếp cận mới nhằm giúp những người quản lý hiểu thêm một khía cạnh còn chưa được quan tâm đúng mức của quản lý hiện đại, vấn đề hiện nay của các công ty thành đạt sử dụng như một vũ khí cạnh tranh có sức mạnh tuyệt đối. Đó là “bản sắc” hay văn hoá doanh nghiệp. Để được xã hội chấp nhận, doanh nghiệp cần chú trọng tới việc xây dựng hình ảnh của mình thành những biểu tượng bằng chính những viên gạch đạo đức trong kinh doanh chính vì tính quan trọng của văn hoá trong kinh doanh, mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa xây dựng được hình ảnh cho mình, đổi lại tạo ra tác động xấu đối với nền kinh tế. Biểu hiện tác động xấu này, làm cho nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay không được người tiêu 15
  17. dùng thừa nhận. Tạo ra sự phát triển bấp bênh của nhiều doanh nghiệp. Cộng hưởng tới nền kinh tế, làm cho nền kinh tế ta bị ảnh hưởng. Làm sự tác động ngược trở lại đối với các doanh nghiệp, kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp. Để phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam cần đi đúng với quy luật của nền KTTT. Cần coi trọng “đạo đức kinh doanh”, biến nó là vũ khí cho sự tồn tại cạnh tranh và phát triển. II. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG VIỆC ĐƯA VĂN HOÁ VÀO TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH. Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh dần dần xoá đi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung và đã vươn lên phát huy mạnh mẽ các tiềm lực của mình. Về mặt nông nghiệp, nước ta đạt được nhiều thành tựu nổi bất với các thời kỳ trước. Sản lượng lương thực phát triển tốt bảo đảm giữ vững an ninh lương thực quốc gia, tạo nguồn xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới...Về công nghiệp, nhìn chung các sản phẩm quan trọng có tác động đến các ngành kinh tế đều tăng khá như điện, sắt thép, phân bón...chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giành được sự tín nhiệm của người tiêu dùng, gần 100 mặt hàng được bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao, có chỗ đứng trên thị trường. Có thể nói hàng Việt Nam chất lượng cao đã đáp ứng được phần nào nhu cầu, thịhiếu và sở thích của người tiêu dùng ở hai khía cạnh: sản phẩm tiêu dùng và vật phẩm văn hoá. Ở đây, các nhà doanh nghiệp Việt Nam đã đưa các nhân tố văn hoá, bản sắc dân tộc vào hoạt động kinh doanh, họ đã biết gắn chặt chẽ và hài hoà giữa cái lợi với cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Đó chính là biểu hiện nền kinh doanh có văn hoá và lối sống có văn hoá của các doanh nghiệp Việt Nam dần dần được hình thành. Đó cũng chính là lợi thế cạnh tranh của giới doanh nhân Việt Nam trên thương trường. Để thấy được số doanh nghiệp biết xây dựng cho mình “đạo đức kinh doanh” thông qua hàng Việt Nam chất lượng cao, ta có thể quan sát biểu đồ sau: 16
  18. 447 422 360 372 270 187 120 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Số lượng doanh nghiệp đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao (phụ trương Sài Gòn tiếp thị, thời báo kinh tế Sài Gòn số 4, tháng 1- 2003). Trong lĩnh vực dịch vụ, ngành thương mại đã đạt có sự tăng trưởng vượt bậc. Xuất khẩu năm 2000 tăng gấp 6 lần so với năm 1990, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ở thị trường trong nước tăng 6 lần so với cùng kỳ... Qua đó, thấy được nét văn hoá trong kinh doanh được thể hiện rõ ở các điểm: kinh doanh đạt năng suất cao, giá thành hạ, tạo ra nhiều sản phẩm (giá trị) và giá trị thặng dư cho xã hội, sản phẩm đạt chất lượng cao, được xã hội và người tiêu dùng trong và ngoài nước chấp nhận, hoạt động kinh doanh đảm bảo chính sách, tuân thủ pháp luật, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước (thuế) tạo ra lòng tin (chữ tín) vững chắc, ổn định đối với khách hàng trong và ngoài nước. Các đơn vị như nông trường Sông Hậu ở Cần Thơ...Công ty mía đường Lam Sơn (Thanh Hoá). Công ty sữa Việt Nam Vinamilk là những điển hình về văn hoá kinh doanh. III. ĐƯA NHÂN TỐ VĂN HOÁ VÀO HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. Xu thế tiến bộ của thế giới chỉ trở thành nguồn lực nội sinh khi nhận biết và dám hành động theo quy luật phát triển. Chỉ dừng lại ở nhận thức tư tưởng 17
  19. cũng chẳng có ích gì cho nhân dân, nếu không chuyển từ nhận thức sang hoạt động tổ chức thực tiễn. Các giải pháp dưới đây thuộc lĩnh vực tổ chức thực tiễn. 1. Đưa nhân tố văn hoá vào quá trình khôi phục và phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Muốn đưa nhân tố văn hoá vào bồi dưỡng và khai thác các lực lượng sản xuất của đất nước cần có một số giải pháp thiết thực như: - Lựa chọn và đổi mới công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện nước ta chuẩn bị tiến vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá. - Đổi mới tổ chức phương thức và phương pháp, quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh theo hướng vận dụng “động lực kép” bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá đối với người lao động. Động lực đó bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá đối với người lao động. Động lực đó bao gồm lợi ích cá nhân, lợi ích bộ phận lợi ích quốc gia. - Tiến hành cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo trên cơ sở mạnh dạn làm thí điểm đổi mới đồng bộ về giáo trình, giáo viên và phương thức đào tạo. Đồng thời sớm khắc phục tình trạng “thương mại hoá’ lan tràn trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. - Xây dựng kế hoạch hợp tác quốc tế về đào tạo, trước hết đối với đội ngũ giáo viên, đội ngũ quản lý, dần dần hình thành đội ngũ có trình độ cao với tấm lòng vì dân, vì nước. 2. Đề cao thang giá trị trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và biến đổi cơ cấu xã hội – dân cư. Hiện nay nước ta đang ở thời kỳ hình thành các quan hệ kinh tế mới và quan hệ xã hội mới trong quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ sang kinh tế thị trường. Các quan hệ mới đang hình thành phải được đặt trong xu thế kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hoá thì nước ta mới có thể đi đến mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. 18
  20. Muốn vậy, trong các chiến lược và chính sách cũng như tổ chức thực hiện phải phản ánh được yêu cầu của thang gíatrị mới. Từ yêu cầu này, cần đổi mới quan điểm và phương pháp đánh giá, các tiêu chuẩn đánh giá về hiệu quả của hoạt động kinh tế, về con người lao động, người lãnh đạo, quản lý kinh tế – xã hội. Muốn xây dựng quan điểm, phương pháp và tiêu chuẩn đánh giá theo thang giá trị mới, cần phải xuất phát từ việc phân tích thực tiễn nước ta và thế giới. Sự áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá này trước hết phải bắt đầu từ trên xuống bắt đầu từ cấp trưởng trong các đơn vị, có như vậy mới tránh khỏi được tình trạng biến các tư tưởng tốt đẹp thành khẩu hiệu hô hào suông. 3. Từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao tầm vóc và hiệu quả của nó. Đối với mỗi nước, hệ thống chính trị là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp sự phát triển của đất nước. Ngày nay vấn đề “văn hoá với chính trị” trở thành vấn đề cốt lõi trong xu thế vận động kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hoá. 4. Áp dụng hệ thống ISO trong sản xuất kinh doanh ở tất cả các doanh nghiệp. Việc áp dụng này, tạo ra sự kiểm tra các giai đoạn sản xuất, từ đó tạo ra sản phẩm đầu ra chất lượng tốt, tạo ra sự quan tâm tới người lao động trong chính các giai đoạn sản xuất đó. Sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, giá thành hạ rễ được khách hàng chấp nhận hơn. Giúp cho sản phẩm có thể cạnh tranh được với các sản phẩm khác trên thị trường, tạo ra sự thuận lợi kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp không phải chộp giật, tìm cách tồn tại mà dành nhiều thời gian, chi phí đầu tư cho công nghệ, cho phát triển. Tạo ra các sản phẩm có chất lượng đảm bảo ở các giai đoạn sản xuất trong tương lai. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2