intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Các phương pháp nhân giống in vitro lan Hồ Điệp

Chia sẻ: Tran Duc Thang Duc Thang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:34

342
lượt xem
54
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lịch sử và thành tựu của nuôi cấy mô, các phương pháp nhân giống invitro, tìm hiểu về nhân giống lan Hồ Điệp, nhân giống invitro lan Hồ Điệp,... là những nội dung chính của đề tài "Các phương pháp nhân giống in vitro lan Hồ Điệp". Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Các phương pháp nhân giống in vitro lan Hồ Điệp

  1. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Phần I: Mở Đầu Cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu tạo một gốc vườn nhỏ  mang màu   xanh cây lá thiên nhiên vào trong nhà của người dân ngày càng cao.Vốn nhiều họ,   nhiều chủng loại, màu sắc phong phú lại tốn ít diện tích nên việc chọn trồng và tạo   một vườn lan nhỏ trong khuôn viên nhà là sự lựa chọn của nhiều cá nhân, nhiều hộ  gia đình.Trong số  những loại phong lan được nuôi trồng  ở  nước ta hiện nay, bên  cạnh những loài tương đối dễ  trồng như  Mokaro, Dendro, lan Vũ Nữ…thì vẫn có   những loài lan thích hợp với một số khu vực địa lý nhất định, cụ  thể  là Địa Lan –   loài hoa chỉ có thể nuôi trồng trong điều kiện lí tưởng của Đà Lạt .[4] Không quá kén chọn và hạn chế nơi trồng như Địa Lan song Hồ Điệp cũng là  một trong những giống lan quý lại khó trồng. Do đó, đòi hỏi người trồng phải có  đôi chút am hiểu về loài hoa này.Thích hợp với điều kiện trong nhà lại là một trong  những giống lan được yêu thích không chỉ về màu sắc, kiểu dáng mà còn mang một   nét đẹp rất sang trọng, trang nhã. Chính vì vậy, Hồ Điệp đã nhanh chống trở thành   sản phẩm trồng trọt được nhiều người ưa chuộng và mang lại hiệu quả kinh tế cao  không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới như:Đài Loan, Hàn Quốc,  Nhật Bản, Mỹ…Bên cạnh đó, hoa Hồ Điệp rất lâu tàn, độ  bền bông cao, giàu sức   quyến rũ nên nó đã được lựa chọn làm vật trang trí, tạo cảnh quan trong các ngày  lễ, tết.Vốn là một loài rất khó nhân giống bởi Hồ Điệp thường cho hệ số nhân rất   thấp trong điều kiện vườn  ươm. Để  có được số lượng lớn cây giống đồng đều và  sạch bệnh đáp ứng nhu cầu thị trường là một vấn đề thật nan giãi. Do đó, việc nhân   giống bằng kỷ thuật nuôi cấy mô ra đời tạo ra hàng loạt cây con ổn định về mặt di  truyền, sạch bệnh, giá cả lại phải chăng là rất hữu ích.   Xuất phát từ thực tiễn này cộng với sự đam mê của chính bản thân mình, tôi  đã tiến hành tìm kiếm sưu tập từ đó đưa ra đề tài: “Các phương pháp nhân giống in   vitro lan Hồ Điệp”.  SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         1
  2. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Phần II: Nội Dung II.1. Tổng quan tài liệu 1.1. Lịch sử và thành tựu của nuôi cấy mô [5] 1.1.1. Trên thế giới  Năm 1902, nhà thông thái Haberlant lần đầu tiên đưa ra ý tưởng cấy mô của  sinh vật ra ngoài cơ thể nhưng ông đã dùng tế bào quá chuyên biệt nên không thành  công. Mô động vật được cấy trước tiên do A.Carrel(1919), đến năm 1934 mô thực   vật mới được nuôi cấy.  Năm 1934 White đã thành công trong việc phát hiện ra sự  sống vô hạn của  việc nuôi cấy tế bào rễ cà chua.  Năm 1964 Ball là người đầu tiên tìm ra mầm rễ từ nuôi cấy chồi ngọn. Ông   đã thành công   trông việc chuyển cây con của cây sen cạn và cây White Lupin từ  môi trường nuôi cấy tối thiểu, tuy nhiên việc nhân giống vẫn chưa hoàn chỉnh. Sau  đó, nhiều nhà nghiên cứu đã khám phá những thành phần dinh dưỡng qua trọng cần   thiết cho sự phát triển của tế bào được nuôi cấy (White (1951),Gauthere (1939),Van  Overbeck (1941), Steward và Caplin (1951)).  Năm 1951, Skoog và Miller đã phát hiện ra các hợp chất có thể  điều khiển  sự nảy chồi.  Năm 1962, Murashige và Skoog  đã cải tiến môi trường nuôi cấy đánh dấu   một bước tiến  trong kỷ thuật nuôi cấy mô. Môi trường của họ dùng làm cơ sở  cho   việc nuôi cấy nhiều loại cây và vẫn còn sử dụng rộng rải cho đến ngày nay.  Năm 1960­1964, Morel cho rằng có thể nhân giống vô tính lan bằng nuôi cấy   đỉnh sinh trưởng.Từ  kết quả  đó, lan được xem là cây nuôi cấy mô đầu tiên được  thương mại hoá. Từ  đó đến nay, công nghệ  nuôi cấy mô tế  bào thực vật đã được   phát triển với tốc độ  nhanh trên nhiều cây khác (Haramaki(1971), Murashige(1972),  Miller và Murashige (1976)) và được ứng dụng thương mại hóa. 1.1.2. Ở Việt Nam Nuôi cấy mô tế  bào thực vật đã được phát triển  ở  Việt Nam sau chiến tranh   thế giới kết thúc (1975). Phòng thí nghiệm nuôi cấy mô và tế bào đầu tiên được xây   dựng đầu tiên  ở  viện sinh học, viện khoa học Việt Nam(KHVN) do tiến sĩ Lê Thị  Muội đứng đầu. Bước đầu tập trung nghiên cứu những vấn đề  cơ  bản như  nuôi  cấy bao phấn, nuôi cấy mô sẹo và protoplast. Các kết quả  đầu tiên về  nuôi cấy   thành công bao phấn lúa và thuốc lá được công bố năm 1978 (Leâ Thò Muoäi vaø cs,,  SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         2
  3. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp 1978; Leâ Thò Xuaân vaø cs,, 1978). Tiếp đó là thành công về protoplast  ở thuốc lá và  khoai tây (Lê Thị Muội và Nguyễn Đức Thành(1978),Nguyễn Đức Thành và Lê Thị  Muội 1980,1981).Trong cùng thời gian tại phân viện KHVN tại Tp.HCM, muội hơn   nửa là tại Đại học Nông  Nghiệp I (ĐHNNI) Hà Nội và Viện Khoa Học Kỹ  Thuật Nông Nghiệp Việt Nam   (KHKTNNVN) và các phòng thí nghiệm nuôi cấy mô và  tế  bào cũng được thành   lập chủ yếu tập trung vào vi nhân giống khoai tây . Hiện nay, chúng ta có rất nhiều  phòng thí nghiệm nuôi cấy mô  không những ở các trường đại học các viện nghiên   cứu (viện Di Truyền Nông Nghiệp(DTNN), viện Rau Quả Trung ương(RQTƯ)) mà  ở  cả  một số  tỉnh và cơ  sở  sản xuất(Yên Bái ,Hưng Yên, Thanh Hóa….). Giữa   những năm 1980 trở  lại đây, các hướng nghiên cứu  ứng dụng  nuôi cấy mô và tế  bào thực vật phát triển mạnh. Những kết quả khích lệ đã đạt được trong lĩnh vực vi   nhân   giống   khoai   tây(viện   Công   Nghệ   Sinh   Học   (CNSH),   ĐHNNI,   viện   KHKTNNVN),   dứa,   chuối,   mía   (viện   CNSH,   ĐHNNI,   viện   KHKTNNVN,   viện   RQTƯ) một số  cây hoa   phong lan (phân viện CNSH thành phố  Hồ  Chí Minh),   Hồng, Cúc, Cẩm Chướng(viện CNSH, viện DTNN) và cây công nghiệp như  bạch  đàn (viện DTNN, viện Lâm Nghiệp). Một số kết quả bước đầu đã ghi nhận trong  lỉnh vực chọn dòng tế bào như chọn dòng tế bào kháng bệnh (Lê Bích Thủy và cs,,  1994), chọn dòng chịu muối ,chịu mất nước (Nghuyễn Tường Vân và cs ,,1994;   Đinh Thị  Phòng và cs,, 1994). Các kết quả  về  dung hợp cây lai tế  bào chất và  chuyển gen lục lạp củng thu được kết quả lý thú (Nguyễn Đức Thành và cs,, 1988;  Nguyễn Đức Thành và cs,, 1993, 1997) nuôi cấy bao phấn để  tạo dòng thuần đã  được ứng dụng nhiều ở viện CNSH và DTNN. Nuôi cấy các dược liệu quý  để bảo   tồn nguồn gen và tạo các tế  bào có hàm lượng các chất sinh học quan trọng cao   cũng đã và đang phát triển. 1.2. Các giai đoạn nhân giống invitro [5] Cho   tới   nay   việc   nhân   giống   invitro   đã   áp   dụng   cho   nhiều   loại   cây   (350   loài,  Murashige (1974) chia  quy trình nhân giống ra làm 4 giai đoạn :  Nuôi cấy khởi đầu, tái sinh chồi, cụm chồi.  Nhân nhanh chồi, cụm chồi trong điều kiện invitro.  Tạo cây con hoàn chỉnh, huấn luyện cây con.  Phục hồi, chuyển cây ra trồng trong điều kiện  tự nhiên. 1.3. Các phương pháp nhân giống invitro [5] 1.3.1. Nuôi cấy đỉnh sinh trưởng SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         3
  4. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Một phương thức dễ dàng nhất đạt được mục tiêu trong nuôi cấy mô tế  bào  thực vật là nuôi cấy đỉnh sinh trưởng (bao gồm nuôi cấy chồi đỉnh và nuôi cấy chồi   bên). Sau khi vô trùng, mẫu sẽ được nuôi cấy trên môi trường thích hợp chứa đầy   đủ  các chất dinh dưỡng khoáng vô cơ  và hữu cơ  hoặc môi trường khoáng có bổ  sung chất kích thích sinh trưởng  thích hợp. Từ  một đỉnh sinh trưởng, sau một thời  gian nuôi cấy nhất định mẫu sẽ phát triển thành một chồi hay nhiều chồi. Chồi tiếp   tục phát triển thân, ra lá và rể  để  thành một cây hoàn chỉnh. Cây con được chuyển   dần ra đất và thích nghi bình thường. 1.3.2. Nuôi cấy mô sẹo Mô sẹo là một khối tế  bào phát triển vô tổ  chức, hình thành do sự  phân hóa  của các tế bào đã được phân hóa. Mô sẹo sẽ phát triển nhanh khi môi trường có sự  hiện diện của auxin. Khối mô sẹo có khả năng phát triển thành cây con hoàn chỉnh  trong điều kiện môi trường không có chất  kích thích tạo mô sẹo. Nuôi cấy mô sẹo   được thực hiện đối với các loại thực vật không  có khả năng nhân giống thông qua  nuôi cấy đỉnh sinh trưởng. Cây tái sinh từ mô sẹo có đặc tính giống như cây mẹ. Từ  một cụm tế  bào mô sẹo có thể  tái sinh cùng một lúc nhiều chồi hơn là nuôi cấy  đỉnh sinh trưởng, tuy nhiên mức độ biến dị tế bào soma lại cao hơn. 1.3.3. Nuôi cấy tế bào đơn Khối mô sẹo được nuôi cấy trong môi trường lỏng và được đạt trên máy lắc  có tốc độ điều chỉnh thích hợp sẽ  tách ra thành nhiều tế  bào riêng lẽ  gọi là tế  bào   đơn.Tế  bào đơn được lọc và nuôi cấy trên môi trường đặc biệt để  tăng sinh khối.   Với các chất thích hợp được bổ  sung vào môi trường, tế bào có khả  năng sản xuất   các chất có hoạt tính sinh học. Sau một thời gian nuôi cấy  kéo dài trong môi trường   lỏng tế bào đơn được tách ra và trải trên môi trường thạch.     +  Khi môi trường thạch có bổ sung auxin, tế bào đơn phát triển thành từng   cụm có mô sẹo.     +  Khi môi trường thạch có tỷ lệ cytokinine/auxin thích hợp, tế bào đơn có  khả năng tái sinh  thành cây con hoàn chỉnh. 1.3.4. Nuôi cấy protoplast­chuyển gen Protoplast (tế bào trần) là tế bào đơn được tách bởi vỏ cellullose, có sức sống  và duy trì đầy đủ các chức năng sẵn có. Trong điều kiện nuôi cấy thích hợp, protoplast có khả  năng tái sinh  màng tế  bào, tiếp tục phân chia và tái sinh cây hoàn chỉnh (tính toàn thể  ở  thực vật). Khi tế  bào chất mất vách và tiến hành dung hợp, hai protoplast có khả  năng dung hợp với   SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         4
  5. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp nhau tạo tế bào lai, đặc tính này cho phép cải thiện giống cây trồng. Quá trình dung  hợp protoplast có thể thực hiện trên hai đối tượng cùng loài hay khác loài. 1.3.5. Nuôi cấy hạt phấn đơn bội Hạt phấn  ở thực vật được nuôi cấy trên những môi trường  thích hợp tạo mô   sẹo. Mô sẹo này được tái sinh thành cây hoàn chỉnh là cây đơn bội.   II.2. Tìm hiểu về nhân giống lan Hồ Điệp 2.1. Nguồn gốc và đặc điểm của lan Hồ Điệp [4] 2.1.1. Nguồn gốc  Lan Hồ  Điệp là giống lan có tên gọi Phalaenopsis, thuộc họ  phụ  Vandeae.   Tên gọi Phalaenopsis bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp trong đó Phalaina có nghĩa là “con  bướm” và Opsis có nghĩa là “giống như”.  Lan Hồ Điệp được khám phá năm 1750, đầu tiên được ông Rumphius đặt tên  là Angraecum album, năm 1753 Linne đổi tên thành Epidendrum, 1825 nhà thực vật  Hà Lan định danh lại là Phalaenopsis.    Loài hoa này có xuất xứ   ở  miền Bắc Australia,  Ấn Độ  và các nước Đông  Nam Á như  Philippine, Inđônêsia, bán đảo Đông Dương. Quê hương của lan Hồ  Điệp là các nước của vùng Đông Nam Á, rừng Việt Nam không có loài Phalaenopsis   amabilis, chỉ có 5 loài tương tự được biết là Phaenopsis mannii, Phalaeopsis gibbosa,  Phalaenopsis lobbi, Phalaenopsis fuscata và Phalaenopsis cornu­cervi. Lan Hồ  Điệp  được trồng  ở  mọi nơi trên thế  giới, hầu hết là  ở  Đức, Nhật bản, Phần Lan, Đài  Loan, Thái Lan và Mỹ. Cây con được nuôi cấy mô nhiều ở các nước Phần Lan, Thái  Lan, Đài Loan…Hiện nay giống Hồ Điệp có trên 70 loài và càng ngày càng lai tạo ra   rất nhiều. 2.1.2. Đặc điểm   Lan Hồ Điệp là cây đơn thân, ngắn, lá to, dày, mọc sát vào nhau. Hoa nở luân  phiên hết cái này đến cái khác, thời kì nở hoa thay đổi theo loài và thường nở trong  vài tháng. Phát hoa mọc từ nách lá, dài, chùm hoa nở từng cái, 3 đài to tròn, hai cánh   xoè rộng kín, sắc đẹp. Môi hoa cong dẹp có hai râu dài nên cả đóa hoa trong giống   như con bươm bướm. Hai hàng hoa xếp đều đặn 2 bên cành, khẽ đong đưa như đàn   bướm xinh xắn đang bay lượn chập chờn. Trụ có hình bán nguyệt với hai phân khối   u lên, chứa đầy phấn hoa. Số  hoa trên cành biểu thị  sức sống của cây. Số  lượng  SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         5
  6. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp càng nhiều thì cây càng sung sức. Riêng đặc tính phân nhành hoa lại tùy thuộc nhiều   vào từng loại giống.   Lan Hồ Điệp có màu sắc phong phú, không thua kém bất cứ  giống lan nào   khác từ  trắng, hồng, đỏ, vàng, tím đến các loại Hồ  Điệp có sọc nằm ngang hoặc   thẳng đứng, hoặc có đốm to hay nhỏ…Lan Hồ Điệp sinh trưởng chậm, khoảng 40  ngày với điều kiện chăm sóc tốt mới mọc thêm một lá hoàn chỉnh. Khi cây có trên 4   lá mới có thể phân hoá mầm hoa. Loài lan này có độ bền bông cao trong điều kiện   thích hợp, rất thích hợp để trồng trong nhà, dễ ra hoa. Nhưng nó vốn vẫn là loài hoa  khó tính. 2.2. Điều kiện sinh thái [5] 2. 2.1. Nhiệt độ [3] Lan Hồ  Điệp có nguồn gốc từ  miền nhiệt đới, do đó nhiệt độ  thích hợp để  trồng Lan Hồ Điệp tương đối cao, nhiệt độ  thích hợp để  trồng ban ngày là từ  25­ 280C, ban đêm là 18­200Cgiai đoạn  ươm cây non thì cần nhiệt độ  ban đêm khoảng  230C . Nếu nhiệt độ nhà trông nhỏ hơn 150C rễ cây ngừng hút chất dinh dưỡng, quá  trình sinh trưởng ngừng lại, thậm chí bị  lạnh hại làm rụng hoa hoặc làm cho cánh  hoa xuất hiện các đốm nhỏ ảnh hưởng đến vẽ đẹp của hoa, giai đoạn phấn hoa đòi  hỏi phải có sự  cách biệt khá cao về độ lêch nhiệt độ ngày /đêm, nhiệt độ ban ngày thích hợp nhất   là 25 0C, ban đêm 10­200C, kéo dài 3­6 tuần rất có lợi cho sự phân hóa hoa.   2. 2.2. Nước tưới  Hồ Điệp là loài đơn thân, không có giả hành nên không dự trữ nước, hơn nữa   diện tích bốc hơi của bản lá khá lớn và chúng không có mùa nghỉ  vì thế phải cung   cấp cho không một lượng nước đầy đủ và thường xuyên trong suốt năm. Trong mùa  mưa mỗi ngày phải tưới cho chúng 2 lần, trừ  những ngày có mưa, một lần vào 9  giờ sáng, một lần vào 3 giờ chiều. Tưới như  vậy sẽ đảm bảo cây khô ráo khi trời   tối vì đọng nước ở nách lá suốt đêm có thể  gây ra sự  thối rữa. Vào mùa nắng, nên   tưới cho chúng 1 ngày 3 lần.  Điều kiện thoát nước là tương đối quan trọng, Hồ Điệp không thể  chịu được  một độ ẩm lắng đọng (nhất là ban đêm), vì rất đễ tạo điều kiện cho bệnh thối rữa   phát triển. Tốt nhất cứ  ba ngày ta nên pha Dithane M45, Maneb, Captan vào trong   nước tưới với nồng độ  1/400 để  ngừa chứng bệnh nói trên. Nên nhớ, Hồ  Điệp là   loài lan thích hợp với giá thể  và nước tưới có pH khá thấp (pH=5,2) vì thế  phải  dùng axít phôtphoric để giảm pH của nước.  SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         6
  7. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Ở  nước ta, vào mùa mưa Hồ Điệp tăng trưởng mạnh hơn, nhưng những giọt   mưa nặng hạt cũng không kém phần nguy hiểm vì thế  đa số  các loại Hồ  Điệp bị  chết do những cơn mưa đầu mùa. Đây cũng là một hình thức tưới của thiên nhiên  mà ta không kiểm soát được. Do đó để ngừa tình trạng trên, mái giàn che Hồ Điệp   nên dùng những tấm tôn nhựa xanh, như vậy sẽ loại trừ những trận mưa không cần   thiết và tạo được những tia sáng khuếch tán rất lý tưởng. Vào mùa khô, ta vẫn duy trì mức độ tưới đều đặn như  trong mùa mưa, vì lúc   này  ẩm độ  trong không khí giảm xuống rõ rệt. Do đó, sự  tăng số  lần tưới nhằm  mục đích tạo cho  cây tăng trưởng liên tục. Nếu cây có trạng thái thiếu nước, ủ rũ bạn nên chuyển cây  sang vị trí khác hoặc tăng số lần tưới lên. Một lần tưới bổ sung vào giữa trưa trong   mùa khô rất thích hợp cho sự phát triển của Hồ Điệp. 2. 2.3. Ánh sáng [3] Lan Hồ  Điệp rất kỵ ánh sáng chiếu thẳng trực tiếp, do đó phải có biện pháp   che sáng đồng thời tùy thuộc vào cây lớn nhỏ mà có biện pháp điều chỉnh ánh sáng  cho thích hợp. Thời kỳ   ươm cây non   nhu cầu về  ánh sáng có cường độ  10.000­ 12.000 lux, giai đoạn cây bánh tẻ là 12.000­20.000 lux, giai đoạn thúc ra hoa 20.000­ 30.000 lux. Trong điều kiện trồng trong nhà lưới, mùa hè và mùa thu phải che đi 75­ 85% ánh sáng, cần phải có hai lớp che sáng đặt chồng lên nhau, mùa đông xuân thì   ánh sáng yếu hơn chỉ cần che 40­50% là đủ.  2. 2.4. Độ thông thoáng Rất cần thiết vì  Hồ Điệp hay bị bệnh thối nhũn lá (phõng lá), sự thông thoáng  giúp lá cây mau khô sau khi tưới và bộ rễ không bị úng nước nên hạn chế bệnh rất   nhiều. Ở nước ta vào mùa mưa Hồ Điệp tăng trưởng mạnh những giọt mưa  nặng   hạt có thể làm thối đọt. Do đó để ngăn ngừa tình trạng trên nên dùng những tấm tôn   nhựa xanh để  che. Có một số  trường hợp trồng Hồ Điệp trên cao (sân thượng) có   hiệu quả  hơn. Tuy nhiên gió nhiều và mạnh dễ  làm cây mất nước nhanh nếu ta  không cung cấp đủ lá cây sẽ héo rũ, nhăn.   2. 2.5. Dinh dưỡng  Hồ Điệp cần dinh dưỡng thường xuyên, quanh năm vì không có mùa nghỉ . Khi  tưới phân không nên tưới với nồng độ cao càng đừng tưới lên đọt, nhất là lúc lá non  mới nhú ra từ đỉnh sinh trưởng. Hồ Điệp cần phân bón tưới với nồng độ loãng và có  thể  tưới nhiều lần trong tuần. Có thể  tưới thêm phân hữu cơ  như: bánh dầu 15   ngày/lần, vitamin B1, kích thích ra rễ… SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         7
  8. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Cách tưới phân           + Thời kỳ cây dưới 12 tháng tuổi cần dùng N, P, K với tỷ lệ cao 30­10­ 10, sau đó dùng phân N, P, K với tỉ lệ 20­20­20 hoặc 18­18­18 cho đến lúc ra hoa.  Tuy nhiên vào mùa mưa nếu tưới phân 30­10­10 thấy cây yếu mềm quá có thể tăng  cường lượng lân và kali bằng cách xen kẽ  phân 20­20­20 hoặc 18­18­18 (dù là cây   con), để cây được cứng cáp, tăng cường sức đề kháng sâu bệnh. + Lúc cây trưởng thành (18­24 tháng tuổi) vào thời điểm cuối năm, thời  tiết lạnh có thể kích thích cây ra hoa bằng cách tưới phân 10­30­30, đến khi cây bắt  đầu nhú cành hoa rồi ta trở lại tưới phân 20­20­20 cho đến lúc hoa nở và tàn. Không  nên để cành hoa lâu quá trên cây, khi nụ hoa cuối cùng đã nở và có 1, 2 hoa bắt đầu   héo, thì ta nên cắt cành hoa bỏ đi để dưỡng sức cho cây. Khi cắt cành hoa càng sớm   thì lá mới ra mau và cây sinh trưởng tốt hơn để lần ra hoa sau sẽ mạnh hơn.  2.2.6. Sâu bệnh Đối với phong lan, việc phòng bệnh hết sức quan trọng, vì khi cây đã  bị bệnh  rất khó trị và có thể làm chết cây. Ngoài việc chăm sóc lan kỹ lưỡng đều đặn, tưới   nưới và dinh dưỡng cần phải tưới thêm thuốc trừ  nấm bệnh nhằm tăng sức đề  đề  kháng cho cây. Lan Hồ Điệp hay bị con bọ trĩ chích tạo vết thương trên lá từ  đó vi   khuẩn xâm nhập gây bệnh thối nhũn trên lá. Có thể  dùng một số  loại thuốc để  phòng trị như Malathion, lannat… để phòng trị. 2.2.7. Chậu, giá thể, cách trồng Cách trồng chung nhất cho các loại Hồ Điệp là chậu thật thoáng, có nhiều lỗ  có thể  sử  dụng chậu đất nung có nhiều lỗ  hay chậu nhựa cũng được. Chậu phải   thật sạch không có rêu bám trên thành chậu. Thông thường các nhà vườn trồng lan   với số lượng  lớn (vài ngàn cây) thường dùng than, dớ, xơ dừa, mút… làm giá thể để trồng lan Hồ  Điệp. Có rất nhiều cách trồng lan Hồ  Điệp tuỳ  theo từng vùng. Nhưng có điểm  chung là than, mút nằm dưới đáy chậu, còn xơ  dừa hay dớn sẽ  nằm trên miệng  chậu cách trồng này giúp cây thoát nước tốt vào mùa mưa, không bị thối rễ và phát  triển tốt. Trong thời gian khoảng 2 năm ta thay chậu một lần, nếu cây lớn quá mau  có thể thay chậu sớm hơn.  2.3. Tình hình sản xuất lan Hồ Điệp ở Việt Nam [5] Hiện nay, tại TP.HCM cây lan Hồ  Điệp được xem là cây trồng chiến lượt   trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi. Đây là cây trồng đem lại hiệu  quả  cao gấp 2­3 lần so với việc trồng lúa, hoa màu v.v.. Trong xu thế  đất trồng   ngày càng hẹp thì cây lan không chiếm diện tích đất nhiều nên là giải pháp rất hiệu  SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         8
  9. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp quả. Không chỉ đẹp về màu sắc, hình dáng, hoa lâu tàn… giá thành rẻ nên ngày càng  được ưa chuộng và nuôi trồng. Tại TP.HCM và các tỉnh lân cận có rất nhiều vườn   trồng Hồ Điệp với qui mô từ vài trăm đến vài nghìn cây. Điển hình là công ty Lâm   Thăng của Đài Loan đầu tư  và công ty Kim Ngân chuyên trồng về  lan Hồ  Điệp,  hàng năm có thể cung ứng cho thị trường từ vài ngàn đếm vài chục ngàn cây, nhất là   vào dịp Tết Nguyên Đán. Tuy nhiên do không có sự liên kết giữa các nhà vườn nên  sản phẩm  làm ra không tìm được thị  trường tiêu thụ, giữa cung và cầu không hợp   lý. Về  nguồn cây giống thì  ở  nước ta do không đầu tư  nên cây giống không đạt   chất lượng tốt, giống mới không nhiều nên các nhà vườn thường nhập giống từ các  nước như Thái Lan, Đài Loan…Ngoài ra hàng năm việc nhập khẩu hoa từ các nước  này ước tính tiêu tốn hàng triệu USD. So với các nước có ngành trồng lan phát triển  như  Đài Loan hay Thái Lan thì ngành trồng  ở  nước ta cần phải học hỏi nhiều và   cần phải có chính sách phát triển hợp lý nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. 2.4. Nhân giống invitro lan Hồ Điệp 2.4.1. Nhân giống Hồ Điệp lai từ trục phát hoa [14] 2.4.1.1. Vật liệu và phương pháp nuôi cấy Trục phát hoa Hồ  Điệp lai được cắt khi các hoa gần tàn. Các mắt được làm  sạch và tẩy trùng bằng phương  thức của Scuully, có 4 loại chồi khác nhau trên các  khúc mắt được dùng trong thí nghiệm.  Chồi nguyên vẹn được dùng để kiểm chứng .  Chồi bị làm chấn thương bằng cách cắt bỏ 2/3 chồi theo mặt cắt song song   với trục phát hoa và như thế mặt cắt  sẽ nghiêng với hướng mọc một gốc α.  Chồi bị làm chấn thương  bằng cách cắt chồi làm hai mặt cắt theo trục.  Đâm dọc chồi bằng một kim nhọn từ đỉnh xuống gốc. 2.4.1.2  Điều kiện nuôi cấy    Môi trường  Murashige và Skoog( M+S).  Môi trường Knudson C.  pH:5.8.  Ánh sáng: 5000 1m/m2.  Quang kỳ : 14 giờ.  Nhiệt độ: 2100C. SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         9
  10. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp  Dụng cụ chứa đựng môi trường  là lọ thuốc nhỏ chứa 10ml. 2.4.2. Gieo hạt lan Hồ Điệp nảy mầm trong điều kiện invitrro [3] Trong tự  nhiên hạt lan ít nảy mầm (chỉ  nảy mầm 1­2%) do hạt lan không có   chứa anbunin và một phôi chưa phân hóa, có kích thước nhỏ nên khó chứa chất dự  trữ .Vì vậy, trong tự  nhiên hạt lan Hồ Điệp nảy mầm được nó phải cộng sinh với  nấm Rhizoctonia mucoroides. Nấm sẽ cung cấp đường để  nuôi cây, phân giải các  chất hữu cơ  khó hấp thu. Bù lại cây sẽ  cung cấp nước cho nấm, chỗ   ở  và các  khoáng chất mà nó thu được từ  sương. Dựa trên nguyên tắc này, các phòng thí  nghiệm nuôi cấy mô đã tạo môi trường gieo hạt lan Hồ Điệp trên môi trường dinh  dưỡng nhân tạo với tỉ lệ rất cao. 2.4.2.1.Tiến hành  Chọn quả  lan: Chọn các quả  4 tháng tuổi, quả  căng đều, không bị  nứt vở,   không bị sâu bệnh làm nguyên liệu để gieo hạt.   Khử  trùng : Dùng cồn 750  rửa sạch quả, khử  trùng bằng dung dịch HgCl2  0,1% trong 10 phút. Rửa lại quả  bằng nước vô trùng 5 lần, thấm khô bằng giấy  thấm vô trùng. Dùng dao tách vỏ quả để lấy các hạt nhỏ li ti bên trong và gieo trong   môi trường đã chuẩn bị sẵn.  Để gieo hạy lan có thể sử dụng các loại môi trường nền: Knudson, Vacine­ Went (VW), Murashige –Skoog ( MS) có bổ sung thêm đường và các chất hữu như:   Dịch nghiền của khoai tây, chuối , cà rốt, nước dừa, pepton… 2.4.3.  Ứng dụng hệ  thống nuôi cấy ngập chìm trong nhân giống Hồ  Điệp lai   [2]  2.4.3.1. Hệ thống nuôi cấy Hệ thống ngập chìm tạm thời được sử dụng trong nghiên cứu này là hệ thống  bình nuôi cấy Plantima do công ty A­tech Bioscientific của Đài Loan sản xuất . Hệ  thống này gồm những bộ  phận chủ  yếu sau: Bơm hay máy nén khí tạo áp lực để  đẩy môi trường từ  ngăn chứa lên ngăn chứa mẫu cấy và ngược lại, timer dùng để  điều khiển chu kỳ ngập, hệ thống ống dẫn và van điều khiển, các màng lọc thoáng  khí vô trùng, các bình Platima bằng nhựa polycarbonate gồm có 2 ngăn, ngăn dưới   chứa môi trường lỏng và ngăn trên chứa mẫu thực vật. Bằng cách điều chỉnh tự động áp lực không khí thông qua một máy bơm, môi  trường lỏng từ ngăn dưới sẽ được bơm lên ngăn chứa mẫu cấy và khi đạt đến thời  gian ngập chìm tạm thời dung dịch sẽ quay trở lại ngăn dưới . Trong giai đoạn dung   SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         10
  11. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp dịch ngập mẫu có sự  trao đổi không khí, mẫu được xoay chuyển nhẹ  và làm mới   không khí bên trong bình nuôi cấy, dòng khí đi vào và thoát ra được khử  trùng nhờ  cách lọc vô trùng 0,45µm . Thời gian ngập chìm và tần suất ngập chìm được điều  khiển bằng timer.         Hình 1:  Hệ thống Plantima với hệ thống điều khiển chu kỳ ngập[11]  2.4.3.2. Mẫu cấy lan Hồ Điệp  Đối tượng thí nghiệm là một loài lan Hồ  Điệp lai có tên gọi  Doritaenopsis  Taida Salu. Mẫu cấy gồm có : Protocorm – like bodies –PLBs của giống Dtps Taida Salu. Mẫu cấy chồi được lấy trong thí nghiệm tái sinh chồi từ PLBs trong các hệ  thống khác nhau trên môi trường tái sinh chồi. 2.4.3.3.  Phương pháp thí nghiệm  A. Khảo sát sự nhân nhanh PLBs trong các hệ thống nuôi cấy khác nhau Thí nghiệm khảo sát sự  nhân nhanh PLBs trong các hệ  thống nuôi cấy khác  nhau được tiến hành trong nhằm so sánh hiệu quả trong việc nâng cao hệ quả nhân  và chất lượng của PLBs trong hệ  thống TIS so với các hệ  thống nhân giống trên   môi trường thạch và trong hệ  thống nuôi cấy lỏng lắc. Đồng thời khảo sát các   thông số  tối  ưu cho việc nhân PLBs trên hệ  thống TIS . Mật độ  mẫu cấy và tần  xuất ngập chìm. SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         11
  12. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Môi trường nuôi cấy : Môi trường MS bổ sung BA và NAA, sucrose, glucose,   nước dừa. Môi trường đối chứng trên thạch có sử dụng than hoạt tính và agar. B. Khảo sát sự tái sinh chồi từ PLBs trong hệ thống TIS Mẫu cấy là những PLBs thu được từ  quá trình nhân PLBs. Môi trường nuôi  cấy   là   môi   trường   MS   1/2   có   bổ   sung   nước   dừa,   pepton,   dịch   chiết   khoai   tây,  sucrose. Đối chứng là các mẫu được cấy trên môi trường đặc. Khảo sát các thông số tối ưu cho việc tái sinh chồi và nhân chồi trên hệ thống  TIS. Mật độ mẫu cấy và tần suất ngập chìm. C. Khảo sát sự  ra rễ  của chồi Hồ Điệp tái sinh từ  PLBs trong hệ  thống   TIS Mẫu cấy là những chồi được tách ra từ quá trình tái sinh chồi, chồi lúc cấy vào  có chiều dài là khoảng 8­9 mm, chiều rộng là khoảng 3­4 mm, chiều cao thân là  khoảng 10mm, không có rễ. Môi trường nuôi cấy là môi trường MS 1/2 có bổ  sung   nước dừa, pepton, dịch chiết khoai tây, sucrose, IBA. Đối chứng là mẫu nuôi cấy  trên môi trường đặc .                Hình 2:  Cây sinh trưởng trong hệ thống nuôi cấy ngập chìm [13] 2.4.4.4. Điều kiện thí nghiệm  Các   thí   nghiệm   được   thực   hiện   tại   phòng   Công   Nghệ   Tế   Bào   Thực   Vật  (Trung tâm Công Nghệ Sinh Học TP. HCM) trong điều kiện nhiệt độ  khoảng 25 ±   20C, độ ẩm 80­ 85 %, thời gian chiếu sáng 10 giờ / ngày, cường độ chiếu sáng 2500  lux.  2.4.4.   Nhân nhanh phôi và Protocorm – like body cây lan Hồ  Điệp bằng hệ  thống Bioreactor  [1] SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         12
  13. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp 2.4.4.1. Vật liệu và phương pháp Đối tượng nghiên cứu Giống lan Hồ Điệp có màu trắng (phalaenopsis amabilis ). Mẫu thí nghiệm  Nguồn mẫu lá phôi và PLB ( có màu xanh, đường kính từ 1­1,5 mm) thu nhận   sau 2­ 3 tháng cấy chuyền trên môi trường MS có bổ  sung 2,0 mg/l BA, 0,5 mg/l  NAA, 20%  nước dừa và 30 g/l đường . Nguồn mẫu này được dùng làm nguồn vật liệu để làm  thí nghiệm. Môi trường nuôi cấy  Môi trường MS cơ bản có bổ sung kết hợp các thành phần BA, NAA, và nước  dừa, sau đó bổ  sung 9g/l agar, 1g/l than hoạt tính, pH môi trường được điều  chỉnh   về 5,8 trước khi hấp khử trùng .    Đối tượng thí nghiệm tối  ưu hóa môi trường nuôi cấy tăng sinh phôi và   PLB. Dùng các bình thủy tinh có thể  tích 250 ml, thể  tích môi trường đỏ  vào là 40  ml. Bình thủy tinh có độ  truyền suốt ánh sáng cao để  mẫu cấy có khả  năng quang  hợp tốt.  Đối với hệ thống bioreactor  Bioreactor sử dụng trong nghiên cứu có dạng hình cầu, thể tích 3 lít (sản xuất   tại Hàn Quốc). Phần đáy có dạng hình trụ (đường kính ngoài 45 mm, cao 100 mm).   Phần trên có dạng hình cầu   (đường kính ngoài 170 mm). Đáy được nối với máy   sục khí, bên dưới là một miếng ceramic (đường kính 20 mm, dày 2mm) có tác dụng  tạo bọt khí mịn. Nắp đậy làm bằng vật liệu   silicone, hình nón cụt, đường kính   trung bình là 100 mm và có khả  năng chịu nhiệt tốt (không biến dạng khi hấp vô   trùng  ở  1210C, 1atm, trong 30 phút). Trên nắp có  ống nối với màng lọc khí . Màng  lọc khí sử  dụng là loại chịu nhiệt, đường kính lỗ  màng lọc là 0,2 Mm. Hệ  thống   nuôi cấy này sử dụng 2 màng lọc, một để lọc khí vào và một để lọc khí ra. Các ống   dẫn khí được làm từ silicone chịu nhiệt, chia làm 2 loại: Loại đường kính 7 mm và  loại đường kính 13 mm. Sử dụng một máy bơm để cung cấp khí cho bioreactor với  lượng khí khoảng 20 lít/ phút. Điều kiện nuôi cấy  SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         13
  14. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Thực hiện các quá trình nuôi cấy  ở  nhiệt độ  25 ± 20C, cường độ  ánh sáng  khoảng 2000lux, sử  dụng ánh sáng trắng từ  đèn neon, thời gian chiếu sáng là 10   giờ /ngày, độ ẩm trung bình là 75­ 80% . Phương pháp thí nghiệm  Các bước thiết lập và vận hành hệ  thống nuôi cấy bioreactor được thực hiện   như sau: Bước 1: Chuẩn bị các bộ phận của hệ thống bioreactor :bình cầu, nắp silicone,   các ống dẫn silicone, máy lọc khí, máy sục khí. Chuẩn bị môi trường nuôi. Chuẩn bị  môi trường nuôi cấy và mẫu nuôi cấy . Bước 2 : Gói các bộ  phận của hệ  thống bioreactor vào trong túi nilon chịu  nhiệt và đem hấp khử  trùng  ở  121 0C, 1 atm trong 40 phút. Đồng thời hấp vô trùng   môi trường cùng một lúc . Bước 3 : Tiến hành lần lượt, đổ  môi trường nuôi  cấy vào bình cầu với thể  tích nuôi cấy là 1lít, cấy mẫu phôi và PLB vào, đậy nắp lại và sau đó gắn các màng  lọc khí. Nắp đậy được dán bằng keo dán ống nước. Sau cùng gắn máy sục khí vào  hệ thống để thực hiện quá trình nuôi cấy. SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         14
  15. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp                      Hình 3: Các thiết lập và vận hành hệ thống bioreactor.[1] Thiết kế thí nghiệm  Tối ưu hóa môi trường nuôi cấy tăng sinh phôi và PLB Tiến hành khảo sát  ảnh hưởng của nồng độ  các chất điều hòa sinh trưởng   thực vật (BA, NAA) và nước dừa phát sinh phôi vô tính và PLB của lan Hồ  Điệp.  Các thí nghiệm được bố trí theo các bảng như sau. Sau 8 tuần nuôi cấy, thu nhận phôi và PLB, tiến hành lấy kết quả với các chỉ  tiêu sau: Trọng lượng tươi, đường kính phôi, PLB và đánh giá thông qua quan sát  thực tế. Bảng 1: Ảnh hưởng của BA lên sự tăng sinh của phôi và PLB trong môi trường nuôi  cấy bổ sung 0,5 mg /l NAA và 20 % nước dừa. Môi trường nuôi cấy BA (mg/ l) V1 3,0 V2 2,0 V3 1,0 V4 0,5 Bảng 2:Ảnh hưởng của NAA lên sự  tăng sinh của phôi và PLB trong môi trường   nuôi cấy bổ sung 2,0 mg /l BA và 20% nước dừa. Môi trường nuôi cấy NAA (mg /l) V5 1,0 V6 0,5 V7 0,0 Bảng 3:  Ảnh hưởng của nước dừa lên sự  tăng sinh của phôi và PLB trong môi  trường nuôi cấy bổ sung 2,0 mg /l BA và 0,5 mg /l NAA. Môi trường nuôi cấy Nước dừa (%) V8 30 V9 20 V10 10 V11 5 V12 0 SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         15
  16. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Khảo sát sự tăng sinh của phôi và PLB trong hệ thống nuôi cấy bioreactor Từ  kết quả  đạt được  ở  thí nghiệm tối  ưu môi trường tăng sinh phôi nhóm   nghiên cứu xác định được các thành phần tối  ưu cho môi trường nuôi cấy trong  bioreactor là: Môi trường MS cơ bản, thể tích nuôi cấy 1lít bổ  sung 2,0 mg / l BA ,   1,0 mg /l NAA và 20 % nước dừa, chỉnh pH về 5,8 trước khi đem đi hấp khử trùng   ở 1210C, 1 atm trong 40 phút. Các bước tiến hành nuôi cấy trong hệ thống bioreactor   đã được trình  bày ở trên. Đồng thời tiến hành nuôi cấy trên môi trường agar truyền thống với thể  tích bình và môi trường tượng tự  như  trong hệ  thống bioreactor là 3 lít (thể  tích  bình)và 1 lít (thể  tích môi trường) để  làm mẫu đối chứng. Tất cả  các thí nghiệm  đều được theo dõi và tiến hành lấy số liệu sau 6 tuần nuôi cấy. Kết quả thu nhận   phôi và PLB thông qua các chỉ số sau: Trọng lượng tươi, hệ số tăng sinh, tỉ lệ sống,  số lượng, đường kính của phôi và PLB được hình thành.   Xử lý số liệu  Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, kết quả thí nghiệm được phân tích bằng   Duncan, s test ( Ducan, 1995) với α = 0,05 .  2.5.  Kết quả các thí nghiệm  2.5.1.  Nhân giống Hồ Điệp lai từ trục phát hoa [4] Hai tuần sau, các chồi nguyên vẹn phồng lên và phát triển thành tước, trong  khi các chồi bị chấn thương đã phát triển thành mô sẹo. Từ 6­8 tuần người ta có thể  quan sát thấy các chồi bất định nhỏ màu xanh, trên mô sẹo. Kết quả thấy rằng mặt   cắt nghiêng 2/3 chồi và đâm dọc chồi được coi là phương pháp tốt nhất. Mặc dù   phần lớn chồi phát sinh bất định từ  mô sẹo, vẫn có một ít phát sinh không bất định  từ các chồi bên còn lại trên mặt chấn thương. Sau 10 tuần lễ các chồi bất định vừa đủ  lớn thì không lấy ra được, biểu hiện  lúc các lá hình thành chồi đạt được chiều dài 5­10 mm và rễ  bắt đầu xuất hiện .  Cây con được lấy ra trong điều kiện vô trùng, được trồng trên môi trường Knudson  C và xử lý như cây con trồng hạt. Khi cây con được lấy ra, các chồi khác vẫn được   hình thành và phát triển.Tuy nhiên, nếu để một số lượng quá nhiều trên một mắt thì   các chồi lớn cản trở sự phát triển các chồi nhỏ. Để đảm bảo các chồi phát triển liên   tục ta cấy chuyền các khúc mắt lúc đầu sang môi trường mới khi các chồi đựơc lấy  ra hoặc khi môi trường khô và cạn chất dinh dưỡng. SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         16
  17. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp                          Hình 4: Sự hình thành chồi sinh dưỡng từ phát hoa.[6] 2.5.2. Gieo hạt lan Hồ Điệp nảy mầm trong điều kiện invitrro [3] Các nhà khoa học đã tiến hành thí nghiệm trên một số  giống lan Hồ  Điệp  nhằm tìm được tuổi quả  thích hợp và loại môi trường nuôi cấy tối  ưu cho việc   nhân giống bằng gieo hạt. Kết quả nghiên cứu được trình bày ở  bảng 4 và bảng 5  dưới đây: Bảng 4: Ảnh hưởng của các tuổi khác nhau tới quá trình nảy mầm. Thời   gian  Chỉ tiêu theo dõi Tỷ   lệ   nảy  Chất  nảy   mầm  Công thức mầm (%) lượng mẫu (ngày) 70   ngày   sau   thụ  Hạt chết sau 4 ngày gieo phấn 80   ngày   sau   thụ  35 60 + phấn 90   ngày   sau   thụ  32 75 ++ phấn     100 ngày sau thụ phấn 25 95 +++     120 ngày sau thụ phấn 22 100 +++ Các kết quả ở bảng 4 cho thấy: Chỉ sau khi thụ phấn >100 ngày thì hạt lan Hồ  Điệp mới đủ độ chín và có khả năng nảy mầm cao nhất . SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         17
  18. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp                      Hình 5:  Hạt lan nảy mầm trong điều kiện in vitro. [12] Kết quả ở bảng 5 chứng tỏ rằng : Tất cả các công thức bổ sung các chất hữu  cơ tự  nhiên  ở dạng riêng lẽ  hay tổng hợp đều có thể  rút ngắn thời gian nảy mầm   của hạt so với cây đối chứng từ 5­10 ngày. Môi trường bổ sung thêm khoai tây tỏ ra   hiệu quả  nhất, chỉ  sau 20 ngày các hạt đã nảy mầm và chất lượng chồi đạt được  rất tốt. Trong khi đó trên tất cả môi trường  có bổ sung cà rốt chỉ có 15­60 % số hạt   nảy mầm và chất lượng mẫu hình thành rất xấu. Như  vậy, sử  dụng môi trường   nền VW có bổ  sung : (100ml ND +10g đường +1g pepton +30g khoai tây + 6,5g   agar) / l để  gieo hạt là tốt nhất. Bảng 5: Ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy lên sự nảy mầm của hạt lan.         Chỉ tiêu Thời   gian              theo Tỷ   lệ   nảy  Chất  nảy mầm của hạt                       dõi hạt mầm (%) lượng mẫu (ngày) Công thức  I (Đ/C ) 30 50 + I +30g KT 20 100 +++ I +30g CR 25 60 + I + 50gKT 20 100 +++ I + 50g CR 25 55 + I + 100g KT 20 100 +++ SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         18
  19. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp I + 100g CR 25 45 + I   +   30gKT   +30g  ++ 25 75 CR I+50gKT+50g CR ++ 25 70 I+100gKT+100g  ++ 25 70 CR Ghi chú :  I :VW + 100ml ND +10g đường  + 1g pepton  + 6,6g agar. KT : Khoai tây, CR: Cà rốt, ND: Nước dừa. + :  Thể Protocorm nhỏ ,có máu xanh vàng. ++: Thể Protocorm nhỏ ,có máu xanh  nhạt. +++ : Thể Protocorm phồng to rất đều nhau có màu xanh đậm. Gieo   sau   20   ngày   hạt   nảy   mầm,   sau   50­60   ngày   hình   thành   thể   tiền   chồi   (Protocorm) kích  thước 1­2 mm. Sau đó, chuyển các thể tiền chồi sang môi trường :   VW + (100ml ND +10g  đường +1g pepton +30g khoai tây + 6,5g agar +30g cà rốt) /   l để hình thành các cây non có 2­3 lá sau 60 ngày. Tiếp tục cấy chuyền cây non sang  chín môi trường này, khoảng  60 ngày sẽ tạo cây hoàn chỉnh đạt tiêu chuẩn chuyển   ra vườn ươm. Vì vậy, thời gian ra cây sau khi gieo là khoảng 6 tháng. 2.5.3.  Ứng dụng hệ  thống nuôi cấy ngập chìm trong nhân giống Hồ  Điệp lai   [2] 2.5.3.1.   Khảo sát sự nhân nhanh PLBs trong các hệ thống nuôi cấy khác nhau Chu kỳ  ngập chìm, mật độ  và thể  tích môi trường sử  dụng trong hệ thống TIS có  tác động rất lớn đến chất lượng mẫu cấy . Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao nhất   khi sử dụng hệ thống TIS trong quá trình nhân PLBs, cần khảo sát và tối ưu hóa các  thông số  về  mật độ, thể  tích và chu kỳ  ngập chìm của hệ  thống TIS. Sau 6 tuần  nuôi cấy tiến hành ghi nhận các. Bảng 6: Kết quả  khảo sát mật độ  PLBs thích hợp cho việc nhanh trên hệ  thống  TIS.  SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         19
  20. Các Phương Pháp Nhân Giống In Vitro Lan Hồ Điệp Nghiệm  Trọng lượng  Số   lượng   PLBs/  Số chồi Nhận xét thức tươi (g ) 1g PLBs ban đầu PLBs   xanh   tốt,  tròn,   từng   cụm.  11,25   ±   Một số  PLBs phát  2g 973,27 ± 30,68ab 19,58 ± 4,79 1,87 triển   thành   chồi.  Không   gian   TIS  còn trống PLBs   xanh   tốt,  tròn, một số  PLBs  23,05   ±   1020,11 ± 110,36 4g 36,31 ± 6,91 phát   triển   thành  4,65 a chồi.   Không   gian  TIS còn trống  PLBs   xanh   tốt,  tròn, một số  PLBs  40,15   ±   984,60 ± 116,54a 6g 73,21 ± 6,99 phát   triển   thành  5,08 b chồi.   Không   gian  TIS còn trống . PLBs   không   được  tròn, hơi vàng chồi  53,30   ±   8g 753,26 ± 151,81b 113,25 ± 8,91 nhiều,   lá   chồi   bị  6,80 vàng.   Chật   kín  không gian TIS Kết quả cho thấy nghiệm thức sử dụng 6g PLBs cho kết quả tạo 986,35 PLBs   tính trên 1g PLBs ban đầu và sau 6 tuần nuôi cấy lượng PLBs tạo thành vừa đủ lấp   kín không gian bình TIS, PLBs có màu xanh tốt, dạng tròn . Mật độ này là thích hợp   nhất cho việc nhân PLBs trong bình TIS. Khi sử dụng 6g PLBs để nuôi cấy trong bình Plantimia có chứa môi trường để  nhân PLBs có thể tích là 200ml,  nhóm nghiên cứu đã nhận thấy rằng:  Thời gian ngập chìm 10 phút với chu kỳ 1 giờ cho hệ số nhân PLBs tăng  nhiều (8545 PLBs) so với chu kỳ  2 giờ ngập một lần, nhưng PLBs ch ủ  yếu  ở  dạng trong, mọng nước rất khó chuyển sang dạng chồi để  phát  triển thành cây hoàn chỉnh. Như vậy tần số ngập chìm cao đã gây ra hiện  thủy tinh thể cho mẫu cấy .  Thời gian ngập chìm 10 phút với chu kỳ 2 giờ, các PLBs bị trương to hơn   bình thường.  SVTH: Bùi Thị Thu Nhi                             Lớp 07S1                                                         20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2