intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài " Cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong bối cảnh ổn định kinh tế vĩ mô "

Chia sẻ: Phung Thanh Loan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:70

276
lượt xem
86
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dự trữ ngoại hối (DTNH) ra đời cùng với chế độ đồng bản vị vào cuối thế kỷ XVIII, nhưng để có thể hiểu rõ hơn về quá trình hình thành của dự trữ ngoại hối, chúng ta sẽ nhìn lại quá khứ trước đó, thời kỳ gắn liền với chế độ bản vị hàng hoá. Từ thời cổ đến thời cận đại, thương mại quốc tế hoạt động trên cơ sở bản vị hàng hóa, trong đó, kim loại (chủ yếu là vàng và bạc) là hàng hóa được đúc thành các khối với chức năng làm phương tiện...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài " Cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong bối cảnh ổn định kinh tế vĩ mô "

  1. Đề tài Cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong bối cảnh ổn định kinh tế vĩ mô 1
  2. Lời mở đầu ................................ ................................ ................................ ...................... 3 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI ............................ 3 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của dự trữ ngoại hối................................ ................. 3 1.2. Các khái niệm cơ bản ................................ ................................ ................................ 8 1.3. Vai trò của dự trữ ngoại hối ................................ ................................ .................... 11 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối của Quốc gia................................ ...... 14 CHƯƠNG II DỰ TRỮ NGOẠI HỐI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH: KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM ................................ ................................ .. 21 2.1. Bài học kinh nghiệm về dự trữ ngoại hối Thái Lan trong khủng hoảng châu Á 1997 ................................ ................................ ................................ ................................ ...... 21 2.2. Bài học từ dự trữ ngoại hối Trung Quốc................................ ................................ .. 31 2.3. Kinh nghiệm quản lý dự trữ ngoại hối của một số quốc gia khác............................. 49 CHƯƠNG III DỰ TRỮ NGOẠI HỐI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .. 54 3.1. Thực trạng dự trữ ngoại hối Việt Nam ................................ ................................ .... 54 3.2. Đánh giá thực trạng chính sách quản lý dự trữ ngoại hối Việt Nam ......................... 70 2
  3. Lời mở đầu CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại hối (DTNH) ra đời cùng với chế độ đồng bản vị vào cuối thế kỷ XVIII, nhưng để có thể hiểu rõ hơn về quá trình hình thành c ủa dự trữ ngoại hối, chúng ta sẽ nhìn lại quá khứ trước đó, thời kỳ gắn liền với chế độ bản vị hàng hoá. 1.1.1. Chế độ bản vị hàng hoá Từ thời cổ đến thời cận đại, thương mại quốc tế hoạt động trên cơ sở bản vị hàng hóa, trong đó, kim loại (chủ yếu là vàng và bạc) là hàng hóa được đúc thành các khối với chức năng làm phương tiện trao đổi và lưu thông trong nền kinh tế. Trong thời kì đầu, tiền kim loại được đúc chủ yếu dưới dạng tùy ý hoặc thành những thỏi hay những chiếc vòng, về sau những phát kiến đã tiêu chuẩn hóa tiền tệ về trọng lượng, chất lượng kim loại và nhãn mác. Những đồng xu mang những dấu hiệu về giá trị theo trọng lượng và chất lượng kim loại, đồng thời chất lượng của các đồng xu được quốc gia bảo hộ. Do đó, hệ thống tiền đúc (tiền xu) đã tạo điề u kiện cho các giao dịch và giúp những nhà buôn tiết kiệm được thời gian trong việc nhận dạng, định lượng và đánh giá chất lượng kim loại. Trong lịch sử, vàng và bạc luôn là hai kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn hẳn các kim loại khác bởi những đặc tính của chúng đã đáp ứng được những gì mà một đồng tiền hàng hóa cần có. Không những thế, sự chấp nhận rộng rãi vàng và bạc như là tiền còn được củng cố từ thực tế là các kim loại này có giá trị sử dụng phi tiền tệ trong các ngành công nghiệp và trang sức. Chính vì sự thống nhất giá trị đồng tiền theo trọng lượng và giá trị của các kim loại mà trong thời kì này, dự trữ ngoại hối không có ý nghĩa do đồng tiền mỗi nước đều được chấp nhận rộng rãi và có thể quy đổi theo giá trị mà nó chứa đựng. 3
  4. Chế độ bản vị hàng hóa này đã bị sụp đổ do quy luật Gresham “Đồng tiề n xấu đuổi đồng tiền tốt” (Bad money drives out good money). Ở dạng tinh khiết, chế độ bản vị hàng hóa hoạt động trên cơ sở giá trị đầy đủ của các đồng xu, tức là giá trị tiền tệ của chúng cũng là giá trị kim loại của đồng xu. Tuy nhiên, sau một thời gian, khi các quốc gia ngày càng thường xuyên giả m tỷ trọng của vàng hay bạc trong các đồng xu, đã dẫn đến hiện tượng, đồng tiền xấu được ưu tiên sử dụng hơn đồng tiền đầy đủ giá trị, đẩy đồng tiền tốt này ra khỏi lưu thông. 1.1.2. Chế độ đồng bản vị (Từ 1792 đến nửa cuối thế kỷ XIX) Thời kỳ này dự trữ ngoại hối chính thức xuất hiện và tài sản trong dự trữ chủ yếu là vàng và bạc, chế độ đồng bản vị ra đời gắn liền với Luật đúc tiền năm 1792 ở Mỹ, khi giá trị của đồng đô la M ỹ được gắn cố định với vàng và bạc. Từ đó xuất hiện tỷ lệ trao đổi cố định giữa vàng và bạc. Tuy nhiên, do giữa các quốc gia, tỷ lệ trao đổi này là khác nhau đã dẫn đến hiện tượng, ở các quốc gia này các đồng tiền được định giá cao thấp khác nhau. Vàng chảy ra khỏi những nước nào mà nó bị định giá thấp và chảy vào những nước nào được định giá cao. Chính vì thế, trên thực tế, chế độ đồng bản vị đã hoạt động như chế độ đơn bản vị. Tuy nhiên trong thời kỳ này, dự trữ của các nước chủ yếu vẫn là vàng và bạc, đồng thời là tiền tệ của các quốc gia khác do những đồng tiền này đã được đảm bảo bằng vàng và bạc và được chuyển đổi tự do ra vàng và bạc. 1.1.3. Chế độ bản vị vàng ( Từ cuối thế kỷ XIX đến 1924) Chế độ bản vị vàng được áp dụng sớm ở Anh trong hầu hết thế kỷ XIX (1816) và ở các nước khác vào cuối thế kỷ này. Trong chế độ bản vị vàng, giá trị của các đồng tiền được các nước ấn định cố định với vàng và các đồng tiền được sẵn sàng trao đổi với vàng tại mức cố định đó. Chính vì thế, dự trữ ngoại hối của các nước trong thời kỳ này chủ yếu là vàng. Xuất khẩu và nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do. Do đó đã xuất hiện tỷ giá giữa các loại tiền tệ gắn liền với bản vị vàng. Ngoài ra, một trong những điều đáng chú ý trong chế độ bản vị vàng là NHTW các nước phải duy trì một lượng vàng dự trữ trong mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành, số vàng dự trữ này cho phép các NHTW chuyển đổi tiền ra vàng mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Như vậy mức cung tiền của nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào lượng vàng dự trữ của một quốc gia. Nguồn vàng của các quốc gia có được chủ yếu từ ngành khai khoáng trong nước, ngoài ra do thặng dư thương mại trong thanh toán quốc tế. 4
  5. Trong thời kì hoàng kim của chế độ bản vị vàng (1880-1924), hệ thống tiền tệ thế giới hoạt động có trật tự. Tiền tệ của các quốc gia luôn hoạt động thống nhất bên cạnh nhau. Trong thời kì này, nước Anh có ảnh hưởng đặc biệt đến nền kinh tế thế giới cũng như có vai trò quan trọng trong đầu tư và thương mại quốc tế. Chính vì thế bảng Anh đã trở thành phương tiện thanh toán quốc tế rộng rãi và là đồng tiền chính tronh dự trữ ngoại hối của các nước để hỗ trợ bản vị vàng cho đồng tiề n của nước mình. Những cam kết của chính phủ các nước, đặc biệt là chính phủ Anh, về việc duy trì lâu dài sự chuyển đổi các đồng tiền ra vàng theo bản vị cố định đã tạo ra lòng tin vào hệ thống này. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra năm 1914 đã buộc các nước chấm dứt chuyển đổi đồng tiền của mình ra vàng. Hệ thống tỷ giá cố định đã hoạt động trong 35 năm nhường chỗ cho hệ thống tỷ giá thả nổi. Nguyên nhân là do trong Chiến tranh thế giới Thứ nhất, các chính phủ đã thay đổi chính sách tiền tệ nhằ m tài trợ cho chiến tranh. Lạm phát bùng nổ ở các nước châu Âu. Với lợi thế trong chiến tranh cũng như không chịu lạ m phát cao như các nước châu Âu, sức cạnh tranh thương mại của Mỹ tăng lên nhanh chóng. Hơn nữa, đô la được chuyển đổi ra vàng trong khi đó các đồng tiền khác thì không đã làm tăng sự hấp dẫn đầu tư vào các tài sản ghi bằng đô la. Đô la ngày càng trở thành đồng tiền có vị thế trong các giao dịch quốc tế. Sau chiến tranh, hầu hết đồng tiền các nước châu Âu tiếp tục bị phá giá và thả nổi so với đô la. 1.1.4. Chế độ bản vị hối đoái vàng (Từ 1925 đến 1931) Trên danh nghĩa thì thời kỳ này vẫn được coi là thời kỳ của chế độ bản vị vàng, năm 1925 nước Anh lại quay trở lại ấn định bản vị vàng ở mức giống như trước chiến tranh xảy ra (1913). Việc một số đồng tiền trở lại chế độ bản vị vàng đã làm hồi sinh chế độ này. Tuy nhiên chế độ này đã hoạt động không ổn định như trước chiến tranh. Dự trữ ngoại hối của nhiều nước trong thời kì này đã có sự thay đổi, chuyển từ vàng sang các ngoại tệ có thể chuyển đổi ra vàng như bảng Anh, và đặc biệt là đô la Mỹ. Cuộc đại suy thoái kinh tế vào năm 1929 – 1933 đã khiến chế độ bản vị vàng vừa quay trở lại đã không kéo dài được lâu. Hệ thống tiền tệ thế giới không còn liên kết được với nhau với sự xuất hiện nhiều khối tiền tệ. Yêu cầu được đặt ra là 5
  6. tái thiết lại hệ thống tiền tệ thế giới, một trong những kết quả là sự ra đời của hệ thống Bretton Woods. 1.1.5. Hệ thống Bretton Woods (Từ 1944 đến 1971) Hệ thống Bretton Woods ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II, dự trữ ngoại hối của các nước trong thời kỳ này chủ yếu là vàng và USD. Một trong những đặc điể m quan trọng nhất của hệ thống này là hệ thống chế độ tỷ giá là cố định nhưng có thể điều chỉnh. Trong đó mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá trung tâm với USD và được phép dao động trong biên độ ±1%. Tỷ giá của USD tự nó được cố định với giá vàng là $35/ounce. Bởi lẽ trong thời gian này, Mỹ đang nắ m tới 70% dự trữ vàng của thế giới, và việc gắn đồng đô la vào vàng đã tạo ra niềm tin vào hệ thống này. Chính vì vị thế quan trọng của USD trong giai đoạn này cũng như việc gắn giá trị và cam kết chuyển đổi ra vàng không hạn chế nên USD đã trở thành đồng tiền hàng đầu trong dự trữ của các nước. Những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ bội thu cán cân vãng lai trong khi các nước, đặc biệt là châu Âu bị thâm hụt nặng nề, nhu cầu USD tăng lên mạnh mẽ. Để giúp tái thiết châu Âu, Mỹ đã trợ cấp các nước châu Âu thông qua gói cứu trợ Marshall. Đồng thời, do cán cân thanh toán của các nước châu Âu liên tục thâm hụt nên một loạt những đồng tiền đã được chấp nhận phá giá như Anh, Pháp.. Tuy nhiên, bước sang những năm 1950 trở đi, cán cân cơ bản của Mỹ từ chỗ thặng dư sau chiến tranh đã dần dần trở nên thâm hụt. Ban đầu mức thâm hụt này chưa đáng lo ngại khi Mỹ vẫn đủ lượng vàng để đảm bảo cho các tài sản nợ bằng đô la Mỹ. Tuy nhiên, càng ngày tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán của M ỹ càng trở nên đáng lo ngại, đặc biệt là từ 1958 - 1961. Trong quá trình tích lũy USD, nhiều NHTW nước ngoài đã tiến hành chuyển đổi USD dự trữ của mình ra vàng, dòng vàng chảy ra khiến Mỹ phải quan tâm đến tình trạng này, trong đó có sự ra đời của “Thỏa thuận chung về vay mượn” và việc thỏa thuận của NHTW các nước về việc ngừng chuyển đổi đồng đô la ra vàng. Từ giữa những năm 60s, cùng với cuộc chiến tranh Việt Nam, cán cân thanh toán của Mỹ ngày càng xấu đi, đồng USD và một số đồng tiền khác đang bị coi là được định giá quá cao so với giá trị thực. Làn sóng đầu cơ vào những đồng tiền xuất hiện, trong đó có đô la M ỹ. Vào năm 1971, hoạt động đầu cơ tấn công vào đồng USD trở nên mạnh mẽ, làm cho USD ngày càng bị định giá quá cao, khiến áp 6
  7. lực phá giá đồng USD (so với vàng) tăng lên. Trước những áp lực đầu cơ ngày càng tăng, buộc nước Mỹ vào ngày 15/8/1971 đã chính thức công bố “đồng USD không tiếp tục được chuyển đổi ra vàng nữa” cũng như áp đặt các hàng rào thuế quan đối với hàng nhập khẩu. Mục đích là nhằ m buộc các nước phải nhanh chóng nâng giá đồng tiền của mình so với USD. Trước động thái của Mỹ nhằm cho phép thả nổi tỷ giá và đồng ý tự do hóa thương mại hơn nữa, cũng như thực tế sự chênh lệch về tỷ lệ lạm phát giữa các nước công nghiệp ngày càng lớn và tình trạng cán cân của Mỹ ngày càng trở nên xấu đi, từ năm 1972 đến đầu những năm 1973, một loạt đồng tiền đã tuyên bố thả nổi với đồng đô la. Hệ thống Bretton Woods sụp đổ. 1.1.6. Chế độ bản vị tiền giấy không chuyển đổi ra vàng (Từ 1973 đến nay) Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ cho đến đầu những năm 90s, hệ thống tiền tệ thế giới trải qua nhiều biến động. Từ cú sốc cung dầu mỏ lần thứ nhất năm 1973, lần thứ hai năm 1978, những sự thay đổi trong các chính sách của IMF, sự hùng mạnh của đồng USD trong những năm 1980 – 1985 đã ảnh hưởng nhiều đến dự trữ ngoại hối của các nước. Trong dự trữ ngoại hối, các tài sản bằng USD vẫn được nắm giữ hàng đầu, ngoài ra là những đồng tiền mạnh như Yên Nhật, Mác Đức, Franc Pháp và đồng bảng Anh. Cũng trong giai đoạn những năm 90s, những tiền thân cho việc hình thành một cộng đồng chung châu Âu đã ra đời, trong đó có sự liên minh về tiền tệ giữa các nước châu Âu nhằ m ổn định tỷ giá, tăng cường khả năng lưu chuyển vốn giữa các nước trong châu Âu đã được thiết lập. Trên nền tảng những liên minh đó, ngày 1/1/1999, đồng tiền chung châu Âu, Euro, trở thành tiền tệ chính thức. Với ảnh hưởng kinh tế và thương mại quốc tế, đồng Euro ngày càng trở thành một trong những đồng tiền chủ chốt trong dự trữ ngoại hối của các nước. Theo một bản nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu tỷ lệ của đồng Euro trong dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu tăng từ 13% trong năm 2001 lên 16,4% trong năm 2002 và đến 18,7% trong năm 2003, cũng trong cùng thời gian này tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ giả m từ 68,3% (2001) xuống 67,5% (2002) và trong năm 2003 còn 64,5%. Trong dự trữ ngoại hối của thế giới hiện nay, những đồng tiền chủ chốt là USD, Euro, bảng Anh, Franc Thụy Sỹ và Yên Nhật. 7
  8. Như vậy, trong quá trình phát triển của dự trữ ngoại hối, đây luôn là quỹ sử dụng trước hết với mục đích thanh toán quốc tế. Chính vì thế, không có gì ngạc nhiên khi cơ cấu dự trữ ngoại hối luôn là những phương tiện thanh toán được chấp nhận rộng rãi bởi nhiều quốc gia, có giá trị ổn định, được đảm bảo bởi vai trò kinh tế của của các quốc gia phát hành. 1.2. Các khái niệm cơ bản 1.2.1. Ngoại hối “Ngoại hối” (the foreign exchange) bao gồm các phương tiện thanh toán có giá trị được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Trong đó, phương tiện thanh toán là những thứ có sẵn để chi trả, thanh toán lẫn cho nhau. Theo Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 c ủa Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước CHXNCN Việt Nam, tại Điều 4, khoản 1 có quy định: Ngoại hối bao gồ m: a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ); b) Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác; c) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiế u công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác; d) Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam; đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Khái niệm ngoại hối thường được hiểu theo luật định và khá thống nhất giữa các quốc gia. 1.2.2. Dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại hối là một quỹ dự trữ vô cùng quan trọng mà hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều phải duy trì và sử dụng. Vậy dự trữ ngoại hối là gì? 8
  9. (+) Trong Cẩm nang Cán cân Thanh toán Quốc tế, IMF định nghĩa Dự trữ ngoại hối là toàn bộ tài sản bằng ngoại hối sẵn sàng sử dụng để can thiệp, thể hiệ n trên bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. (+) Theo Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 c ủa Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước CHXNCN Việt Nam, tại Điều 4, khoản 19 có viết: “Dự trữ ngoại hối nhà nước là tài sản bằng ngoại hối thể hiện trong bảng cân đố i tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.” (+) Theo Nghị định của Chính phủ số 86/1999/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 1999 về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước, tại Điều 1 có quy định: Dự trữ ngoại hối nhà nước là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước được thể hiện trong bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước. Rõ ràng là khái niệm về dự trữ ngoại hối khá trùng khớp với nhau dù được trích dẫn theo nguồn nào. Do đó, các thành phần của dự trữ ngoại hối cũng được các quốc gia thống nhất một số khoản mục sau: Dự trữ ngoại hối nhà nước bao gồ m: - Ngoại tệ tiền mặt, số dư ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi ở nước ngoài; - Hối phiếu và các giấy nhận nợ của nước ngoài bằng ngoại tệ; - Các chứng khoán nợ do Chính phủ, ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ hoặc ngân hàng quốc tế phát hành, bảo lãnh; - Vàng tiêu chuẩn quốc tế; - Các loại ngoại hối khác. Hiện nay, quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam được lập thành hai quỹ là quỹ dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng. 1.2.3. Đánh giá quy mô dự trữ ngoại hối Việc xác định qui mô của dự trữ ngoại hối như thế nào là phù hợp còn tuỳ thuộc vào nhu cầu của mỗi nước. Nếu chỉ đảm bảo các nhu cầu giao dịch thông 9
  10. thường thì các NHTW thường xác định mức dự trữ ngoại hối tương đương một số tuần và tháng nhập khẩu nhất định. Trong trường hợp NHTW muốn theo đuổi chính sách tỷ giá cố định thì đòi hỏi phải có một qui mô dự trữ lớn hơn nhiều. Với cơ chế tỷ giá mang tính cố định, nếu không có lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn để can thiệp kịp thời vào thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái trở nên biến động, không đảm bảo cho NHTW ổn định tỷ giá. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước Để đo lường quy mô dự trữ ngoại hối của một quốc gia, xác định mức dự trữ đó là đủ hay còn thiếu, người ta sử dụng một số chỉ tiêu chủ yếu sau: - Tỷ lệ dự trữ ngoại hối/Giá trị 1 tuần nhập khẩu trong năm tiếp theo Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng thanh toán của quốc gia nhằm tài trợ cho nhu cầu nhập khẩu sắp đến. Thông thường hiện nay, dự trữ của một quốc gia đáp ứng được 12-14 tuần nhập khẩu thì được đánh giá là đủ. - Tỷ lệ dự trữ ngoại hối/Nợ ngắn hạn nước ngoài. Chỉ tiêu này chủ yếu được dùng để đo lường khả năng trả nợ ngắn hạn và chống đỡ đối với các cuộc tấn công tiền tệ hoặc đối với việc rút vốn ào ạt ra khỏ i một quốc gia. Để đạt tiêu chuẩn, tỷ lệ này phải lớn hơn 1, nghĩa là dự trữ ngoại hố i một quốc gia ít nhất phải lớn hơn tổng nợ ngắn hạn nước ngoài thì mới đảm bảo tính thanh khoản của quốc gia đóc trước các chủ nợ nước ngoài. - Tỷ lệ dự trữ ngoại hối/mức cung tiền rộng M2 Tỷ lệ này theo chuẩn quốc tế là từ 10 đến 20%. Tuy nhiên, theo nhiề u nghiên cứu thì tỷ số dự trữ trên M2 lại không có mối tương quan cao với tỷ số dự trữ so với nợ ngắn hạn. Do đó, một tỷ lệ dự trữ so với M2 cao hay thấp không nhất thiết phải dẫn đến sự biến động tương ứng trong tỷ lệ dự trữ so với nợ. Tỷ lệ DTNH/M2 có tầm quan trọng đặc biệt ở những quốc gia có khả năng thất thoát vố n trong nước do hệ thống ngân hàng quá yếu kém hoặc chính sách điều hành tỷ giá cứng nhắc theo kiểu cố định. 10
  11. 1.3. Vai trò của dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại hối ngày càng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia. Có nhiều yếu tố cấu thành lên tầm quan trọng của dự trữ ngoại hối, nhưng một số yếu tố chủ yếu là: 1.3.1. Dự trữ ngoại hối dùng để giải quyết các khoản nợ và các khoản thanh toán quốc tế giữa chính phủ các nước. Trong quá trình phát triển, các nước thường xuyên thiếu vốn. Chính vì thế, vay nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng. Nguồn vốn vay này thường dùng chi cho cơ sở hạ tầng, chi tiêu chính phủ và trợ cấp xã hội. Dự trữ ngoại hối góp phần làm tăng khả năng trả nợ của một quốc gia. Thông qua mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối, ta có thể đánh giá được khả năng thanh toán của quốc gia đó. Nếu khả năng thanh toán tốt sẽ là một trong những điều kiện làm tăng hệ số tín nhiệm quốc gia. Với lượng lớn DTNH, các nước có thể sử dụng sức mạnh dự trữ này để yêu cầu giảm giá hàng hóa với hàng mua lượng lớn đồng thời giảm lãi suất khi đi vay, từ đó giúp tăng khả năng thu hút các dòng vốn nợ của nước ngoài. Đây là một trong những nguồn vốn quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước, đặc biệt đố i với những nước đang phát triển. 1.3.2. Dự trữ ngoại hỗi giúp quốc gia tăng khả năng can thiệp vào thị trường ngoại hối DTNH giúp điều chỉnh các dòng chu chuyển tiền tệ, giúp ổn định tỷ giá hối đoái, cung cấp một môi trường kinh tế thuận lợi hơn, đặc biệt cho mục đích xuất nhập khẩu. Đây là vai trò chính của dự trữ ngoại hối. Với chức năng như một quỹ bình ổn của nền kinh tế, dự trữ ngoại hối góp phần làm ổn định cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Chính sách này hết sức linh hoạt tùy thuộc vào từng quốc gia cũng như trong từng giai đoạn khác nhau. Để làm cho đồng nội tệ mạnh hơn và ổn định hơn, các quốc gia có thể dùng dự trữ ngoại hối để mua đồng nội tệ vào, từ đó làm tăng cầu nội tệ và xác định giá trị cao hơn cho nó. Ngược lại, nếu muốn hạ thấp giá trị của đồng nội tệ, thúc đẩy xuất khẩu, các nước có thể dùng dự trữ để mua những ngoại tệ khác, thay đổi cơ cấu trong dự trữ của mình, làm tăng cầu ngoại tệ, tác động gián tiếp đến đồng nội tệ. Đây cũng là cơ chế chống giảm phát trong nền kinh tế. 11
  12. Ngoài ra, đồng tiền định giá thấp còn giúp thu hút các nhà đầu tư chứng khoán do các loại chứng khoán rẻ hơn so với thị trường quốc tế. Chính vì thế, để thu hút các khách hàng và nhà đầu tư nước ngoài, một nước có thể dùng dự trữ ngoại hối để làm định giá thấp đồng tiền của mình. E D1 D2 E1 E2 S Q (nội tệ) Q1 Q2 Hình 1. Hình 1. Dùng dự trữ ngoại hối mua đồng nội tệ làm tăng cầu nội tệ, khiến cho giá nội tệ tăng lên. E S E2 E1 D2 D1 Q (ngoại tệ) Q1 Q2 12
  13. Hình 2 Hình 2: Dự trữ ngoại hối mua ngoại tệ làm tăng cầu ngoại tệ, khiến tỷ giá tăng lên. 1.3.3. Dự trữ ngoại hối bảo vệ nền kinh tế Dự trữ ngoại hối của một quốc là một tấm lá chắn giúp bảo vệ nền kinh tế của đất nước chống lại những cuộc tấn công đầu cơ vào đồng nội tệ và bảo vệ nề n kinh tế khi có khủng hoảng xảy ra. Ở những nước có dấu hiệu bất ổn về kinh tế và có dự trữ ngoại hối thấp, các quỹ đầu cơ thường nhằ m vào những yếu kém này để tiến hành đầu cơ với mục đích làm mất giá đồng bản tệ và thu lời. Thông qua những hợp đồng mua bán phái sinh tiền tệ, những tổ chức này gây nên hiện tượng khan hiế m giả tạo ngoại tệ trên thị trường. Khi đó, nếu dự trữ ngoại hối đủ mạnh, ngân hàng trung ương có thể can thiệp bằng cách bán ra ngoại tệ, giữ vững giá trị và ổn định của đồng nội tệ. Như vậy, dự trữ ngoại hối như một tấ m đệm giúp ổ n định lại thị trường, vô hiệu hóa sự tấn công của các quỹ đầu cơ này. Tương tự khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, các dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ ồ ạt chảy ra khỏi nền kinh tế, cung ngoại tệ trong nền kinh tế sẽ sụt giả m mạnh, dẫn đến nguy cơ phá giá đồng nội tệ, lạ m phát có thể gia tăng. Nếu nắ m giữ dự trữ ngoại hối đủ mạnh, ngân hàng trung ương các nước có thể can thiệp nhằ m bình ổ n tỷ giá cũng như thị trường ngoại hối. Từ đó góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế. 1.3.4. Dự trữ ngoại hối làm tăng vị thế quốc gia và doanh nghiệp DTNH thể hiện sức mạnh kinh tế của mộ quốc gia, làm tăng vị thế quốc gia và doanh nghiệp trên trường quốc tế, giúp mở rộng thương mại quốc tế, giả m chi phí tài chính doanh nghiệp trong nước, ngăn ngừa và giải quyết rủi ro tài chính quốc tế. Dự trữ ngoại hối giúp làm tăng niềm tin của những nhà đầu tư quốc tế vào thị trường trong nước khi mà những khoản đầu tư này được đảm bảo khả năng chuyển đổi khi quá trình đầu tư kết thúc. Chính vì thế, những nước có dự trữ ngoại hối lớn sẽ có lợi hơn trong thu hút đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, xây dựng dự trữ ngoại hối mạnh giúp các nước ở trong một vị thế tốt với các đồng minh và góp phần cân bằng kinh tế thế giới. 13
  14. 1.3.5. Tăng niềm tin vào các chính sách tỷ giá và tiền tệ của Chính phủ Dự trữ ngoại hối lớn giúp tăng niềm tin của người dân vào các chính sách tỷ giá và tiền tệ của chính phủ. Như đã phân tích ở trên, với những lợi ích đem lại, dự trữ ngoại hối giúp ổn định tâm lý người dân trong nước. Việc ổn định của thị trường cũng như tâm lý tin tưởng của người dân là một trong những điều kiện để các quy định và chính sách của nhà nước được thực thi có hiệu quả. Tuy nhiên, nắm giữ ngoại hối cũng có những chi phí nhất định. Dự trữ ngoại hối thường có những tiêu chuẩn nhất định, khi dự trữ vượt mức quá lớn, các nước có thể phải chịu những chi phí gọi là chi phí dự trữ ngoại hối. Thứ nhất, chi phí phát sinh từ rủi ro tỷ giá. Thị trường ngoại hối trên thế giới biến đổi không ngừng, trong đó có tỷ giá. Khi có biến động tỷ giá theo chiều hướng xấu, giá trị của nó sẽ giảm đi một cách tương đối khiến cho giá trị dự trữ giả m đi. Thậm chí, việc tỷ giá thay đổi có thể gây ra những khoản lỗ lớn mặc dù nền kinh tế không có khủng hoảng. Thứ hai, lạm phát. Ảnh hưởng của việc giảm sức mua đồng tiền trong dự trữ ngoại hối thường xuyên do lạm phát cũng làm giả m giá trị của nguồn dự trữ này. Chính vì thế, chính phủ các nước phải thường xuyên gia tăng dự trữ ngoại hối nhằ m duy trì sức mạnh ảnh hưởng của mình. Thứ ba, chi phí cơ hội. Nắm giữ ngoại hối thường là những tài sản an toàn, có khả năng sinh lời thấp như trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ hay của các địa phương. Việc nắm giữ dự trữ ngoại hối sẽ làm mất đi các cơ hội đầu tư có khả năng sinh lợi cao. Chính vì thế ngày nay các nước có dự trữ ngoại hối lớn thường đa dạng hóa các khoản đầu tư của mình, trong đó có những qu ỹ dành cho việc đầu tư vào những tài sản có khả năng sinh lời cao, tuy cũng phải chịu rủi ro lớn. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối của Quốc gia Dự trữ ngoại hối là một quỹ được hình thành từ rất nhiều nguồn và sự biế n động của bất cứ nguồn nào cũng làm ảnh hưởng đến lượng dự trữ ngoại hối. Bên cạnh đó dự trữ ngoại hối còn được quản lý bởi NHTW và Nhà nước nên mỗi động thái của các cơ quan này cũng ít nhiều tác động đến lượng dự trữ của quỹ. Sau đây là những nhân tố chính tác động đến dự trữ ngoại hối quốc gia. 14
  15. 1.4.1 Cán cân thanh toán quốc tế Theo định nghĩa của IMF, cán cân thanh toán quốc tế là một bản báo cáo thống kê ghi chép và phản ánh các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú. Nó cũng là một bảng thống kê chi tiết về các nguồn cung cầu ngoạ i tệ của một quốc gia. Khi có bất cứ một giao dịch nào phát sinh thì đồng thời trên cán cân thanh toán cũng ghi lại giao dịch đó là phát sinh cung hay cầu ngoại tệ. Tuy nhiên, cán cân thanh toán không chỉ phản ánh trạng thái ngoại tệ của một quốc gia mà một số cán cân thành phần còn có tác động trực tiếp đến nguồn cung hay cầu ngoại tệ, từ đó ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối của quốc gia. 1.4.1.1. Cán cân thương mại: Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn không cán cân thương mại thặng dư, nhỏ hơn không thì cán cân thương mại bị thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng không, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Nếu cán cân thương mại thặng dư sẽ có một lượng ngoại tệ chảy vào nền kinh tế, ngược lại, nếu cán cân thương mại thâm hụt, một lượng ngoại tệ sẽ đi ra. Do đó, cán cân thươ ng mại là một trong những nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cung dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, cán cân thương mại không phải là một yếu tố có thể tự biến đổi mà bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, vì thế những nhân tố đó có thể coi là có tác động gián tiếp đến dự trữ ngoại hối. Thứ nhất: năng lực sản xuất của quốc gia Một nước có nền kinh tế phát triển, tư liệu sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Khi đó không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hoá ra thị truờng thế giới. Dẫn đến kim ngạch xuất khẩu lớn hơn kim ngạch nhập khẩu. Ngoại tệ do các quốc gia khác thanh toán sẽ chảy vào. Ngược lại, với các quốc gia kém phát triển, kĩ thuật thô sơ, công nghệ lạc hậu, nhân lực yếu kém thì việc đáp ứng các nhu cầu trong nước cũng khó khăn nên sẽ phải nhập khẩu nhiều. Hơn thế nữa, các nước này lại không có 15
  16. được lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế đối với các sản phẩ m của mình nên kim ngạch xuất khẩu cũng thấp. Từ đó dẫn đến tình trạng nhập siêu, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng quy mô dự trữ ngoại hối. Thứ hai: các chính sách thương mại quốc tế của Nhà nước Các quyết định của Nhà nước có thể tác động đến mọi thành phần tham gia thương mại quốc tế. Hầu hết Chính phủ các quốc gia đều khuyến khích các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu.Các chính sách khuyến khích này phần nào tạo lợi thế cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước, làm sản lượng hàng hoá xuất khẩ u tăng, hạn chế nhập khẩu, từ đó cải thiện tình hình của cán cân thương mại và tăng cung ngoại tệ cho nền kinh tế. Thứ ba: hành vi hay thói quen của người tiêu dùng Một quốc gia có truyền thống sử dụng hàng nội địa sẽ không phải tốn kém một khoản ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa nước ngoài khi nền sản xuất trong nước hoàn toàn có thể đáp ứng được. Điều ngược lại xảy ra với những quốc gia mà dân chúng có tâm lý thích dùng hàng ngoại. Khi đó, dù hàng trong nước hoàn toàn có khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thì dân chúng vẫn lựa chọn hàng hoá nước ngoài do ý thích của mình. Một lượng ngoại tệ sẽ chảy ra khỏi quốc gia đơn giản chì vì thói quen tiêu dùng của người dân. Điều này còn đặc biệt có tác động xấ u đến dự trữ ngoại hối nếu như nguời dân có xu hưóng tiêu dùng những hàng hóa nhập ngoại xa xỉ vì khi đó nhập siêu là không thể tránh khỏi và lượng cầu ngoại tệ cho tiêu dùng sẽ rất lớn. 1.4.1.2. Cán cân vốn Cán cân vốn là một bộ phận của cán cân thanh toán, nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú với người không cư trú. 1.4.1.2.1. Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn bao gồm các khoản vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân (chiếm tỷ trọng lớn) và khu vực nhà nước nhưng dưới rất nhiều các các hình thức khác nhau: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, các hoạt động trên kinh doanh ngoại hối và giấy tờ có giá ngắn hạn kể cả các luồng vốn đầu cơ. 16
  17. Khi các luồng vốn chảy vào sẽ làm tăng cung ngoại tệ, từ đó có xu hướng làm tăng dự trữ ngoại hối. Ngược lại, các luồng vốn đi ra sẽ làm tăng cầu ngoại tê. Các luồng vốn ngắn hạn này phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố sau: Chênh lệch tỷ giá, tỷ suất lợi tức kỳ vọng ngắn hạn, lãi suất và các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế, chính trị - xã hội... Vì vậy, khi lợi tức kì vọng cao hay lãi suất cao sẽ thu hút được nhiều luồng vốn ngắn hạn chảy vào nhằ m đầu tư sinh lãi. Hoặc khi có biến động về tỷ giá, các luồng vốn này cũng sẽ tích cực tham gia thị trường nhằm tìm kiế m lợi nhuận. Một phần của luồng vốn này sẽ được chảy vào dự trữ ngoại hối ( tuỳ theo mục đích điều tiết của Nhà nước) làm tăng DTNH 1.4.1.2.2. Cán cân di chuyển vốn dài hạn Cán cân di chuyển vốn dài hạn bao gồ m các khoản vốn đi ra hay đi vào khu vực tư nhân và khu vực nhà nước dưới các hình thức đầu tư trực tiếp, gián tiếp và các hình thức đầu tư dài hạn khác. Tương tự như cán cân vốn ngắn hạn, việc đi vào hay đi ra của các nguồn vốn cũng làm phát sinh cung hay cầu ngoại tệ. Quy mô và tình trạng cán cân vốn dài hạn phụ thuộc vào các nhân tố như: Tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng dài hạn, hiệu quả biên của vốn đầu tư (MEI hay ICOR) và các yếu tố thuộc về môi trường đầu tư, sự ổn định về chính trị, xã hội. 1.4.2. Các chính sách tiền tệ, tỷ giá và các biện pháp quản lý ngoại hối của Nhà nước 1.4.2.1. Chính sách tỷ giá Là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện thường là NHTW) thông qua một cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp nhằ m duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến 1 mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Qua đó Nhà nước sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại. Nội dung chính của chính sách tỷ giá bao gồm: - Hành vi phá giá nội tệ, tức là những can thiệp của chính phủ để đồng nội tệ 17
  18. trở nên được định giá thấp hơn. Để đạt được mục đích này, chính phủ có thể sử dụng DTNH hấp thụ ngoại tệ trên thị trường ngoại hối nhằm làm giả m cung ngoại tệ đồng thời “bơm” nội tệ ra, động thái này sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối. - Hành vi nâng giá nội tệ, tức là những can thiệp của chính phủ để đồng nội tệ trở nên định giá cao hơn. Chính phủ có thể bán ngoại tệ ra thị trường ngoại hố i nhằ m tăng cung ngoại tệ, giả m lượng nội tệ, động thái này sẽ làm giảm dự trữ ngoại hối. - Hành vi duy trì tỷ giá ở một mức độ nhất định, bao gồm những can thiệp của chính phủ để duy trì tỷ giá là ổn định không đổi, để có thể duy trì một tỷ giá cố định, chính phủ phải không ngừng mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, điề u này làm thay đổi quy mô dự trữ ngoại hối. - Không can thiệp, để cho tỷ giá biến động tự do theo quan hệ cung cầu thị trường. Với chính sách này, Nhà nước không cần thiết sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp vào tỷ giá chính vì thế dự trữ ngoại hối không bị ảnh hưởng. 1.4.2.2. Chính sách quản lý dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại hối thuộc quyền quản lý của Nhà nước hoặc NHTW nhưng các cơ quan này không chỉ có nhiệm vụ bảo quản và cất giữ mà còn phải có những biện pháp quản lý nhằm đả m bảo quy mô và cấu trúc dự trữ ngoại hối. Hơn thế nữa, Nhà nước hoặc NHTW còn phải biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn đả m bảo an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Bên cạnh ban hành các đạo luật về quản lý dự trữ ngoại hối NHTW còn can thiệp mua bán, chuyển đổi cũng như đầu tư để chống thất thoát, xói mòn quỹ. Các quy định về kiều hối 1.4.2.3. Nếu một quốc gia có ý định kìm hãm lượng kiều hối sẽ ban hành chính sách, cơ chế về kiều hối với những biện pháp cứng rắn. Ví dụ như thủ tục để người trong nước có thể nhận đựoc kiều hối là rất phức tạp. Hơn thế nữa còn có các quy định về hạn mức và số lần nhận tiền. Điều này đã gây khó khăn cho những người được nhận kiều hối, tác động xấu đến dòng ngoại tệ nhận về theo cách này. Khi đó dự trữ ngoại hối sẽ mất đi một nguồn cung cấp. Tuy nhiên nếu quốc gia theo hướng tự do hoá, tháo gỡ hết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiếp nhận kiều hối. Đồng thời một loạt cơ chế mới về quản lý ngoại hối thông thoáng, linh hoạt được ban hành thì lượng kiều hối chuyể n vào sẽ tăng lên rõ rệt. 18
  19. 1.4.2.4. Các biện pháp quản lý ngoại hối khác Ngoài ra, các biện pháp quản lý ngoại hối khác của Nhà nước cũng có ảnh hưởng thường xuyên đến dự trữ ngoại hối. Các pháp lệnh hạn chế việc đầu tư nước ngoài vào quốc gia hay đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, hay các quy định kết hối, về việc sử dụng ngoại hối trong phạm vi lãnh thổ, …. sẽ có những tác động làm thay đổi quy mô cũng như cấu trúc của dự trữ ngoại hối quốc gia. 1.4.3. Biến động tỷ giá Sự thay đổi tỷ giá của các đồng tiền trong dự trữ ngoại hối sẽ làm thay đổ i giá trị của dự trữ ngoại hối khi quy đổi ra một đồng tiền nào đó làm thước đo. Giả sử đồng tiền làm thước đo được chọn là USD, nếu USD giảm giá so với các đồng tiền khác, khi đó giá trị tương đối giữa các đồng tiền đó với USD sẽ tăng lên, làm giá trị dự trữ ngoại hối được tính bằng USD tăng lên. Điều ngược lại xảy ra khi USD lên giá. 1.4.4. Tình hình kinh tế thế giới Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, mối liên hệ và sự trao đổi giữa các quốc gia ngày càng trở nên khăng khít. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, các nề n kinh tế không chỉ tác động qua lại lẫn nhau mà còn chịu ảnh hưởng không nhỏ từ sự biến động chung của tình hình thế giới. Khi nền kinh tế bị tác động, dự trữ ngoại hối của quốc gia cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Có thể phân những ảnh hưởng này ra làm 2 loại: Tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực 1.4.4.1. Những tác động tích cực là những tác động góp phần giúp chính phủ quản lý dự trữ ngoại hối một cách hiệu quả và dễ dàng hơn. Khi tình hình kinh tế thế giớ i biến đổi theo chiều hướng tốt giúp: Thứ nhất: tốc độ tăng trưởng các nước tăng cao, nhất là các nước đang phát triển, năng lực sản xuất tốt, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, giúp tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Thứ hai: tăng đầu tư, tăng dòng vốn từ nước ngoài chảy vào (đặc biệt là các nước đang phát triển). Những dòng vốn này có thể là : vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp, vay nợ … Tác động tích cực đến dự trữ ngoại hối. 19
  20. Thứ ba: Tiêu dùng tăng cao, khi nền kinh tế phát triển, thu nhập được cải thiện, người dân có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn, trong đó có việc tiêu dùng hàng nhập ngoại. Điều này có lợi cho những nhà xuất khẩu từ các nước đối tác, tăng thặng dư thương mại, cải thiện dự trữ ngoại hối. Ngoài ra, khi có biến động xảy ra (ví dụ như thiên tai, bão lũ, chiến tranh…) làm cho một số nước khan hiếm hàng xuất khẩu của nước sở tại, làm tăng cầu hàng hoá của nước này, điều này cũng góp phần cải thiện dự trữ ngoại hối của nước sở tại. Tác động tiêu cực 1.4.4.2. Ngược lại, khi nền kinh tế thế giới gặp khó khăn sẽ gây những tác động tiêu cực đến dự trữ ngoại hối: Thứ nhất: thâm hụt thương mại gia tăng, nền kinh tế các nước đi vào suy thoái, sản xuất bị thu hẹp, cầu về hàng hoá xuất khẩu giảm, ảnh hưởng tiêu cực đến dự trữ ngoại hối. Thứ hai: sụt giảm đầu tư do sự giảm sút của dòng vốn từ bên ngoài chảy vào. Giảm cung ngoại tệ vào quốc gia, tác động xấu đến qui mô dự trữ ngoại hối. Thứ ba: tiêu dùng giảm sút, khi sản xuất bị đình trệ, một số người có khả năng mất việc làm, hay chí ít là thu nhập bị ảnh hưởng cộng với dòng kiều hố i chảy vào giảm sẽ kéo theo s ụt giả m trong tiêu dùng của các hộ gia đình, trong đó có tiêu dùng các hàng hoá nhập ngoại, điều này ảnh hưởng tới các đối tác xuất khẩu, dự trữ ngoại hối cũng có xu hướng giảm. 1.4.5. Những nhân tố khác 1.4.5.1. Tâm lý Niề m tin của người dân vào đồng nội tệ hay các chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến dự trữ ngoại hối, niềm tin vào đồng nội tệ suy giả m sẽ dẫn đến hiện tượng Đô la hoá – hiện tượng mà trong một nền kinh tế, ngoại tệ được sử dụng rộng rãi thay thế cho đồng nội tệ trong toàn bộ hay một số chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc đô la hoá 1 phần – khi đó lượng ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng không ngừng tăng lên, đồng thời luồng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2