HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH<br />
********<br />
ĐỀ TÀI CẤP BỘ<br />
<br />
NHỮNG SỰ KIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG ƢƠNG<br />
CỤC MIỀN NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ<br />
CỨU NƢỚC<br />
<br />
1961-1975<br />
Cơ quan chủ trì : VIỆN LỊCH SỬ ĐẢNG<br />
Chủ nhiệm đề tài : PGS.PTS TRỊNH NHU<br />
Tập thể tác giả<br />
<br />
: NGUYỄN VĂN KHANG, NGUYỄN KIM VỸ,<br />
<br />
NGUYỄN DANH LỢI, NGUYỄN THỊ TÂM. NGUYỄN BÌNH,<br />
LÊ XUÂN AN<br />
<br />
HÀ NỘI – 1998<br />
<br />
1<br />
<br />
NĂM 1961<br />
Ngày 23 tháng 1<br />
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (Khoa III) quy định tổ chức<br />
và nhiệm vụ của Trung ương Cục miền Nam.<br />
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960) đề ra hai nhiệm vụ chiến lược cách<br />
mạng xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam. Do yêu cầu cấp bách về chỉ đạo<br />
cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam và tình hình giao thông liên lạc giữa hai miền có<br />
nhiều khó khăn, Đại hội thấy cần phải tăng cường sự lãnh đạo về các chủ trương chính sách<br />
và tổ chức thực hiện đối với các Đảng bộ miền Nam. Căn cứ vào điều 24, Điều lệ Đảng sửa<br />
đổi tại Đại hội đã quy định: "Ban chấp hành Trung ương được thành lập Tung ương Cục phụ<br />
trách chỉ đạo công tác Đảng ở những Đảng bộ đặc biệt trọng yếu", vì vậy, Hội nghị BCHTƯ<br />
Đảng lần thứ 3 (Khoá III), ngày 23-1-1961 đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền<br />
Nam(1) với những quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, chức năng .<br />
Theo quy định của Trung ương Đảng, về tổ chức, Trung ương Cục miền Nam là một<br />
bộ phận của BCHTƯ, gồm một số đồng chí ủy viên Trung ương đươc BCHTƯ cử ra và ủy<br />
nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác Đảng ở miền Nam. Trung ương Cục miền Nam đặt dưới sự<br />
lãnh đạo của BCHTƯ, do Bộ Chính trị thường xuyên thay mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo.<br />
Trung ương Cục miền Nam có một bí thư, một hoặc hai phó bí thư do BCHTƯ chỉ<br />
định và Ban Thường vụ do Hội nghị Trung ương Cục bầu cử. Ngoài ra, tuỳ theo tình hình và<br />
yêu cầu công tác, Trung ương Cục miền Nam sẽ tổ chức các cơ quan giúp việc như Ban Quân<br />
sự, An Ninh, Hành chính, Tuyên huấn, Hậu cần v.v... Trung ương Cục thường lệ 6 tháng họp<br />
một lần. Tuy tình hình cụ thể, Trung ương Cục có thể họp sớm hơn hoặc muộn hơn.<br />
<br />
(1)<br />
<br />
Tháng 9-1954, do tình hình cụ thể của miền Nam, Bộ Chính trị đã quyết định giải thể Trung ương<br />
Cục miền Nam, tái lập Xứ ủy Nam Bộ.<br />
<br />
2<br />
<br />
Về nhiệm vụ của Trung ương Cục miền Nam, B C H T Ư Đảng quy định:<br />
- Căn cứ vào nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc và những chỉ thị, nghị quyết của<br />
BCH Trung ương và Bộ Chính trị về cách mạng miền Nam mà đề ra chủ trương, chính sách,<br />
phương châm, kế hoạch công tác và chỉ đạo thực hiện cụ thể ở miền Nam. Đối với những vấn<br />
đề có quan hệ đến toàn quốc và kế hoạch chung toàn miền Nam thì phải xin chỉ thị của Trung<br />
ương và Bộ Chính trị. Trong trường hợp đặc biệt cấp bách không kịp xin chỉ thị của Trung<br />
ương Trung ương Cục có quyền đề ra những chủ trương chính sách lớn để đối phó kịp thời với<br />
tình hình, nhưng phải báo cáo ngay với Trung ương và Bộ Chính trị.<br />
- Chấp hành cương lĩnh và những quy định cụ thể về điều lệ Đảng ở miền Nam, căn<br />
cứ vào điều lệ Đảng và những quy định cụ thể của Trung ương đối với Đảng bộ miền Nam<br />
mà tổ chức ra Đảng bộ các cấp ở miền Nam và lãnh đạo các Đảng bộ đó hoạt động.<br />
Ngoài ra Trung ương Cục miền Nam còn thay mặt BCH Trung ương Đảng quản lý và<br />
phân phối cán bộ của Đảng ở miền Nam, thành lập các đảng đoàn trong các tổ chức quần<br />
chúng, quản lý và phân phối tài chính của Đảng ở miền Nam...".<br />
Quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam là một chủ trương đúng đắn của<br />
Đảng ta, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của cuộc kháng chiến đang chuyển từ khởi nghĩa<br />
từng phần sang chiến tranh cách mạng. Trong nhiều năm liền, nhiều chủ trương, quyết sách<br />
của Đảng và Bác Hồ đã được Trung ương Cục cụ thể hoá và chỉ đạo thực hiện để thúc đẩy sự<br />
nghiệp kháng chiến chống Mỹ tới thắng lợi<br />
Cuối tháng 1<br />
Thành lập Trung ương Cục miền Nam<br />
Thực hiện quyết định của Hội nghị lần thứ 3 (Khoá III) của Ban chấp hành Trung<br />
ương Đảng về việc thành lập Trung ương<br />
<br />
3<br />
<br />
Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ cũ, Cuối tháng 1-1961, lễ thành lập Trung<br />
ương Cục được tổ chức trọng thể tại Mã Đà (Chiến khu Đ).<br />
Đồng chí Nguyễn Văn Linh (tức Mười Cúc), Uỷ viên BCH Trung ương Đảng được<br />
cử làm Bí thư Trung ương Cục. Các đồng chí uỷ viên gồm có:<br />
- Võ Chí Công (tức Năm Công)<br />
- Võ Văn Kiệt (tức Sáu Dân)<br />
- Hoàng Văn Thái (tức Tám Thành hoặc Mười Khang)<br />
- Trần Lương (tức Trần Nam Trung)<br />
- Trần Văn Quang (tức Bảy Tiến)<br />
- Phan Văn Đáng (tức Hai Văn)<br />
- Phạm Thái Bường (tức Ba Bường)<br />
- Phạm Văn Xô (tức Hai Già)<br />
Lúc đầu Trung ương Cục miền Nam được Trung ương giao nhiệm vụ lãnh đạo phong<br />
trào cách mạng từ Liên khu 5 trở vào, do đó Trung ương Cục chọn chiến khu Đ mở rộng khu<br />
A - căn cứ nối liền phía Nam Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ làm nơi đặt cơ quan lãnh<br />
đạo của Trung ương Cục. Đại bản doanh của Trung ương Cục - còn gọi là "R". Do hoàn cảnh<br />
chiến tranh, các cơ quan của Trung ương Cục đã di chuyển nhiều nơi, có thời kỳ chuyển sang<br />
Căm-pu-chia. Nhưng địa bàn đóng lâu nhất là khu rừng rậm Chàng Riệc, Tân Biên, tỉnh Tây<br />
Ninh, giáp biên giới Việt Nam - Căm-pu-chia.<br />
Trung ương Cục miền Nam được thành lập đã giúp các Đảng bộ địa phương củng cố<br />
về tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng miền Nam. Cùng với sự ra<br />
đời của MTDTGP miền Nam (20-12-1960), Quân giải phóng (15-2-1961), việc thành lập<br />
Trung ương Cục miền Nam là 3 sự kiện quan trọng đặc biệt, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách<br />
của cuộc kháng chiến đang chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng.<br />
<br />