intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài " Cung và cân đối lúa gạo cho đồng bằng sông Hồng trong dài hạn dưới tác động của công nghiệp hóa và nước biển dâng "

Chia sẻ: Le Dang Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

130
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cung và cân đối lúa gạo cho đồng bằng sông Hồng trong dài hạn dưới tác động của công nghiệp hóa và nước biển dâng. Đất lúa vùng đồng bằng sông Hồng đang giảm đi trong những năm gần đây , đặc biệt là diện tích đất lùa giảm do nước biển dâng (bị nhiễm mặn), do việc chuyển đổi đất lúa sang mục đích phi nông nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài " Cung và cân đối lúa gạo cho đồng bằng sông Hồng trong dài hạn dưới tác động của công nghiệp hóa và nước biển dâng "

  1. Cung và cân đối lúa gạo cho đồng bằng sông Hồng trong dài hạn dưới tác động của công nghiệp hóa và nước biển dâng PGS.TS. Nguyễn Văn Song và CN. Đỗ Thị Diệp TÓM TẮT Đất lúa vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) đang giảm đi trong những năm gần đây; đặc biệt là diện tích đất lúa giảm do nước biển dâng (bị nhiễm mặn), do việc chuyển đổi đất lúa sang mục đích phi nông nghiệp. Sử dụng mô hình phân tích hệ thống, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra xu hướng biến động của các nguồn lực hiện tại và cân đối lúa gạo cho ĐBSH đến năm 2030. Nếu không có các giả định về sự thay đổi của các yếu tố trong mô hình thì đất lúa của ĐBSH sẽ giảm từ 634.600ha năm 2010 xuống còn 510.920ha năm 2030. Theo các kịch bản phát thải CO2 ở mức thấp, trung bình, cao thì cân đối lúa gạo và an ninh lương thực ở ĐBSH sẽ ổn định tương ứng ở năm 2028, 2027, và 2025. Trong điều kiện tác động đồng thời của các yếu tố đến sản xuất lúa gạo như diện tích đất lúa giảm đến năm 2030 do ảnh hưởng của nước biển dâng (theo các kịch bản thấp, trung bình, cao) và các yếu tố làm tăng sản lượng lúa, cân đối lúa gạo và an ninh lương thực của ĐBSH sẽ giữ vững ở năm 2037, 2035, và 2034 theo các kịch bản phát thải ở mức thấp, trung bình, cao. Do đó, để đảm bảo an ninh lúa gạo trong điều kiện bình quân thóc gạo/đầu người, cung lúa gạo ngày càng giảm, chính quyền ở cấp trung ương và địa phương, các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập kế hoạch và người dân phải có các giải pháp đồng bộ để giảm bớt và thích ứng với các sự thay đổi trên. Từ khóa: dân số, đất lúa, công nghiệp hóa, biến đổi khí hậu, cung lúa gạo. 1
  2. 1. GIỚI THIỆU 1.1 Tính cấp thiết và mục tiêu nghiên cứu 1.1.1 Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đồng thời là một trong các nước sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Hàng năm có khoảng 5.000ha đất lúa bị chuyển sang mục đích phi nông nghiệp (Song, 2008). Theo kịch bản phát thải ở mức cao (Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam của Bộ Tài nguyên và môi trường, 2009), đến năm 2100 ĐBSH sẽ bị mất 1666,7 km2 đất, trung bình mỗi năm sẽ bị mất 17 km2 đất. Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến GDP, dân số và vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng và ven biển, nơi tập trung đông dân cư và dễ bị tổn thương (WB, 2008). Các vấn đề đặt ra là: • Cung lúa gạo của ĐBSH trong dài hạn là bao nhiêu? • An ninh và cân đối lúa gạo cho ĐBSH trong bối cảnh nước biển dâng, chuyển đổi đất nông nghiệp sang mục đích công nghiệp, và tốc độ tăng trưởng dân số như thế nào? • Những đề xuất và giải pháp hữu ích nào cho xã hội, các nhà quản lý và hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, hộ nông dân để thích ứng với xu hướng trên? Ảnh hưởng của nước Global biển result s of dâng đếnrise Sea level nông nghiệp on agricult urecủa các nước trên thế giới ext ent 16 14 12 10 8 6 4 2 0 Egypt Vietnam Sur iname Bahamas Ar gentina Jamaica Mexico Myanmar Dominican Guyana Rep 2
  3. Hình 1: Ảnh hưởng của nước biển dâng đến nông nghiệp của các nước trên thế giới Sơ đồ 1: Đồng bằng sông Hồng Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường Nghiên cứu “cung và cân đối lúa gạo cho đồng bằng sông Hồng trong dài hạn dưới tác động của công nghiệp hóa và nước biển dâng” được tiến hành để giải quyết thỏa đáng các câu hỏi trên. 1.1.2 Mục tiêu nghiên cứu a) Mục tiêu chung Dựa trên xu hướng phát triển công nghiệp, tốc độ tăng trưởng dân số và các kịch bản về mực nước biển dâng, nghiên cứu sẽ chỉ ra cung lúa gạo, an ninh lúa gạo, cân đối lúa gạo cho ĐBSH đến năm 2030. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ đề xuất các giải pháp hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, cán bộ chính quyền trung ương và địa phương, hộ nông dân nhằm thích ứng và giảm nhẹ các tác động trên. b) Mục tiêu cụ thể • Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến cung lúa gạo, an ninh lương thực, mô hình phân tích hệ thống, và các lý luận có liên quan; 3
  4. • Tìm ra cung lúa gạo, an ninh và cân đối lúa gạo cho ĐBSH đến năm 2030 trong bối cảnh nước biến dâng do biến đổi khí hậu, sự phát triển công nghiệp và tốc độ gia tăng dân số; • Đề xuất các giải pháp hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, lập kế hoạch, cán bộ chính quyền trung ương và địa phương, hộ nông dân nhằm thích ứng và giảm nhẹ các tác động trên. 1.2 Tổng quan nghiên cứu của đề tài Hàng thập kỉ sản xuất lương thực trước đây, đặc biệt khi lúa gạo đang là mối quan tâm hàng đầu của thế giới, đã có nhiều nghiên cứu và sản xuất lúa gạo, an ninh lúa gạo và tăng trưởng dân số. Theo báo cáo của FAO, thế giới đã đạt kỉ lục 628 triệu tấn gạo năm 2005 nhờ giá gạo tăng năm 2004 dẫn đến sự mở rộng diện tích sản xuất lúa gạo. Châu Á là nơi sản xuất và tiêu thụ khoảng 90% lúa gạo của thế giới. Tổ chức dân số thế giới trong báo cáo hội thảo (ngày 21 tháng 6 năm 2008) đã chỉ ra rằng, dân số thế giới hiện ước đạt 6.704,8 triệu người với tốc độ gia tăng rất khó kiểm soát. Cũng theo dự báo của tổ chức này, đến năm 2042 dân số sẽ đạt mốc 9 tỉ người. Nếu không có chiến lược hành động cụ thể thì khủng hoảng về lương thực và nước sạch sẽ dẫn đến xung đột tôn giáo. Trong nghiên cứu “chính sách lúa gạo của Việt Nam: những cải cách gần đây và cơ hội trong tương lai” của Chantal Pohl Nielsen trên tạp chí kinh tế châu Á năm 2003 chỉ ra rằng, hạn ngạch xuất khẩu gạo được xem như là công cụ chính sách hạn chế sản xuất lúa gạo và xuất khẩu gạo của Việt Nam dưới mức tiềm năng. Jonathan Haughton, 2004, Viện chính sách công, Boston, USA, trong nghiên cứu “ảnh hưởng và tác động của chính sách lúa gạo đến lương thực và phân phối thu nhập ở Việt Nam” đã chỉ rõ, 10% thuế xuất khẩu đánh vào lúa gạo sẽ làm giảm sản xuất, khuyến khích tiêu dùng và giảm xuất khẩu tới 25%. Thuế xuất khẩu do đó cũng ảnh hưởng tới các hộ khá giả và các hộ ở những khu hẻo lánh, biệt lập, phải mua lúa gạo và lương thực từ bên ngoài. Các hộ nghèo sẽ được lợi từ chính sách này, tuy nhiên họ cũng là đối tượng phải gánh chịu những ảnh hưởng tiêu cực này. Công nghiệp hóa và biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng và mạnh mẽ trên toàn thế giới cũng như ở Việt Nam dưới các cấp độ ảnh hưởng khác 4
  5. nhau, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Sự gia tăng tốc độ công nghiệp hóa và biến đổi khí hậu làm giảm diện tích đất nông nghiệp, nhất là khu vực đất lúa phì nhiêu màu mỡ. Bên cạnh đó, sự giảm sút năng suất và sản lượng lúa sẽ đe dọa an ninh lương thực quốc gia trong tương lai. Tiến sĩ Trần Thanh Lâm (2009) – giám độc viện tài nguyên nước và môi trường Nam Á trong nghiên cứu “tác động của biến đổi khí hậu đến tăng trưởng kinh tế: dự báo và giải pháp” đã chỉ ra rằng: biến đổi khí hậu là mối đe dọa rất lớn, là nguyên nhân của nạn đói và dịch bệnh, do đó nó ảnh hưởng tới các cấu thành cơ bản của nền kinh tế và cuộc sống con người. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây biến đổi khí hậu diễn ra rất phức tạp, số đợt lạnh giảm đi đáng kể trong hai thập kỉ gần đây. Năm 1994 và 2007 chỉ có 15 đến 15 đợt lạnh (bằng 56% mức trung bình của nhiều năm). Một ví dụ bất thường gần đây nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu là đợt không khí lạnh đầu tiên kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 đã gây tổn hại lớn đến sản xuất nông nghiệp nói chung. Trong hội thảo “chiến lược an ninh lương thực quốc gia và ổn định đất lúa đến năm 2020, tầm nhìn 2030” do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức ngày 29/5 tại Cần Thơ cho thấy, hàng năm nông dân phải dành 74.000ha đất nông nghiệp để xây dựng các dự án, khu công nghiệp và khu đô thị. Tỷ lệ mất đất nông nghiệp do đô thị hoác và biến đổi hiện nay là 1%. Theo báo cáo mới nhất tại hội thảo, nước ta chỉ còn hơn 9 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có hơn 4 triệu ha đất lúa. Tuy nhiên, diện tích này đang bị thu hẹp với tốc độ nhanh chóng. Theo ông Trần Ngọc Hùng, chủ tịch hiệp hội xây dựng Việt Nam, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp phải trên cơ sở giữ vững đất nông nghiệp, đặc biệt là đất lúa. Trong tương lai, dân số Việt Nam sẽ tăng từ100-120 triệu người, trong điều kện công nghiệp hóa và đô thị hóa phát triển ồ ạt như hiện nay, thế giới phải đối mặt với nguy cơ nước biển dâng do nhiệt độ trái đất nóng lên…điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hàng triệu ha đất nông nghiệp ở ĐBSH và ĐBSCL sẽ bị ngập trong nước, an ninh lương thực sẽ bị đe dọa, môi trường sống sẽ bị ô nhiễm nặng nề, kinh tế xã hội sẽ bị xáo trộn. Kết quả nghiên cứu của giáo sư Vũ Tuyên Hoàng đã chỉ ra rằng: diện tích đất nông nghiệp bị mất do công nghiệp hóa, đô thị hóa. Kinh nghiệm phát triển của các 5
  6. nước châu Á - nơi mà lúa gạo là nguồn cung cấp lương thực chủ lực cho thấy, trải qua hàng thập kỉ tiến hành công nghiệp hóa và đô thị hóa, tỷ lệ mất đất canh tác mỗi năm từ 0,5% đến 2%. Theo như tỷ lệ đất canh tác hàng năm bị mất ở thập kỉ 1980-1990 thì con số này của Trung Quốc là 0,5%, Hàn Quốc là 1,4%, Thái Lan 2%, Nhật Bản 1,6%. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã mất khoảng 0,4% diện tích đất canh tác, đặc biệt đất lúa mất với tỷ lệ cao hơn khoảng 1%. Tuy nhiên, với tốc độ công nghiệp hóa tăng nhanh như hiện nay thì tốc độ mất đất nông nghiệp sẽ không dừng lại ở con số trên. Kết quả nghiên cứu và dự báo của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hợp Quốc (IPPC) và ngân hàng thế giới đã chỉ ra rằng, Việt Nam sẽ là một trong năm nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Trong 100 năm tới, nước biến sẽ dâng cao 1m, nhiệt độ tăng 20C. Theo đó, đồng bằng sông Cửu Long có từ 1,5 đến 2 triệu ha và đồng bằng sông Hồng có từ 0,3 đến 0,5 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó phần lớn là đất lúa sẽ bị ngập hoặc mặn hóa không thể canh tác được. Biến đổi khí hậu cũng làm gia tăng các thảm họa tự nhiên và giảm năng suất cây trồng vật nuôi. Cũng theo kết quả nghiên cứu của tổ chức này, nếu nhiệt độ tăng thêm 10C thì năng suất lúa sẽ giảm 10%, năng suất ngô giảm từ 15 đến 20%, nhu cầu nước sạch sẽ tăng thêm 10%. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sản xuất lúa gạo, đồng thời tạo ra nhiều khó khăn và thách thức cho vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, lương thực cho nội tiêu và xuất khẩu trong dài hạn. Trong tương lai, biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến diện tích canh tác lúa nếu như không có biện pháp hành động ngay từ bây giờ. Mô hình phân tích hệ thống đã được TS. Nguyễn Văn Song sử dụng trong nghiên cứu “dự báo sự thay đổi của dân số, lao động và diện tích đất canh tác lúa ở tỉnh Hải Dương đến năm 2020”. 1.3 Mô tả đặc điểm địa bàn nghiên cứu Đồng bằng sông Hồng là vùng kinh tế trọng điểm của khu vực phía Bắc Việt Nam. Trong những năm gần đây, vùng đã tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn với tốc độ khá cao. Trong quá trình đó, diện tích đất nông nghiệp của vùng đang dần bị giảm xuống, kết hợp với hiện tượng nước biển dâng đang và sẽ gây ra những sự thay đổi đáng kể trong sản xuất lương thực của vùng. 6
  7. Đồng bằng sông Hồng có diện tích tự nhiên 14.862 Km2, chiếm 4,49% diện tích cả nước và 12,77% diện tích các tỉnh phía Bắc. Theo niên giám thống kê, ĐBSH bao gồm 11 tỉnh: Hà Nội, Quảng Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Các tỉnh thuộc vùng ĐBSH nằm dọc ven biển phía Bắc của Việt Nam, do đó sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của hiện tượng nước biển dâng do biến đổi khí hậu. a) Tình hình sử dụng đất Cùng với xu hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tình hình sử dụng đất đai của ĐBSH có nhiều biến động. Đất nông nghiệp giảm đi do chuyển đổi mục đích sử dụng, trong khi đó đất rừng có xu hướng tăng lên cùng với các chính sách phủ xanh đất trống đồi trọc của Chính phủ. Từ kết quả nghiên cứu xu hướng biến động đất đai của ĐBSH trong 10 năm cho thấy: Đất nông nghiệp giảm dần cho mục đích công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các mục đích khác. Đất phi nông nghiệp có xu hướng ngày càng tăng cùng với sự gia tăng dân số và phát triển cơ sở hạ tầng, tưới tiêu, công nghiệp và các công trình xây dựng khác. Đất chưa sử dụng giảm đi do khai hoang mở rộng diện tích đất sản xuất nông nghiệp và sử dụng vào các mục đích cụ thể khác. Theo xu hướng biến động đất đai của cả nước, đất nông nghiệp có xu hướng giảm đi, cụ thể diện tích đất sử dụng, đất ở nông thôn và thành thị tăng lên phù hợp với quy luật phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong vài năm tới, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, nhu cầu về đất cho các ngành kinh tế, đặc biệt là xây dựng, khu công nghiệp, nhà ở nông thôn và thành thị sẽ tăng lên mạnh hơn. Vì vậy, cần điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất để vừa bảo vệ nghiêm ngặt vùng đất lúa, đồng thời đáp ứng yêu cầu sử dụng đất cho các mục đích khác. b) Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi Một trong những lợi thế của ĐBSH là khí hậu với mùa đông lạnh, đất đai màu mỡ (80% đất phù sa), hệ thống thủy lợi vào loại tốt nhất (80% diện tích tưới tiêu chủ 7
  8. động, trong đó 60% diện tích có nước tưới phù sa), trình độ áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp cao nhất cả nước (tập trung 80% các viện nghiên cứu, thị trường thuận lợi: gần Trung Quốc, Đông Bắc Á). ĐBSH là tam giác phát triển với tốc độ đô thị hóa nhanh, do đó có điều kiện tốt để đẩy mạnh phát triển hàng hóa và dịch vụ sản xuất nông nghiệp cho người dân. * Khó khăn Khó khăn và thách thức đặt ra cho ĐBSH là diện tích đất trung bình trên đầu người thấp nhất cả nước (540 m2/người), tình trạng dư thừa lao động, tỷ lệ thiếu việc làm hơn 10%/năm, quỹ đất cho sản xuất nông nghiệp tiếp tục giảm đi nhanh chóng (bao gồm cả đất tốt và không tốt), môi trường bị ô nhiễm do phát tiển công nghiệp và đô thị, thu nhập bình quân của người dân thấp…dẫn đến hạn chế khả năng đầu tư cho phát triển sản xuất. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Thiết kế nghiên cứu 2.2.2 Chọn điểm nghiên cứu Đồng bằng sông Hồng là vùng kinh tế trọng điểm của phía Bắc Việt Nam. ĐBSH cung cấp khoảng 20% (tương ứng 6 triệu tấn gạo) mỗi năm cho cả nước. Tuy nhiên, ĐBSH cũng là vùng chịu ảnh hưởng thứ hai bởi hiện tượng nước biển dâng. Hơn nữa, trong những năm gần đây, vùng đã tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn với tốc độ cao. Trong quá trình đó, đất nông nghiệp của vùng bị giảm dần cùng với nước biến dâng đã dẫn đến nhiều thay đổi trong sản xuất lương thực. Do đó, để ổn định tình hình sản xuất lúa gạo trong điều kiện tiến hành thành công nghiệp hóa thành công là điều không dễ dàng. Vì những lý do trên, ĐBSH được chọn làm điểm nghiên cứu của đề tài. 2.1.2 Thu thập số liệu a) Chọn mẫu Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ tổng thể và đảm bảo ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu sử dụng phiếu điều tra phỏng vấn hộ nông dân dựa trên dung lượng mẫu như sau: 8
  9. ĐBSH bao gồm 11 tỉnh (Hà Nội, Quảng Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh). Dựa vào điều kiện tự nhiên và tình hình sản xuất nông nghiệp, Thái Bình, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Nam Định là các tỉnh điển hình trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng. Bên cạnh đó, 4 tỉnh này có diện tích đất nông nghiệp tương đối lớn, trình độ thâm canh lúa nước cao. Trong mỗi tỉnh sẽ chọn 3 huyện, mỗi huyện chọn 3 xã, mỗi xã chọn 15 hộ nông dân sản xuất lúa. Các hộ được chọn theo hai tiêu chí: (1) diện tích đất trồng lúa lớn, (2) trình độ thâm canh sản xuất cao. b) Số liệu thứ cấp Nguồn số liệu thứ cấp được thu thập từ: Các nghiên cứu đã được công bố: báo cáo khoa học, tạp chí; Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội của vùng; Niên giám thống kê các năm 2000 – 2010. Số liệu sơ cấp được thu thập để phân tích tình hình kinh tế xã hội của vùng, đồng thời phân tích thực trạng sử dụng các nguồn lực (dân số, lao động nông nghiệp, sản lượng lúa) cho phát triển nông nghiệp. Từ đó, xây dựng mô hình phân tích hệ thống dự báo cung và cân đối lúa gạo cho ĐBSH trong dài hạn. c) Số liệu sơ cấp Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra 540 hộ nông dân trồng lúa ở 04 tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Vĩnh Phúc. Đây là những tỉnh điển hình trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng. Trên cơ sở phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lúa và tình hình phân phối lúa gạo, từ đó đề xuất kế hoạch và chiến lược sử dụng các đầu vào hợp lý và hiệu quả. 2.2 Phương pháp phân tích 2.2.1 Phương pháp thống kê mô tả Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu kinh tế xã hội thông qua mô tả các số liệu thu thập được. Phương pháp này được sử dụng để phân tích tình hình kinh tế xã hội của vùng, thực trạng sử dụng các nguồn lực như đất canh tác lúa, dân số - lao động, sản lượng lúa qua các năm. 9
  10. * Dùng phương pháp chỉ số để phân tích biến động của từng nhân tố xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố cấu thành nhân tố và tổng thể. Cụ thể trong đề tài này chúng tôi sử dụng hệ thống chỉ số để xem xét và phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới sản lượng lúa của vùng. * Dãy số thời gian: Giúp dự báo, dự đoán sự phát triển của hiện tượng trong tương lai: - Dự báo theo lượng tăng lên bình quân Yk = y0 + k.d Trong đó: yk: Là mức độ kì thứ k kể từ kì gốc Y0: Là mức độ kì gốc Xn – X1 D = n-1 - Dự báo theo tốc độ phát triển bình quân Yk = y0*tk Trong đó: t là tốc độ phát triển bình quân - Dự báo mức tăng dân số Nt = N0 [ 1+ (P +(-)V)/100] Trong đó: P là tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên V là tỉ lệ gia tăng dân số cơ học 2.2.2 Phương pháp mô hình hóa Mô hình phân tích hệ thống Mô hình phân tích hệ thống sẽ cho phép dự báo cung, cân bằng lúa gạo, tốc độ gia tăng dân số của ĐBSH trong dài hạn. Trong nghiên cứu này, mô hình phân tích hệ thống được sử dụng để liên kết các biến trong dự báo ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, ảnh hưởng của nước biển dâng, sự phát triển công nghiệp hóa và đô thị hóa đến cung lúa gạo, cân đối lúa gạo trong một chuỗi thời gian. Nghiên cứu sẽ sử dụng các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam của Bộ Tài nguyên môi trường và Bộ Nông nghiệp &PTNT để dự báo diện tích đất nông nghiệp bị mất (do nước biển dâng, hạn hán và ngập lụt), sản lượng thóc gạo giảm sút và các yếu tố khác trong dài hạn cho ĐBSH. 10
  11. Mô hình phân tích hệ thống là loại mô hình dùng để mô tả và phân tích sự vận động của một chuỗi sự vật hiện tượng kinh tế - xã hội trong một khoảng thời gian dài. Chuỗi sự vật hiện tượng trong mô hình có mối quan hệ hữu cơ và ảnh hưởng lẫn nhau tạo nên một sự tương tác thay đổi có tính chất hệ thống động. Sự phân tích kết quả của mô hình được gọi là phân tích hệ thống. Nguồn lực được sử dụng trong phát triển kinh tế - xã hội hết sức đa dạng và phong phú như đất đai, dân số - lao động, lương thực, tài nguyên thiên nhiên... Sự gia tăng dân số làm diện tích đất nông nghiệp bình quân trên đầu người giảm, hay tốc độ đô thị hoá nhanh sẽ làm giảm diện tích đất canh tác, do đó làm giảm sản lượng lúa...Có thể nói, sự thay đổi của nguồn lực này sẽ có tác động dây chuyền tới các nguồn lực khác, những nguồn lực đó có mối quan hệ với nhau trong một hệ thống phức tạp. Trong nghiên cứu này, nguồn lực đất canh tác lúa, dân số - lao động, sản lượng lúa sẽ được đặt trong một hệ thống và sử dụng mô hình phân tích hệ thống để xây dựng và phân tích hệ thống đó. Các yếu tố cấu thành nên mô hình kinh tế động được thể hiện như sau: 11
  12. Sơ đồ 2: Mô hình phân tích hệ thống trong phân tích và dự báo cung lúa gạo, cân đối lúa gạo của ĐBSH Có ba biến chính trong mô hình, bao gồm dân số, đất lúa, cân đối lúa gạo. Trong đó, biến cân đối lúa gạo là biến trung tâm quan trọng nhất trong mô hình. Nó chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi năng suất lúa, diện tích gieo trồng (diện tích canh tác và hệ số sử dụng đất). Trong những năm gần đây, tổng diện tích gieo trồng lúa của ĐBSH đang có nguy cơ giảm mạnh do chuyển đất lúa cho mục đích công nghiệp, do ảnh hưởng của mực nước biển dâng. Bên cạnh đó, có một tỷ lệ nhỏ đất lúa tăng lên do khai hoang phục hóa từ diện tích đất chưa sử dụng và do chuyển từ các loại đất khác sang mục đích trồng lúa. Tuy nhiên, do tốc độ mở rộng diện tích lúa nhỏ hơn tốc độ suy giảm nên nhìn chung đất lúa vẫn có xu hướng giảm đi đáng kể. 12
  13. Năng suất cây trồng (năng suất lúa) chịu tác động bởi trình độ thâm canh sử dụng các yếu tố đầu vào lao động, thuốc BVTV, phân bón, giống…Mức độ ảnh hưởng của các biến này được xác định thông qua hàm Cobb-Douglus và được kiểm định ý nghĩa thống kê. Nhu cầu lúa gạo (biến phân phối lúa gạo) cho các mục đích: tiêu dùng (nội tiêu), thức ăn cho chăn nuôi, xuất khẩu (bán ra ngoài khu vực), hao hụt trong thu hoạch và bảo quản. Trong đó, tiêu dùng (nội tiêu) chịu ảnh hưởng bởi tiêu dùng cho người, dự trữ và để giống. Tiêu dùng cho người lại chịu tác động bởi biến bình quân thóc tiêu thụ/người/năm và quy mô dân số của vùng. Tổng dân số thay đổi do thay đổi trong tỷ lệ tăng tự nhiên (tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử) và tỷ lệ tăng cơ học (tỷ lệ di cư và nhập cư). Bức tranh toàn cảnh mô hình phân tích hệ thống trong dự báo cung và cân đối lúa gạo cho ĐBSH được trình bày trong mô hình stella trên. Phần mềm Stella được sử dụng để dự báo tác động của nước biển dâng, chuyển đổi đất lúa sang mục đích phi nông nghiệp, sự gia tăng dân số đến cân đối lúa gạo của ĐBSH trong dài hạn. Có ba biến chính: đất lúa, dân số, cân đối lúa gạo trong mô hình. Mô hình hóa năng suất lúa Sử dụng mô hình Cobb - Douglas để mô hình hoá các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lúa. Mô hình Cobb - Douglas là mô hình được sử dụng rộng rãi trong kinh tế học vi mô và vĩ mô. Ưu thế của mô hình Cobb - Douglas là thiết lập được mối quan hệ giữa các yếu tố không cùng độ đo lường, các yếu tố không cùng bản chất đều được đánh giá đồng thời. Mô hình Cobb - Douglas có dạng tổng quát như sau: Y= F[Z]= a.Z1α1.Z2α2...Znαn.e[γD] Y là biến số phụ thuộc, phản ánh yếu tố kết quả của sự tác động A là hằng số Z1, Z2...Zn là các biến độc lập phản ánh nguyên nhân D là biến giả định mang tính định tính, D nhận giá trị bằng 0 hoặc 1 (1, 2...n là các hệ số của biến số Z), (γ là hệ số của D) Sau khi biến đổi sẽ thiết lập được mối quan hệ giữa biến số phụ thuộc và các biến độc lập thể hiện ở phương trình hồi quy tương quan sau LnY= α0+α1LnZ1+α2LnZ2+...+αnLnZn+γD 13
  14. - Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lúa LnY=α0+α1LnX1+α2LnX2+α3LnX3+α4LnX4+α5LnX5+α6LnX6+α7LnX7 Y: Năng suất lúa (tấn/ha) (i: hệ số của biến số Xi (i=1,7) X1: lượng bón phân kali (kg/ha) X2: lượng bón phân lân (kg/ha) X3: lượng bón đạm (kg/ha) X4: Thuốc bảo vệ thực vật (kg/ha) X5: lao động (ngày người/ha) X6: giống (kg/ha) X7: lượng phân chuồng (tấn/ha) X8: Nhiệt độ (0C) 2.3 Hạn chế của nghiên cứu Do hạn chế về thời gian và ngân sách nên nghiên cứu chỉ tiến hành ở địa bàn ĐBSH. Nghiên cứu tiến hành dựa trên các giả định: (1) Tốc độ tăng dân số chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ sinh, tye lệ tử và tổng dân số. (2) Tỷ lệ tăng cơ học bằng 0 (giả định lượng di cư đi và lượng nhập cư đến bằng nhau). (3) Cung lúa gạo chỉ cho tiêu dùng nội bộ (nội tiêu) 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Thực trạng sản xuất lúa của Việt Nam và đồng bằng sông Hồng 3.1.1 Tình hình sản xuất lúa của Việt Nam Lúa gạo đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam. Khoảng 80% trong số 11 triệu hộ dân tham gia sản xuất lúa với phương thức canh tác truyền thống là chủ yếu. 14
  15. Bảng 1: Tình hình sản xuất lúa của Việt Nam DTGT Năng suất Sản lượng Năm (1000 ha) (tạ/ha) (1000 tấn) 1970 4.740 19,0 9.000 1980 5.600 20,8 11.650 1990 6.028 31,4 19.225 2000 7.655 42,5 32.550 2001 7.484 42,8 32.000 2002 7.485 45,5 34.364 2003 7.444 46,6 34.669 2004 7.400 48,0 35.500 2005 7.340 49,5 36.340 2006 7.325 48,9 35.850 2007 7.207 49,9 35.943 2008 7.400 52,3 38.730 2009 7.440 52,3 38.896 2010 7.514 53,2 39.989 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011 Sản xuất lúa gạo giữ một vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, chiếm gần 50% giá trị sản xuất nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản) năm 2003. Giai đoạn 2000-2010, sản lượng tăng trung bình 9,3% mỗi năm. Đó là kết quả của việc tăng năng suất (11,14%/năm), mặc dù diện tích gieo trồng giảm (1,41%/năm). Sự gia tăng sản xuất lúa gạo giữa các vùng trong cả nước có sự khác biệt đáng kể. Tỷ lệ gia tăng sản lượng lớn nhất ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc, và đồng bằng sông Cửu Long. Năng suất lúa cao nhất ở Đông Bắc, Tây Bắc, và đồng bằng sông Hồng. Trải qua thời gian, diện tích và năng suất lúa tiếp tục tăng lên đáng kể. Tổng hiện tích trồng lúa trong cả nước tăng từ 4,74 triệu ha năm 1970 lên 7,66 triệu ha năm 2000, sau đó giảm xuống 7,51 triệu ha năm 2009. Năng suất lúa không ngừng tăng lên, từ 19,0 tạ/ha (1970) lên 53,2 tạ/ha (2010). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do quá trình công nghiệp hóa đô thị hóa đã làm diện tích lúa có nguy cơ giảm xuống. Do 15
  16. đó, mặc dù năng suất lúa tăng do áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất nhưng sản lượng lại có dấu hiệu giảm sút. Giai đoạn 1990 – 2002, diện tích gieo trồng lúa tăng khoảng 24%. Bên cạnh đó, diện tích canh tác lúa cũng không ngừng tăng lên trong suốt thời kỳ từ 1990 đến 2000 với tốc độ tăng bình quân 2,4%/năm. Tuy nhiên, xu hướng giảm nhẹ bắt đầu xuất hiện từ những năm 2000 đến năm 2010, bình quân giảm 1,41%/năm. Trong 9 năm, trong khi diện tích lúa giảm thì sản lượng lúa vẫn tiếp tục tăng lên nhờ áp dụng các biện pháp tăng năng suất hợp lý. Sự thay đổi trong diện tích và năng suất lúa là hai nguyên nhân chính ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng sản lượng lúa, tuy nhiên vai trò của các yếu tố này rất khác nhau giữa các vùng và có thể thay đổi theo thời gian. Giai đoạn 1990 -2010, sản lượng thóc ở hai vựa lúa của cả nước tăng lên rất ấn tượng. Ở ĐBSH, do diện tích đất canh tác bình quân trên hộ rất thấp, hệ số sử dụng đất lúa tương đối cao nên sự gia tăng sản lượng chủ yếu dựa vào đầu tư thâm canh tăng năng suất (94% tăng sản lượng nhờ tăng năng suất). Trong khi đó ở ĐBSCL sản lượng lúa tăng chủ yếu do tăng diện tích gieo trồng (64% tăng sản lượng nhờ tăng diện tích gieo trồng). Từ Đại hội Đảng lần thứ 6, sản xuất nông nghiệp chuyển từ kinh tế tập thể sang nông nghiệp hợp tác xã sản xuất, quản lý theo cơ chế thị trường, các hộ gia đình đơn vị kinh tế tự chủ. Điều này đã khuyến khích các hộ nông dân đầu tư tiền bạc, sức lực để tái cơ cấu sản xuất và thâm canh, sản lượng thóc gạo của Việt Nam do đó không ngừng tăng lên. Việt Nam đã giải quyết được vấn đề cơ bản về thiếu hụt lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và giữ vị trí xuất khẩu gạo thứ hai thế giới (sau Thái Lan). Tuy nhiên, một vài năm trở lại đây, diện tích trồng lúa có xu hướng giảm xuống, nguyên nhân chính là do quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho đất sản xuất nông nghiệp nói chung, đất lúa nói riêng giảm đi đáng kể. So với năm 2000, năm 2005 diện tích đất trồng lúa giảm 315.000ha (FAO STAT, 2006). Sản xuất lương thực trong thời kì đổi mới của đất nước được xác định là vấn đề quan trọng để đảm bảo nhu cầu cơ bản cho tiêu dùng và ổn định xã hội. Vì vậy, nên tập trung vào phát triển sản xuất lương thực ở những vùng trọng điểm và vùng phụ cận, phấn đấu tăng lương thực bình quân trên đầu người, tăng sản xuất lương thực về mặt số lượng và chất lượng để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng, dự trữ và xuất khẩu. 16
  17. 3.1.2 Thực trạng sản xuất lúa gạo vùng đồng bằng sông Hồng Đồng bằng sông Hồng là vùng sản xuất lúa gạo lớn thứ hai của cả nước, trình độ thâm canh sản xuất rất cao. Năng suất lúa của vùng cao hơn năng suất bình quân của cả nước và có xu hướng tiếp tục tăng lên qua các năm. Giai đoạn 2000 – 2010 năng suất lúa tăng bình quân 4,7%/năm, sản lượng răng 0,24%/năm. Sở dĩ tốc độ tăng của sản lượng lúa nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất là do diện tích gieo trồng lúa giảm bình quân 4,2%/năm. Bảng 2: Thực trạng sản xuất lúa gạo vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn 1995-2009 DTGT Năng suất Sản lượng Năm (1000 ha) (tạ/ha) (1000 tấn) 1995 1238,1 42,1 5207,1 2000 1261,0 53,6 6762,6 2001 1251,3 52,8 6605,3 2002 1245,8 55,8 6951,7 2003 1232,7 54,4 6701,5 2004 1210,0 57,2 6926,1 2005 1186,1 53,9 6398,4 2006 1171,2 57,4 6725,2 2007 1158,1 56,1 6500,7 2008 1153,2 58,9 6790,2 2009 1155,4 58,8 6796,3 2010 1150,1 59,2 6803,4 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011 Năm 2005, tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của ĐBSH là 962.556 nghìn ha, đất có khả năng nông nghiệp là 764.024ha, trong đó diện tích đất lúa là 631.416ha, chiếm tới 82,86% diện tích đất có khả năng nông nghiệp. Tuy nhiên, đất nông nghiệp bình quân trên lao động nông nghiệp thấp và có xu hướng giảm xuống do chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang phát triển các ngành phi nông nghiệp. Hiện tại đất nông nghiệp bình quân đầu người chỉ xấp xỉ 500 m2/người, bình quân đất lúa/người là 384 m2 trong khi con số này của cả nước là 891 m2/người (niên giám thống kê năm 2006). 17
  18. So với năm 2000, trong khi đất sử dụng cho các mục đích khác tăng lên thì đất cho sản xuất nông nghiệp lại có xu hướng giảm đi rõ rệt, đặc biệt sự giảm mạnh của đất lúa. Trong vòng 5 năm đã giảm tới 34,57 nghìn ha, đất chưa sử dụng cũng giảm 10,314 nghìn ha. Xu hướng này thể hiện rõ vùng đã và đang có các biện pháp tích cực để chuyển diện tích chưa sử dụng sang đất có khả năng sử dụng một cách có hiệu quả. Thế kỉ trước, nhờ chính sách cải cách ruộng đất, chuyển từ diện tích đất chưa sử dụng sang đất có khả năng sử dụng, cộng thêm đầu tư khai thác thủy lợi, áp dụng các biện pháp kĩ thuật để tăng hệ số sử dụng đất lúa nên diện tích gieo trồng lúa có xu hướng tăng lên ở cả hai vụ. Tuy nhiên, tác động của công nghiệp hóa, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm cho đất lúa của vùng giảm đi đáng kể. Trong khi đó, trong tương lai nguy cơ giảm đất lúa ở ĐBSH và các vùng ven biển là rất cao do phải đối mặt với hiện tượng nước biển dâng. Vì vậy, ĐBSH cần có chiến lược trong dài hạn để ổn định đất lúa theo hành động của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đặt ra đến năm 2030. 3.2. Phân tích kết quả mô hình hệ thống Kết quả của mô hình phân tích hệ thống dựa trên nguồn số liệu thực tế được gọi là kịch bản gốc của mô hình. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng giá trị thực tế của các yếu tố thu thập được từ số liệu thứ cấp và sơ cấp của vùng, chưa có bất cư giả định nào về sự thay đổi của các yếu tố trong mô hình. 3.2.1 Xu hướng thay đổi đất lúa Theo kế hoạch phát triển vùng ĐBSH đến năm 2010 và 2020: các ngành phi nông nghiệp sẽ chiếm khoảng 90% GDP, sản phẩm chủ lực đóng góp 60-65% GPD, độ mở của nền kinh tế đạt hơn 90%, cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại với các ngành kinh tế chủ đạo có khả năng đổi mới và cạnh tranh cao. Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ đến Việt Nam do nước biển dâng. ĐBSH có vị trí tương đối thấp và sẽ bị ngập hơn 1.700 km2 (11,2%) vào năm 2100. Các tỉnh như Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng ở vị trí thấp và nằm dọc bờ biển. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở ĐBSH diễn ra mạnh mẽ trên quy mô lớn. Điều này làm cho đất chuyên dùng và đất ở tiếp tục tăng lên. Trên thực tế, xu hướng chuyển đổi đất nông nghiệp sang mục đích công nghiệp trong quá trình công 18
  19. nghiệp hóa ngày càng gia tăng. Xu hướng đó phản ánh sự tiến bộ của nền kinh tế. Trên bình diện quốc gia, trong vòng 10 năm (1989 – 2000), đất chuyên dùng và đất ở tăng 68.510ha mỗi năm. Theo kế hoạch sử dụng đất đến năm 2012, tổng diện tích các loại đất này lên tới 2637 nghìn ha, chiếm 8% tổng diện tích tự nhiên của cả nước. Do đó, đến năm 2012 diện tích đất phi nông nghiệp tăng 67,400ha mỗi năm, trong đó hầu hết được chuyển từ đất nông nghiệp sang. Bảng 3: Sự thay đổi đất lúa đến năm 2030 do ảnh hưởng của công nghiệp hóa và nước biển dâng Chỉ tiêu ĐVT 2010 2020 2030 - Đất lúa 1000ha 634,60 573,20 510,60 - Diện tích gieo trồng 1000ha 1140,64 1013,91 885,06 Nguồn: Kết quả mô hình Theo kết quả gốc của mô hình, đất lúa giảm do biến đổi khí hậu là 240ha mỗi năm, tốc độ chuyển đất lúa cho các khu công nghiệp hàng năm là 4000ha. Diện tích trồng lúa do đó sẽ giảm còn 511.000ha năm 2030. Từ thực tế và những phân tích ở trên cho thấy, một trong các kế hoạch cho vấn đề sử dụng đất lúa ở ĐBSH là bảo vệ diện tích đất nông nghiệp, cần có các biện pháp đối phó với biến đổi khí hậu ngay từ bây giờ, xem xét vấn đề công nghiệp hóa và đô thị hóa một cách khoa học, quản lý nghiêm ngặt đất nông nghiệp trong mối quan hệ với kế hoạch tổng thể sử dụng đất và các lĩnh vực khác để phát triển hài hòa nông nghiệp và nông thôn, thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Cũng theo giáo sư Logan (Trường đại học Logan – Úc) thì “vấn đề sử dụng đất nông nghiệp cho phát triển công nghiệp và bảo vệ đất nông nghiệp là câu chuyện phổ biến, nhưng điều quan trọng nhất ở Việt Nam là quá trình đó diễn ra với tốc độ nhanh nhất thế giới”. 3.2.2 Xu hướng thay đổi sản lượng lúa Sản lượng lúa của ĐBSH có xu hướng giảm qua các năm. Như đã phân tích ở phần trước, sản lượng lúa chịu ảnh hưởng của năng suất, tổng diện tích và cơ cấu diện tích gieo trồng. Mặc dù năng suất lúa trên toàn vùng có tăng từ 60,7 tạ/ha năm 2007 lên 65,2 tạ/ha vào năm 2020, nhưng do diện tích đất canh tác lúa giảm nhanh hơn nên sản 19
  20. lượng lúa gạo vẫn có xu hướng giảm: Năm 2020 sản lượng lúa của đồng bằng sông Hồng sẽ là 6,3 triệu tấn, đến năm 2020 giảm xuống còn 6,05 triệu tấn. Bảng 4: Sự thay đổi sản lượng lúa đến năm 2030 Chỉ tiêu ĐVT 2010 2020 2030 - Diện tích gieo trồng 1000 ha 1140,64 1013,91 885,06 - Sản lượng lúa 1000 tấn 6717,0 6404,60 6047,1 Nguồn: Kết quả mô hình Trên thực tế, điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của ngành sản xuất lương thực, dịch vụ là sản xuất lúa. Với khu vực phát triển năng động, tốc độ công nghiệp hoá diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ như đồng bằng sông Hồng thì sự giảm sút trong sản lượng lúa như vậy là một xu hướng tất yếu . Nhưng xu hướng này có ảnh hưởng tới an toàn lương thực cho bản thân khu vực hay không? Điều này cần kết hợp với các biến động của các nhân tố khác trong mô hình để giải đáp câu hỏi trên. 3.3 Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (nước biển dâng) đến sản lượng và an ninh lúa gạo 3.3.1 Sự thay đổi đất canh tác và cân đối lúa gạo do ảnh hưởng của nước biển dâng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2