intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Gốm phù lãng làng gốm cổ truyền Việt Nam

Chia sẻ: Lê Văn Hưng | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

146
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Gốm phù lãng làng gốm cổ truyền Việt Nam" trình bày các nội dung sau: Sơ lược về lịch sử làng gốm, quy trình sản xuất gốm, nét đẹp độc đáo của gốm phù lãng, những nghệ nhân nổi tiếng, hiện trạng phát triển của làng nghề gốm, giải pháp phát triển gốm phù lãng,...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Gốm phù lãng làng gốm cổ truyền Việt Nam

  1. GỐM PHÙ LÃNG LÀNG GỐM CỔ TRUYỀN  VIỆT NAM *** Giảng viên: Ths. Hồ Thu Hà Bài làm: Nhóm 4. *** Danh sách thành viên : 1. Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Hồng Nhung 2. Nguyễn Thị Vân Anh 3. Tống Thị Huyền 4. Nguyễn Thu Hiền 5. Trần Minh Nguyệt 6. Giang Anh Minh 7. Vũ Thị Thu Huyền 8. Lang Thị Thư 9. Đặng Thị Thùy Linh 10. Cao Thị Hoài Thu 11. Nguyễn Thị Thủy 12. Nguyễn Văn Hưng 13. Phạm Thùy Dung
  2. BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC ST T HỌ VÀ TÊN CÔNG VIỆC ĐÁNH  GHI  GIÁ CHÚ 1 Nguyễn Thu Hiền Sơ lược về lịch sử làng  Hiền:4/5* Nộp  Giang Anh Minh gốm Minh:4/5* đúng  hạn 2 Thư:4/5* Nộp  Nguyễn Thị Thủy Quy trình sản xuất gốm Linh:4/5* đúng  Phạm Thùy Dung hạn 3 Các sản phẩm gốm 3/5* Nộp  Cao Thị Hoài Thu  Phù Lãng muộn 4 Lang Thị Thư Nét đẹp của làng gốm Thư:4/5* Nộp  Đặng Thị Thùy Linh Linh:4/5* đúng  Lê Văn Hưng Hưng:4/5 hạn *
  3. 5 Tống Thị Huyền Nghệ nhân làng gốm 4/5* Nộp  đúng  hạn 6 Vũ Thị Thu Huyền Hiện trạng của làng  4/5* Nộp  gốm đúng  hạn 7 Nguyễn Thị Vân Anh Làm powerpoint V.Anh:5/5 Tích cực Trần Minh Nguyệt * Nguyệt:4/ 5* 8 Nguyễn Thị Hồng Nhung Phân chia công việc,  5/5* Nhóm  tổng hợp tài liệu, chỉnh  trưởng sửa và hoàn thiện word,  thuyết trình, đánh giá. CẤU TRÚC BÀI PHẦN 1: SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ LÀNG GỐM PHẦN 2: QUY TRÌNH SẢN XUẤT GỐM PHẦN 3: NÉT ĐẸP ĐỘC ĐÁO CỦA GỐM PHÙ LÃNG
  4. PHẦN 4: NHỮNG NGHỆ NHÂN NỔI TIẾNG  PHẦN 5: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA LÀNG NGHỀ GỐM PHẦN 6: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GỐM PHÙ LÃNG *** PHẦN 1: Sơ lược về lịch sử làng gốm. Vị trí địa lý: Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà  Nội khoảng 60 km và cách sông Lục đầu khoảng 4 km. Cùng với gốm Bát Tràng   (Gia Lâm) và gốm Thổ Hà (Bắc Giang), cái tên gốm Phù Lãng đã và đang dành   được nhiều sự chú ý của khách du lịch trong và ngoài nước, đặc biệt là dân ham  mê chụp ảnh. Phù Lãng nằm bên bờ sông Cầu và có nhiều bến đò ngang suốt ngày chở khách  qua lại.  Địa danh Phù Lãng có thể  có từ  cuối thời Trần đầu thời Lê. Vào thời kỳ  này,  Phù Lãng có 3 thôn: Trung thôn, Thượng thôn, Hạ thôn. Phù Lãng được trong và  ngoài nước biết đến với nghề gốm truyền thống. Lịch sử hình thành: Làng nghề  gốm Phù Lãng đã tồn tại từ lâu đời, Ông tổ  nghề  gốm Phù Lãng là  Lưu Phong Tú (Theo Tô Nguyễn, Trình Nguyễn trong sách Kinh Bắc­Hà Bắc) Vào cuối thời Lý, ông được triều đình cử  đi sứ  sang Trung Quốc. Trong dịp đi   này, ông học được nghề  làm gốm và truyền dạy cho người trong nước. Đầu  tiên, nghề này dược truyền vào vùng dân cư đôi bờ sông Lục Đầu sau đó chuyển   về vùng Vạn Kiếp (Hải Dương). Vào khoảng đầu thời Trần (thế kỷ XIII) nghề  được truyền đến đất Phù Lãng Trung. Nghề   gốm   Phù   Lãng   được   hình  thành   và  phát   triển   ở   đây   vào   khoảng   thời  Trần(thế kỷ XIV.) Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, một số nhà sưu tập còn lưu giữ và trưng  bày một số sản phẩm gốm Phù Lãng có niên đại khoảng thế kỷ XVII ­ XIX. Đó 
  5. là sản phẩm gốm men nâu và những sắc độ của nó như men da lươn, vàng nhạt,  vàng thẫm, vàng nâu... PHẦN 2: Quy trình sản xuất gốm Phù Lãng. Một xưởng sản xuất gốm gồm năm nhóm chính: tổ lò, tổ  chuốt, tổ họa tiết, tổ  men, tổ làm sạch. Tương  ứng với các tổ  là các bước để  hoàn tất một sản phẩm gốm Phù Lãng  như sau: Bước 1: Chọn đất và xử lý đất sét Khác với những sản phẩm gốm lấy chất liệu từ "xương" đất sét xanh của Thổ  Hà, sét trắng của Bát Tràng, gốm Phù Lãng được tạo nên từ  "xương" đất đỏ  hồng lấy từ vùng Thống Vát, Cung Khiêm (Bắc Giang). Đất được chở  về  Phù   Lãng theo đường sông (chủ  yếu là sông Cầu). Điều này rất thuận lợi do Phù   Lãng không phải lấy đất sét tại chính làng họ, tránh phá vỡ cấu trúc địa chất và   cảnh quan làng nghề. Ðất để  làm đồ  sành phải là loại đặc biệt, có độ  dẻo. Lấy được đất về, người   thợ phải phơi cho đất bạc màu trộn lẫn các lần đất, đập thành những viên nhỏ  bằng ngón chân cái rồi mới cho "ngậm" nước, sau đó xéo tròn, nề đất, chọn sạn,  phá, sa cho tới  khi  đất phải nhuyễn mịn như  một miếng giò mới thôi. Một  miếng đất trước khi chuốt phải nề, xéo tới chục lần mới thành khoanh cho lên  bàn xoay nắn thành sản phẩm. Dưới bàn tay của người thợ thủ công, đất sét được luyện thật nhuyễn, đảm bảo   độ dẻo, mịn nhất định và được tạo hình trên bàn xoay bằng tay hoặc trên khuôn. Bước 2: Tạo hình. Về  mặt tạo hình, gốm Phù Lãng được sử  dụng nhiều phương pháp khác nhau   trong nghệ  thuật tạo dáng, với những hình khối đa dạng. Nhưng nhìn chung có  thể  quy vào hai phương pháp cơ  bản:phương pháp thứ  nhất tạo hình trên bàn  xoay (làm trong gốm gia dụng và trên gốm trang trí) ; phương pháp thứ hai đó là, 
  6. in trên khuôn gỗ hoặc khuôn đất nung rồi dán ghép lại ( làm trên đồ tín ngưỡng).  Mỗi loại hình sản phẩm, mỗi chủng loại hàng đều có những kỹ  thuật, kỹ  xảo   riêng, tất cả đều nhằm đạt được hiệu quả tối đa về hai phương diện kinh tế và   thẩm mỹ. Cũng như nghề gốm Bát Tràng (Gia Lâm), và Thổ Hà (Bắc Giang), phương pháp  tạo hình sản phẩm (có tiết diện tròn) là chuốt. Tất cả  các sản phẩm được đưa  lên bàn xoay tay. Hoạt động xung quanh bàn xoay tay cần phải có 2 người, trong  đó một người chuyên ngồi chuốt, một người vần bàn xoay. Người vần bàn xoay   đồng thời làm nhiệm vụ  lăn đất thành đòn để  chuốt (còn gọi là xe đòn). Sản   phẩm sau khi đã tạo hình xong, để  cho se dần, đến khi sờ  tay vào không thấy  dính, lúc bấy giờ người thợ tiến hành chúng, đấm, thúc bên trong của sản phẩm   cho thành hình đồ vật, rồi lại để cho ráo. Lúc này nếu thấy sản phẩm có vết rạn  nứt thì được vá lại bằng đất mịn và nát. Bước cuối cùng trong khâu hoàn thành sản phẩm là ve, nạo sản phẩm sau khi  sản phẩm đã thành bạc hàng (chuyển màu trắng). Ve, nạo xong sản phẩm dược   tráng một lớp men lên, tạo màu sắc. PHẦN 3: Các sản phẩm gốm Phù Lãng: Các sản phẩm gốm Phù Lãng có sắc thái riêng biệt, đó là những sản phẩm gốm  men nâu, nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu, mà người ta gọi chung là men   da lươn. Thêm nữa, nét đặc trưng nổi bật của gốm Phù Lãng là phương pháp  đắp nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là chạm kép, màu men tự nhiên, bền  và   lạ,   dáng   của   gốm   mộc   mạc,   thô   phác   nhưng   khỏe   khoắn,   chứa   vẻ   đẹp  nguyên sơ của đất với lửa và rất đậm nét của điêu khắc tạo hình. Gốm Phù Lãng tập trung vào 3 loại hình: 1. Gốm dung trong tín ngưỡng ( lư hương, đài thờ, đỉnh,…) 2. Gốm gia dụng ( lọ, bình, ang, chum, vại, bình vôi, ống điếu,…) 3. Gốm trang trí ( bình, ấm hình thú như ngựa, voi,…) PHẦN 4: Nét đẹp của gốm Phù Lãng
  7. Gốm Phù Lãng có nét sắc thái riêng biệt, đó là những sản phẩm gốm men nâu,   nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu… mà người ta gọi chung là men da   lươn. Thêm nữa, nét đặc trưng nổi bật của gốm Phù Lãng là sử  dụng phương  pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là chạm kép, màu men tự nhiên,  bền và lạ; dáng của gốm mộc mạc, thô phác nhưng khỏe khoắn, chứa đựng vẻ  đẹp nguyên sơ của đất với lửa, và rất đậm nét của điêu khắc tạo hình.            Nếu Bát Tràng ồn ào, nhộn nhịp sầm uất với những sản phẩm hiện đại  được tạo ra đặc trưng từ chất liệu đất sét trắng và Thổ  Hà một thời huyên náo  đò đầy dọc ngang với những sản phẩm từ đất sét xanh. Còn Phù Lãng luôn mộc  mạc, bình dị như chính sản phẩm mà họ tạo ra từ đất sét đỏ trầm đặc trưng.               Nổi bật so các dòng gốm khác, gốm Phù Lãng được phủ một lớp men   đặc trưng nhất, được các nghệ nhân gọi tên như: da lươn, quả duối, hạt na, cua   đá rất đặc trưng, thanh nhã và bền đẹp những lớp men này được các nghệ nhân  đúc kết từ  kinh nghiệm theo thời gian và truyền thống lâu đời của làng nghề.   những sản phẩm đạt tiêu chuẩn phải có màu da lươn vàng óng hay màu cánh  gián, khi gõ vào sản phẩm có tiếng vang.              Nếu vẻ đẹp của Bát Tràng là sự  đa dạng về nước men, những nét vẽ  tinh tế, thì hồn cốt của Phù Lãng được tạo nên từ  sự  dân dã, mộc mạc, dáng  gốm đơn giản, khỏe khắn tăng thêm điểm nhấn từ nước men da lươn này.      Đặc trưng nghệ thuật của gốm Phù Lãng          Đặc trưng của gốm Phù Lãng là màu sành nâu tráng men da lươn cùng các   họa tiết, hoa văn thường là rồng, phượng, hổ  phù, hoa sen, lá đề. Do được làm   hoàn toàn thủ  công nên sản phẩm của mỗi nhà một khác từ  hình dáng cho đến   màu men vàng da lươn (vàng nhạt, vàng thẫm, vàng lục, vàng nâu, vàng đỏ...) ­  và đó là kỹ thuật, là bí quyết của từng hộ, có khi chỉ nhìn vào sản phẩm, những   khách quen có thể nhận biết được đó là hàng của nhà nào.          Loại gốm sành nâu của Phù Lãng được phát triển từ  loại gốm đất nung   với nhiệt độ lò nung được nâng dần từ 600, 700 độ C đến 1.200 độ C. Gốm sành  nâu được làm từ  đất sét thường.  Ở  nhiệt độ  1.200 độ  C, xương gốm đã chớm  chảy, kết dính hạt mịn và rắn chắc, trở thành sành sứ.          Gốm sành nâu xuất hiện từ đầu Công nguyên. Những phát hiện kho cổ học   cho thấy: hàng loạt lò nung gốm sành nâu cổ ở Thanh Hoá, Hi Dưng, Bắc Ninh...  
  8. Tới thế kỷ XIV, XV và những thế kỷ sau, gốm sành nâu bắt đầu nổi tiếng khắp   trong nước với các địa danh Hưng Canh (Vĩnh Phúc), Thổ  Hà, Phù Lãng (Bắc  Ninh), Móng Cái, Đông Triều (Qung Ninh), Việt Hưng (Thái Bình), Bến Ngự  (Thanh Hoá), Mường Chanh (Sơn La), Vân Đình, Quế  Quyển (Hà Tây), Biên   Hoà (Đồng Nai), Lái Thiêu (Bình Dưng), v.v...            Gốm sành nâu: màu đỏ tía, nâu đỏ, nâu thẫm, mận chín, đồng hun hoặc   màu chu hồng. Được nung  ở  nhiệt độ  cao, gốm sành nâu có lớp da ngoài đanh  mặt, nhẵn bóng. Không phải bất kỳ  loại đất sét nào cũng cho sản phẩm gốm  sành nâu có chất lượng tốt.             Ở thế kỷ XIV­XV, khi men trên gốm sành xốp hoa nâu và gốm hoa lam   phát triển thì một số  lò gốm sành nâu có men, trong đó nổi tiếng nhất là gốm   Phù Lãng. Có thể phân biệt gốm của ba làng Bát Tràng, Thổ  Hà, Phù Lãng qua  xương gốm và bề mặt ngoài sản phẩm.             Gốm Bát Tràng thuộc loại sành trắng, xương gốm trắng mịn, mặt ngoài   phủ  một lớp men mỏng màu trắng hoặc trắng ngà, dưới men có thể  nhìn thấy  những hoạ  tiết mà lam. Sau này, Bát Tràng sản xuất cả  những loại gốm men   màu với kỹ  thuật tạo tác và thủ  pháp trang trí đạt trình độ  điêu luyện được   khách nước ngoài  ưa chuộng. Nhưng cơ  bản, gốm ni đây vẫn giữ  được những  đặc điểm cốt yếu của loại gốm sành trắng (ảnhư  xương gốm trắng, mịn, men  mỏng, trong, bóng đều, thường có màu nền trắng hoặc trắng ngà).             Gốm Thổ Hà thuộc loại gốm sành nâu, xương gốm màu nâu đỏ hoặc nâu  đen. Tuy không phủ men, nhưng do đất gốm được luyện kỹ, rồi nung ở nhiệt độ  cao, xưng gốm đã chớm chảy nên khi ra lò, trên bề mặt sản phẩm loại gốm này   như được tráng một lớp men nâu mỏng, bóng loáng. Chính lớp men ấy cùng với   cốt gốm dày, nặng đã tạo nên vẻ  mộc mạc, thô khoẻ  của sản phẩm, phù hợp   với thẩm mỹ bình dân, lại có chiều kín đáo, sâu sắc.              Về kỹ thuật tạo dáng, tạo khối nung, gốm Phù Lãng không khác nhiều  so với gốm Thổ Hà. Nhưng về mặt nghệ thuật, gốm Phù Lãng đã vượt xa gốm  Thổ  Hà, bởi nó là loại gốm sành nâu đã được tráng một lớp nước men hoàng  thổ, huyền thổ có sắc nâu vàng hoặc nâu đen khá dầy, thường gọi là men da lưn.   Men của nó không bóng như men gốm sành trắng Bát Tràng, không đều màu mà  có chỗ đậm, chỗ nhạt, chỗ rạn men, chỗ co men, rất phù hợp với nét đặc trưng   nổi bật của dáng gốm sành nâu nói chung là đầy đặn, chắc khoẻ.
  9.               Đặc biệt mặt hàng gốm trang trí của Phù Lãng rất được khách hàng  quốc tế  yêu thích bởi nét đặc trưng là sử  dụng phương pháp đắp nổi theo hình  thức chạm bong, mà người Phù Lãng gọi là chạm kép các đề  tài truyền thống­   tứ linh, cảnh sinh hoạt và phong cảnh làng quê… PHẦN 5: Nghệ nhân nổi tiếng làng gốm Phù Lãng. Bên cạnh những sản phẩm gốm đẹp chuẩn mực  từng chi tiết , từng hoa văn và  có thể an tâm đem đến cho người dùng thì không thể không nhắc đến công sức ,  nói chính xác hơn là bàn tay tâm huyết của những người dùng đôi tay của mình  để  tạo lên – đó chính là những nghệ  nhân của  làng nghề, người nối tiếp của  cha ông để rồi sau này cũng sẽ trao truyền lại cho đời con cháu.  Nằm ven con sông Cầu thơ mộng quê hương gốm sứ tấp nập bởi những chuyến   xe chở  hàng đi tiêu thụ, các công xưởng nhộn nhịp với những gian trưng bày  đang thu hút hàng trăm lượt khách du lịch đến từ mọi miền tổ quốc và cả khách  nước ngoài.  Dưới bến là những con tàu trở đất sét xuôi ngược đến từ Yên Tập,   Yên Dũng ( Bắc Giang). Du nhập từ thế kỉ 18 , gốm sứ Phù Lãng nổi bật với ba   loại hình truyền thống: gốm dùng trong tín ngưỡng, dùng trong gia đình, trang  trí. Thế nhưng hiện nay, thay vì những dáng vẻ đơn điệu , thô sơ , một số nghệ  nhân trẻ  đã khẳng định được thương hiệu gốm Phù Lãng bằng cách mạnh dạn  thay đổi loại hình gốm sứ  cổ  xưa sang mặt hàng gốm sứ  mỹ  nghệ  mới. Gốm   Nhung và gốm Ngọc được coi là 2 thương hiệu đặc trưng của gốm Phù Lãng  với nhiều mặt hàng được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.  Nghệ  nhân Vũ Hữu Nhung – sinh năm 1974 : “ Chúng tôi luôn cố  gắng tìm tòi,  thể hiện các sản phẩm trên các chất liệu khác nhau như gạch, gỗ,đá…  Đôi khi   là lấy cảm hứng từ gỗ cỏ, cây ,hóa,lá để chế tạo ra những mẫu gốm tinh xảo và   độc đáo” đây là những gì mà anh đã tâm sự  khi được hỏi đến mục đích để  anh  tạo dựng lên thương hiệu mới sáng tạo gây dựng trên làng nghề  của mình. Anh  được đồng nghiệp trong và ngoài nước biết đến từ  năm 24 tuổi với các giải  thưởng và những tác phẩm gốm sứ  chiếm được nhiều thiện cảm của một só  bạn hàng khó tính trên thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc … Anh đã tạo điều   kiện công  ăn việc làm cho hơn 200 lao động trong làng , với mức lương từ 2 –   2,5 triệu đồng / tháng. Ngoài làng gốm lớn tại Quế  Võ, anh còn mở  thêm chi  nhánh tại Hà Nội và các tỉnh phía Nam. Yêu nghê, tâm huyết với nghề nên hiện  tại anh đang làm giảng viên của trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội. 
  10. Anh chia sẻ rằng “ Tôi muốn các bạn trẻ hôm nay sẽ có nhiều đổi mới hơn nữa  để phát triển và làm lớn mạnh thương hiệu gốm sứ Phù Lãng”. Bên cạnh xưởng gốm của anh Nhung thì một nghệ nhân khác cũng với long tâm   huyết yêu nghề  cũng đã tạo dựng cho mình một cơ  sở  gốm và có thương hiệu  trên thị trường . Anh Nguyễn Minh Ngọc , sinh ra trong một gia đình có truyền   thống làm gốm, trước sự  biến chuyển mạnh mẽ  của toàn xã hội, những chiếc   chum, vò màu đất của làng gốm Phù Lãng không còn giữ được vị thế của mình  trên thị trường trước tình hình “ế ẩm” này, Nguyễn Minh Ngọc cũng giống như  nhiều bạn trẻ ở Bắc Ninh khi ấy, từng nghĩ đến việc chọn một con đường khác   để  có thể  thoát ly khỏi công việc nông nghiệp  ở  quê nhà , anh tâm sự  “ Trước   kia, những nghệ  nhân Phù Lãng chỉ  quen với những mặt hàng gốm cổ  , năm   2001 , tôi đã quyết tâm thi đỗ  vào trường đại học Mỹ  Thuật Công nghiệp Hà  Nội để  về  quê phát triển nghề  gốm sứ” và niềm đam mê , sự  cố  gắng không   nghừng của bản thân đã giúp anh tìm tòi và sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo   mới mang thương hiệu của riêng mình trên mảnh đất làng nghề  , anh cũng tạo  điều kiện cho hơn 100 công nhân ở đây có công ăn việc làm ổn định.  Ngoài ra cũng còn có một số nghệ nhân khác như Trần Mạnh Thiều với thương   hiệu gốm Thiều, Nguyễn Minh Nhật với sản phẩm gốm Thương Nguyên….. PHẦN 5: Hiện trạng phát triển của nghề làm gốm Phù Lãng Hiện nay sự  phát triển gốm Phù Lãng gặp rất nhiều khó khăn và chính những  khó khăn chồng chất đang tồn tại đã tác động trực tiếp đến nghề  gốm truyền   thống Phù Lãng. Nếu như  trước đây người Phù Lãng sống chết, ăn ngủ  cùng  gốm thì giờ đây chỉ còn rất ít lò gốm “sáng lửa và tỏa khói”. Các sản phẩm gốm   Phù Lãng ngày nay đa phần là đồ  gia dụng cấp thấp được chất lên xe thồ  bán  dạo phục vụ nhu cầu địa bàn và một vài tỉnh lân cận. Việc giảm dần các lò gốm, cùng giá trị kinh tế thấp của sản phẩm đã tác động   không nhỏ đến tâm lý người làng nghề đặc biệt là chất lượng sản phẩm. Cùng  với sự thu nhỏ làng nghề, gốm Phù Lãng cũng phải đối mặt với thực trạng mất   chỗ đứng trên thị trường tiêu dùng bởi chất lượng mẫu mã sản phẩm. Nhiều người tâm huyết với gốm Phù Lãng không khỏi xót xa lo lắng khi chứng   kiến gốm Phù Lãng cứ đều đều ra lò song lại theo một quy trình cẩu thả, trượt   xa về  mặt chất lượng so với các sản phẩm của các nước trong khu vực như:  
  11. Trung Quốc, Nhật Bản.... Trước kia người Phù Lãng luôn đặt công thức sản  xuất: “Nhất xương nhì da, thứ  ba dạc lò” hay “Đời cha luyện đất đời con làm  đồ” lên hàng đầu. Ngày nay, dưới sức ép của thời hạn hợp đồng, người sản  xuất gốm đã không ngần ngại bỏ  qua các khâu xử  lý kỹ  thuật về  xương, men   gốm... Thậm chí, đất luyện đến đâu được cho vào lò đến đó, các công đoạn chế  tạo men, bí quyết của nghệ nhân bị bỏ qua và thất truyền. Sẵn khuôn sẵn mẫu,  người thợ chỉ có công việc đắp, nặn... rồi cho vào lò nung bởi vậy mẫu mã hàng  hoá ngày càng đơn điệu, thiếu sáng tạo. Một vài cơ  sở  có quy mô lớn, hướng tới mục tiêu sản xuất tạo ra những nét  mộc mạc của làng gốm Phù Lãng trên các mặt hàng trang trí, phục vụ  nhu cầu   trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, do chạy theo nhu cầu thị trường lại thiếu   hụt đội ngũ nghệ  nhân lành nghề  nên gốm trang trí phần nhiều là những mẫu  sao chép, nhái lại...  Khi nghề  truyền thống không đủ  sức mạnh để  nuôi sống, lôi cuốn, để  người  lao động tâm huyết với nghề thì cũng đồng nghĩa với việc mất dần nghệ nhân.   Cho đến nay số  nghệ  nhân còn lại của Phù Lãng nhiều lắm cũng chỉ  đếm trên  đầu ngón tay. Tre thì cứ  già mà măng thì chẳng mọc. Việc đào tạo nghệ  nhân,  lưu giữ  nghề  truyền thống, xây dựng một thương hiệu gốm Phù Lãng dường   như vẫn là bài toán khó giải mà các cấp có thẩm quyền đang bỏ  ngỏ. Và, cũng  thật khó mà đòi hỏi sự bình tâm sáng tạo của các nghệ  nhân trong bối cảnh thị  trường gốm sứ luôn sôi động mà người làng nghề thì vẫn nghèo khó nên không  thể dành nhiều thời gian cho các ý tưởng ra đời. PHẦN 6: Giải pháp. Vấn đề  bảo tồn và phát huy các giá trị  của làng nghề  luôn là bài toán, là thách  thức đồng thời cũng là mục tiêu hướng đến của các nhà quản lý, các doanh   nghiệp, làng nghề trong điều kiện mới, thời kỳ CNH – HĐH đất nước. Các giải  pháp tác giả  đưa ra dưới đây hi vọng sẽ  phần nào đó giúp các làng nghề  và  những đơn vị liên quan giải quyết được những khó khăn, bất cập đang tồn tại,  mặt khác đó cũng là những việc làm cần thiết cho công tác bảo tồn và phát triển  làng nghề hiện nay. Thứ nhất, cơ chế chính sách và nguồn vốn:
  12. Ngày   24   tháng   11   năm   2000   Thủ   tướng   Chính   phủ   đã   ra   Quyết   định   số  132/2000/QĐ­TTg về  một số  chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề  nông thôn; tiếp đó là Nghị định số 66/2006/NĐ­CP của Chính phủ ban hành ngày  7 tháng 7 năm 2006 về phát triển ngành nghề nông thôn với các chính sách, chủ  trương quan trọng nhằm khuyến khích ngành nghề nông thôn, các doanh nghiệp,  làng nghề  phát triển. Cần đề  ra những chính sách mềm dẻo, có cơ  chế  thông  thoáng, khuyến khích sự đầu tư của các nguồn vốn trong  và ngoài nước vào các  hoạt động phát triển du lịch làng nghề, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các giá   trị văn hóa tại đây. Thứ hai, tìm đầu ra cho sản phẩm: Việc tìm kiếm thị trường, dự báo và phân khúc thị trường là những công việc có  ý nghĩa hết sức quan trọng để  tìm đầu ra cho sản phẩm của làng nghề. Hiện  nay, nhiều sản phẩm tại các làng nghề  sản xuất ra nhưng lại bị tồn kho không  có hướng giải quyết, điều cần thiết trước mắt là tìm thị  trường cho các sản  phẩm ấy, kích cầu trong nước là giải pháp trước tiên và lâu dài. Cần thiết phải  có các khu trưng bày sản phẩm của làng nghề. Việc ký kết bán hàng độc quyền cho 1 số  quốc gia ví như  việc làm của cơ  sở  sản xuất gốm Nhung đang làm với Nhật Bản được xem là hướng đi mới, bền  lâu và hiệu quả  để  các cơ  sở  sản xuất gốm khác cần học tập và đi theo. Cùng   với đó là công tác đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại chỗ  thông qua việc phát   triển hoạt động du lịch làng nghề  đây là con đường nhanh nhất để  đưa khách  hàng tới với sản phẩm làng nghề, là biện pháp quảng cáo hữu hiệu nhất và có   sức lan tỏa lớn không chỉ  đối với người dân đất Việt mà còn với bạn bè thế  giới. Thứ ba, đào tạo nguồn nhân lực: Cần có các biện pháp tôn vinh và gìn giữ các nghệ nhân tài năng như những báu  vật của quốc gia, như giữ những giá trị  văn hóa dân tộc đang tồn tại trên từng   sản phẩm của làng nghề. Ngoài việc truyền nghề, dạy nghề  theo lối cầm tay   chỉ việc cần phải có các lớp học trong nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả làm   nghề  trong giai đoạn hiện nay, tạo ra một đội ngũ thợ  thủ  công có trình độ  tay  nghề cao, đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi ngày một cao của xã hội.
  13. Khuyến khích các làng nghề  truyền thống tự mở  các lớp, trung tâm dạy nghề.   Thành lập các trung tâm giới thiệu việc làm tại các làng nghề nhằm giúp người   lao động có thêm các thông tin, cơ hội tìm được việc làm phù hợp với năng lực   và đam mê của mình. Kết hợp với các trường Đại học, Cao đẳng đào tạo mang  tính đặc thù như  Đại học Sư  phạm Nghệ  thuật Trung  ương, trường Đại học   Mỹ  thuật Công nghiệp,.... giúp người lao động có cơ  hội được tiếp cận với   những  ứng dụng nghệ  thuật, công nghệ  để  nâng cao trình độ  kỹ  thuật, bồi   dưỡng kỹ  năng quản lý doanh nghiệp. Đẩy mạnh việc giáo dục tinh thần yêu  nước, yêu quê hương dân tộc  trong đó có giáo dục về  lòng tự  hào và yêu mến   nghề thủ công truyền thống, làng nghề truyền thống là rất quan trọng.  Bốn là, phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch:  “Làng nghề truyền thống được xem là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn có   ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi các sản phẩm du lịch làng nghề  luôn bao gồm   trong nó cả nội dung giá trị vật thể và phi vật thể” Phát triển du lịch làng nghề  chính là giải pháp tạo xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm của làng nghề thông qua   việc tham quan mua sắm của du khách trong các chương trình du lịch làng nghề.  Các cơ quan chức năng của Tổng cục Du lịch phải có biện pháp phối hợp quản  lý, chỉ đạo giữa địa phương với các công ty lữ hành tiến hành mở tour đến Phù   Lãng. Hình thành tuyến du lịch gốm sứ: Hà Nội – Bát Tràng – Phù Lãng (Bắc  Ninh) – Chu Đậu (Hải Dương). Tuyến du lịch văn hóa tâm linh – làng nghề  ví  dụ như: Hà Nội – Đền Đô – Chùa Dâu – gốm Phù Lãng.     Nghiên cứu về  mô hình du lịch sinh thái cộng đồng, tại khu vực có thể  phù   hợp với những thị trường khách như: khách du khảo đồng quê, khách du lịch tìm   hiểu về  làng nghề, khách dã ngoại....; Khai thác các sản phẩm hàng hóa trong  vùng (do người dân địa phương sản xuất) phục vụ nhu cầu mua sắm hàng, quà  lưu niệm của du khách... Thứ năm, đầu tư, cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật:           Nâng cấp xây dựng hoàn thiện các cơ sở vật chất dọc theo tuyến đường   từ  Quốc lộ  18 đi vào làng và tới các xưởng sản xuất.   Xây dựng khu tập kết  nguyên liệu chung. Tăng cường các dịch vụ  vận chuyển thô sơ  tại địa phương  vào hoạt động du lịch như xe đạp, xe bò, thuyền bè chèo tay… vừa tạo tính gắn  kết vừa tạo nét độc đáo của làng nghề.
  14. Thứ sáu,xây dựng thương hiệu cho làng nghề:           Đối với làng nghề truyền thống như làng nghề gốm Phù Lãng thì việc tạo   dựng thành công thương hiệu sẽ  kéo theo hiệu quả  kinh doanh tăng lên và đòi  hỏi chất lượng sản phẩm tương  ứng để  có thể  cam kết giữ  vững niềm tin nơi   khách hàng; thương hiệu chính là kênh quảng cáo hiệu quả nhất, nhanh nhất cho   sản phẩm; tránh được những rủi ro trong việc bị  mất thương hiệu vào tay các  cơ sở sản xuất khác.  Thứ bảy, liên kết, hợp tác bền vững theo thế  kiềng ba chân: Nhà thiết kế, sản  xuất – Nhà doanh nghiệp – Nhà quản lý: Quá trình liên kết, hợp tác để đưa từ ý tưởng, sáng tạo đến sản xuất rồi tiêu thụ  sản phẩm dưới sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp quản lý diễn ra nhuần nhuyễn   bao nhiêu thì hiệu quả  kinh tế, xã hội của quá trình phát triển nghề  thủ  công  truyền thống càng thuận lợi và tốt đẹp bấy nhiêu.  Thứ tám, chiến lược cạnh tranh: Cạnh tranh bằng sự  khác biêt (differentiation). Cần xem đây là phương hướng,   chiến lược cạnh tranh cơ bản, quan trọng và lâu dài nhất.  Cạnh tranh bằng giá (cost leadership). Là phương thức quen thuộc của các đơn  vị  sản xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay không nên xem đây là chiến  lược cạnh tranh chính. Đầu tư tập trung, đúng mực (Investment focus) Nói tóm lại, làng nghề là tài sản quý giá không chỉ của địa phương nói riêng mà   của cả nước nói chung, cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tại   đó. Tuy quan trọng là vậy nhưng, sự  quan tâm đầu tư  phát triển làng nghề  còn   chưa được chú trọng, ưu tiên. Những năm gần đây, làng nghề nói chung và làng  nghề gốm Phù Lãng nói riêng đang có những bước phát triển đồng đều trên các   bình diện về kinh tế ­ văn hóa – xã hội và môi trường, hướng gần nhất đến sự  phát triển bền vững. Đó là tín hiệu vui và là hi vọng cho sự phát triển mạnh mẽ  trở  lại của các làng nghề  Việt trong bối cảnh kinh tế  ­ văn hóa – xã hội hiện   nay.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2