intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM

Chia sẻ: Tu Oanh05 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

78
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Định nghĩa Ngân hàng thương mại Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, giải thích: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng (khoản...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM

  1. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
  2. Lớp Ngân hàng 4 ngày 1 khoá 17 Học viên: Lê Nguyễn Anh Huy HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM Phần 1: Lý thuyết chung về hệ thống ngân hàng thương mại 1. Định nghĩa Ngân hàng thương mại Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, giải thích: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng (khoản 1 điều 20). Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan (khoản 2 điều 20). Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán (khoản 7 điều 20). Như vậy có thể định nghĩa về Ngân hàng thương mại như sau: Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. 2. Chức năng của Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản: chức năng trung gian tài chính, chức năng tạo tiền và chức năng “sản xuất”. 2.1 Chức năng trung gian tài chính Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian khi thực hiện các nghiệp vụ cấp tín dụng, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động môi giới khác. Trung gian ở đây bao gồm:
  3. Trung gian giữa các khách hàng với nhau. Đó là trung gian giữa người gửi tiền và người vay tiền, trung gian giữa người trả tiền và người nhận tiền, trung gian giữa người mua và người bán ngoại tệ… Trung gian giữa Ngân hàng Trung ương (ở Việt Nam hiện nay gọi là Ngân hàng Nhà nước) và công chúng. Do tính chất Ngân hàng Trung ương không có giao dịch trực tiếp với công chúng mà chỉ giao dịch với các Ngân hàng thương mại (vì vậy Ngân hàng Trung ương còn được gọi là ngân hàng của các ngân hàng), trong khi các Ngân hàng thương mại vừa giao dịch với công chúng vừa giao dịch với Ngân hàng Trung ương. 2.2 Chức năng tạo tiền Ngân hàng thương mại sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát triển nền kinh tế. Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới phân ra nhiều dạng khối tiền tệ, bao gồm: M1 = Tiền mặt phát hành bao gồm tiền giấy và tiền kim loại cộng với tiền gửi không kỳ hạn. M2 = M1 + tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ tại Ngân hàng. M3 = M2 + tất cả các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác. L = M3 + các loại trái phiếu, thương phiếu và công cụ khác của thị trường tiền tệ. 2.3 Chức năng “sản xuất” Ngân hàng thương mại huy động và sử dụng các nguồn lực đất đai, lao động và vốn để tạo ra “sản phẩm” và dịch vụ đặc thù cung cấp cho khách hàng, bao gồm: Các sản phẩm huy động vốn như tiền gửi và chứng từ có giá các loại. Các sản phẩm cấp tín dụng như cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, cho thuên tài chính,… Các sản phẩm thẻ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ ATM,… Các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ chuyển tiền, thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán quốc tế,…
  4. Các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ như các hợp đồng giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, giao sau, quyền chọn,… 3. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật có liên quan quy định các hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm: 3.1 Hoạt động huy động vốn Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau: Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước. Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước. Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. 3.2 Hoạt động cấp tín dụng Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức: 3.2.1 Cho vay Đây là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các hoạt động cấp tín dụng. Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. 3.2.2 Bảo lãnh Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh
  5. đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một ngân hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của Ngân hàng thương mại. 3.2.3 Chiết khấu Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác. 3.2.4 Cho thuê tài chính Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính. 3.2.5 Bao thanh toán Các Ngân hàng thương mại triển khai thực hiện bao thanh toán như là một hình thức cấp tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp như: bao thanh toán truy đòi, bao thanh toán miễn truy đòi, bao thanh toán ứng trước hay bao thanh toán chiết khấu, bao thanh toán khi đáo hạn trong phạm vi nội địa lẫn quốc tế. 3.2.6 Tài trợ xuất nhập khẩu Hiện nay, khá nhiều Ngân hàng thương mại cung cấp tài trợ xuất nhập khẩu bao trọn gói để hỗ trợ doanh nghiệp. Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu nhằm hỗ trợ về tài chính cùng các phương tiện và giấy tờ liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Các hình thức tài trợ xuất khẩu của các Ngân hàng thương mại còn phong phú hơn do các doanh nghiệp xuất khẩu thường nhận được tài trợ từ các Ngân hàng thương mại về các giao dịch kinh doanh cả trước và sau khi thực hiện các thương vụ xuất khẩu. 3.2.7 Cho vay thấu chi Nhiều Ngân hàng thương mại, đặc biệt là các Chi nhánh Ngân hàng thương mại nước ngoài, đang mở rộng nghiệp vụ thấu chi đến các khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng của họ. Khi sử dụng dịch vụ này, mỗi khách hàng được cấp một
  6. hạn mức thấu chi khi khách hàng tạm thời thiếu hụt trong thanh toán. Khách hàng không cần phải thế chấp hay tín chấp. 3.2.8 Cho vay theo hạn mức tín dụng Khách hàng nộp một bộ hồ sơ vay vốn duy nhất cho một hay nhiều món vay vào đầu quý, Ngân hàng thương mại cấp một hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời gian nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. 3.2.9 Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng Ngân hàng thương mại cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định ngoài hạn mức tín dụng đã được ký ban đầu giữa ngân hàng và khách hàng, áp dụng hạn mức tín dụng dự phòng khi khách hàng không có đủ vốn vì mức vốn đầu tư cho dự án tăng thêm, nhu cầu tiêu dùng, mua sắm tăng thêm… 3.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của Ngân hàng thương mại bao gồm: Cung cấp các phương tiện thanh toán. Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng. Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ. Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. 3.4 Các hoạt động khác 3.4.1 Góp vốn và mua cổ phần
  7. Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh. 3.4.2 Tham gia thị trường tiền tệ Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ. 3.4.3 Kinh doanh ngoại hối Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. 3.4.4 Uỷ thác và nhận uỷ thác Ngân hàng thương mại được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại lý. 3.4.5 Cung ứng dịch vụ bảo hiểm Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật. 3.4.6 Tư vấn tài chính Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng. 3.4.7 Bảo quản vật quý giá Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo quy định của pháp luật.
  8. Phần 2: Thực trạng về hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam trong thời gian qua (2006 - 2008) Hiện nay ở nước ta có rất nhiều loại hình Ngân hàng thương mại được phân theo hình thức sở hữu. Đó là Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần (đô thị và nông thôn), Ngân hàng thương mại liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng thương mại nước ngoài, Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài. Trong mỗi loại hình có rất nhiều ngân hàng, được liệt kê theo các bảng dưới đây: Bảng 2.1 về các Ngân hàng thương mại Nhà nước: Tên ngân hàng Vốn điều lệ Tên ngân hàng Vốn điều lệ (tỷ đồng) (tỷ đồng) 1. Nông nghiệp và Phát 4. Phát triển nhà đồng 744 10.400 triển Nông thôn Việt Nam bằng sông Cửu Long 2. Đầu tư và Phát triển 5. Chính sách xã hội Việt 7.490 5.988 Nam* Việt Nam 13.000 6. Phát triển Việt Nam* 3. Công thương Việt Nam 5.000 * Hiện nay, đây là hai ngân hàng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, ổn định xã hội và phát triển hạ tầng kinh tế, tài trợ xuất nhập khẩu theo chính sách của Nhà nước. Bảng 2.2 về các Ngân hàng thương mại cổ phần: Vốn điều lệ Vốn điều lệ Tên ngân hàng Tên ngân hàng (tỷ đồng) (tỷ đồng) 2.706 20. Sài Gòn-Hà Nội 1. An Bình 2.000 21. Sài gòn công 2. Bắc Á 1.000 1.020 thương 3. Dầu khí Toàn Cầu 1.000 22. Sài gòn thương tín 5.116 4. Gia Định 1.000 23. Thái Bình Dương 1.000 5. Hàng hải 1.500 24. Tiên Phong 1.000 1.000 25. Việt Nam Thương 6. Kiên Long 1.000 tín 7. Kỹ Thương 3.165 26. Việt Á 1.000 8. Liên Việt 3.300 27. Xuất nhập khẩu 4.229 9. Miền Tây 1.000 28. Xăng dầu 1.000 Petrolimex 10. Nam Việt 1.000 29. Á Châu 2.630 1.252 30. Đông Nam Á 11. Nam Á 3.000 12. Ngoài quốc doanh 2.000 31. Đông Á 1.840 13. Nhà Hà Nội 2.000 32. Đại Dương 1.000 14. Phát triển Nhà 1.000 33. Đại Tín 1.000
  9. TPHCM 15. Phương Nam 2.027 34. Đại Á 1.000 16. Phương Đông 1.111 35. Đệ Nhất 1.000 17. Quân Đội 2.363 36. Ngoại thương Việt 12.000 Nam 2.000 37. Mỹ Xuyên* 18. Quốc tế 500 19. Sài Gòn 2.180 * hiện là Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn. Bảng 2.3 về các Ngân hàng thương mại liên doanh: Tên ngân hàng Vốn điều lệ Tên ngân hàng Vốn điều lệ (triệu USD) (triệu USD) (Việt 4. VINASIAM 20 1. INDOVINA BANK 70 Thái) 2. SHINHANVINA 30 5. Việt-Nga 62,5 BANK 3. VID PUBLIC BANK 41 Bảng 2.4 về các Chi nhánh Ngân hàng thương mại nước ngoài: Tên ngân hàng Vốn điều lệ Tên ngân hàng Vốn điều lệ (triệu USD) (triệu USD) 15 15. Deustch Bank (Đức) 1. NATIXIS (Pháp) 15 2. ANZ (Australia & 16. Bank of China New Zealand Banking 20 15 (Trung Quốc) Group)(Úc) 3. CALYON (Pháp) 20 17. Bank of Tokyo 45 Mishubishi UFJ (Nhật) 4. STANDARD 15 18. Mega International 15 Commercial Bank (Đài CHARTERED BANK (Anh) loan) 5. CITY BANK (Mỹ) 20 19. OCBC 15 (Singapore)(Keppel) 6. CHINFON 30 20. Woori Bank (Hàn Commercial Bank 15 Quốc) Co,Ltd (Đài loan) 7. MAY BANK 15 21. JP Morgan Chase 15 Bank(Mỹ) (Malaysia) 8. ABN Amro Bank (Hà 15 22. Korea Exchange lan) Bank (KEB) (Hàn 15 Quốc) 9. Bangkok Bank (Thái 15 23. LAO-VIET Bank 15 lan) (Lào) 10. Mizuho Corporate 15 24. Chinatrust 15 Bank (Nhật) Com.Bank (Đài loan) 11. BNP (Banque 15 25. First Commercial 15
  10. Bank (Đài loan) Nationale de Paris) (Pháp) 12. Shinhan Bank (Hàn 15 26. Far East National 15 Quốc) Bank (FENB) (Mỹ) 13. Hongkong Shanghai 15 27. Cathay United Bank Banking Corporation 15 (Đài Loan) (Anh) 14. United Overseas 15 28. Sumitomo-Mitsui Bank (UOB)(Singapore) Banking Corporation 15 (Nhật Bản)(SMBC) Bảng 2.5 về các Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài: Trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép thành lập và hoạt động cho 5 Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài là HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong leong (trong đó ngân hàng Shinhan và Hong leong vừa được cấp phép ngày 29/12/2008). Nhận xét chung về hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong những năm qua, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới WTO, có những ưu điểm và nhược điểm sau: * Ưu điểm Các Ngân hàng thương mại đã có sự chuyển mình mạnh mẽ để tận dụng tốt những cơ hội trong quá trình hội nhập, khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh “tr ên sân nhà”. Đó là có mạng lưới rộng lớn, có khách hàng truyền thống và hiểu biết về khách hàng cũng như các điều kiện kinh doanh tại Việt Nam, kinh nghiệm nghiệp vụ tích lũy trong nhiều năm qua. Đây là một lợi thế trong việc chăm sóc khách h àng. Do vậy, các Ngân hàng thương mại trong nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay. Hiện nay, thị phần huy động vốn của các Ngân hàng thương mại trong nước chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 90%. Công nghệ ngân hàng là lĩnh vực được các ngân hàng rất chú trọng, coi là phương tiện chủ lực để rút ngắn khoảng cách phát triển so với ngân hàng của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Hầu hết các Ngân hàng thương mại đã đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng lõi (core banking), cho phép quản trị dữ liệu một cách tập trung tại Hội sở chính, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
  11. Một số ngân hàng như Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải đã hoàn thiện giai đoạn 2 dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán, cho phép khai thác tối đa những tiện ích công nghệ ngân hàng, đặc biệt là các kỹ thuật quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế. Về sản phẩm dịch vụ: các Ngân hàng thương mại đã tập trung đổi mới, cho ra đời nhiều sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh những sản phẩm truyền thống như tiền gửi và cho vay, đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới tăng tiện ích cho khách hàng như: tăng tiện ích của tài khoản cá nhân, phát triển dịch vụ thẻ, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại như phone banking, internet banking… Dịch vụ tiền gửi được đa dạng hóa, cho phép người gửi có nhiều lựa chọn cho đồng vốn nhàn rỗi của mình. Bên cạnh các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cố định truyền thống, các ngân hàng còn đưa ra các sản phẩm tiền gửi được hưởng lãi suất biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo giá trị theo vàng, được bù chênh lệch tỷ giá… Đặc biệt, dịch vụ thanh toán thẻ đã có sự phát triển bùng nổ. Nhiều sản phẩm thẻ đa tiện ích đã được giới thiệu tới khách hàng và thanh toán bằng thẻ ATM đã trở nên khá phổ biến tại các tỉnh, thành phố lớn. Về năng lực tài chính: quy mô vốn của các Ngân hàng thương mại đã được tăng lên đáng kể. Theo quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ về ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng phải có vốn điều lệ ít nhất là 1.000 tỷ VND và đến năm 2010 là 3.000 tỷ VND, đến nay, đã có nhiều ngân hàng đạt mức trên 1.000 tỷ đồng đến 3.000 tỷ đồng. Các Ngân hàng thương mại Nhà nước tiếp tục tái cơ cấu: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã cổ phần hoá, hiện Chính phủ đang cổ phần hoá Ngân hàng Công thương Việt Nam và đã đồng ý chủ trương cổ phần hoá Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Nhờ có sự phát triển của thị trường chứng khoán, việc tăng vốn của các Ngân hàng thương mại bớt gặp khó khăn. Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại còn có thể bán cổ phần cho các đối tác n ước ngoài (đến nay đã có 10 Ngân hàng thương mại cổ phần có đối tác chiến lược là ngân hàng nước ngoài, trong đó Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương, Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình, Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam đã bán cổ phần cho ngân hàng
  12. nước ngoài từ 15 - 20% với giá cổ phiếu cao hơn thị trường). Nhờ vậy, các Ngân hàng thương mại có điều kiện mở rộng mạng lưới chi nhánh, địa bàn hoạt động, tăng cường khả năng cạnh tranh. Trước năm 2006, hệ số an toàn vốn của các Ngân hàng thương mại Nhà nước đều không đạt mức yêu cầu 8%, tuy nhiên đến nay đều đã đạt trên mức quy định. Đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần, hệ thống an toàn vốn đều vượt tỷ lệ quy định, thậm chí có nhiều ngân hàng có hệ thống an toàn vốn lên đến trên 20%. Ngoài việc tăng quy mô vốn, nhiều ngân hàng còn đẩy mạnh việc thực hiện cơ cấu lại tài chính như tăng vốn tự có, xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tổ chức và hoạt động. Việc tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cùng với việc tăng vốn chủ sở hữu đã giúp các Ngân hàng thương mại giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu phát sinh từ nhiều năm tr ước, chất lượng tài sản được cải thiện đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của khối Ngân hàng thương mại cổ phần dưới 1%, của các Ngân hàng thương mại Nhà nước dưới 5%. Một số Ngân hàng thương mại cổ phần đã và đang nỗ lực trong việc đổi mới cơ cấu quản trị điều hành theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại, tiêu biểu là trường hợp Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu. Hệ thống quản trị điều hành của Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu gồm Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban kiểm soát nội bộ, Hội đồng tín dụng, Hội đồng đầu tư, Hội đồng kỷ luật, Hội đồng nhân sự và tiền lương, Hội đồng xử lý tài sản, Hội đồng xử lý rủi ro, Ban tài chính kiểm soát. Sau khi tiến hành cổ phần hoá và bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tiến hành chuẩn hóa mô thức hoạt động kinh doanh theo chuẩn mực quốc tế, sau đó áp dụng chuẩn mực quản trị mới và đưa công nghệ vào những ứng dụng phù hợp. * Nhược điểm Các Ngân hàng thương mại trong nước vẫn còn nhiều hạn chế: Thứ nhất, năng lực tài chính của các ngân hàng nội địa còn rất non yếu. Theo dự đoán của VAFI - Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam, quy mô trung bình của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam 5 năm tới chỉ vào khoảng 100 triệu USD/ngân hàng, đây là khoảng cách rất xa so với mức trung bình 1-2 tỷ USD/ngân
  13. hàng ở các nước trong khu vực. Thứ hai, các ngân hàng nước ngoài có thế mạnh về cung cấp dịch vụ, trong khi đó các ngân hàng nội địa chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tín dụng. Theo HSBC, doanh thu từ thanh toán quốc tế chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng này, khách hàng là các công ty Việt Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%, nay đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng của HSBC, dự đoán 3 năm nữa tăng lên 70%. Thứ ba, là vấn đề công nghệ. Các ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ công nghệ ngân hàng với các hệ thống máy móc thiết bị cũng như các ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiệp vụ ngân hàng. Và thứ tư là trình độ quản lý. Yếu tố này liên quan đến vấn đề nhân sự. Việt Nam còn thiếu rất nhiều các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực ngân hàng. Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa trong vấn đề quản lý ngân hàng mà còn là nguy cơ cạnh tranh nhân lực giữa các ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động lên cao. Các ngân hàng tron g nước sẽ gặp khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám. Bên cạnh những điểm hạn chế hay còn gọi là những nguy cơ tiềm ẩn nêu trên, các ngân hàng trong nước còn gặp phải vấn đề đáng lo ngại nữa là thị phần co hẹp. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều bất cập, các ngân hàng chưa xây dựng được phương án phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ một cách đồng bộ và hiệu quả. Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ chưa phong phú, chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại được triển khai chậm, dịch vụ thanh toán thẻ còn hạn chế về phạm vi sử dụng và chưa phát triển được sâu rộng trong đại bộ phận công chúng, dịch vụ internet banking mới dừng lại chủ yếu ở mức truy vấn thông tin, chưa cho phép thực hiện thanh toán, các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như séc cá nhân gần như không được sử dụng, tiện ích thanh toán thẻ còn hạn chế. Các dịch vụ ngân hàng phục vụ cho tầng lớp khách hàng có thu nhập cao chưa được triển khai rộng rãi như bảo quản tài sản, tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư. Kênh cung ứng dịch vụ truyền thống chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ khách hàng cá nhân, các kênh phân phối dịch vụ hiện đại mới chỉ được cung ứng tại
  14. một số ngân hàng, các phương thức giao dịch từ xa dựa trên nền tảng công nghệ thông tin và điện tử chưa phổ biến. Số lượng máy giao dịch tự dộng (ATM) đến nay mới có khoản 4.300 máy, mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ còn ít, chủ yếu tập trung ở các thành phố và đô thị lớn, việc kết nối hệ thống các máy ATM vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, do đó đã làm hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Nhiều ngân hàng chưa có chiến lược tiếp thị rõ ràng trong hoạt động ngân hàng bán lẻ, hoạt động tiếp thị còn yếu và thiếu chuyên nghiệp, tỉ lệ khách hàng cá nhân tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng còn ít. Chính sách khách hàng kém hiệu quả, chất lượng phục vụ chưa cao, các Ngân hàng thương mại Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu cơ bản về dịch vụ ngân hàng của các nhóm đối tượng khác nhau, thủ tục giao dịch chưa thuận tiện, một số qui định và quy trình nghiệp vụ còn nặng về bảo đảm an toàn cho ngân hàng, chưa thuận lợi cho khách hàng. Bộ máy tổ chức chưa theo định hướng khách hàng, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ. Trình độ công nghệ và ứng dụng công nghệ của các ngân hàng còn nhiều bất cập, nền tảng công nghệ thấp, không có khả năng phát triển hoặc mở rộng các ứng dụng mới. Trình độ thiết kế tổng thể còn yếu, hệ thống ứng dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro, các ngân hàng vẫn chưa có một bộ phận chuyên trách nghiên cứu chiến lược phát triển công nghệ thông tin. Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin chưa cao, các sản phẩm mới chưa nhiều, vấn đề bảo mật thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu, nguy cơ rủi ro còn tiềm ẩn với cả khách hàng và ngân hàng. Trên tầm vĩ mô, mặc dù môi trường pháp lý đã được cải thiện đáng kể, nhưng các văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các quy trình thao tác giao dịch thủ công, mang nặng tính giấy tờ và phức tạp trong quá trình xử lý, nhiều quy chế đã trở nên bất cập và không bao hàm hết các mặt nghiệp vụ. Mặc dù, Luật Doanh nghiệp đã được sửa đổi vào năm 2005, nhưng thiếu một hệ thống luật nghiêm chỉnh về quản lý tổ chức và quản trị ngân hàng, các Ngân hàng thương mại phải dựa vào các quy định ngắn hạn để xây dựng cơ chế quản trị riêng,
  15. chủ yếu là Nghị định 49/2000/NĐ -CP và Quyết định 1087/2001/QĐ-NHNN hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc Ngân hàng thương mại. Hiện nay, mô hình tổ chức và quản lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam được phân biệt chủ yếu theo chức năng với hai cơ cấu quyền lực là cấp quản trị điều hành và cấp quản lý kinh doanh. Cấp quản trị điều hành là Hội đồng quản trị gồm Chủ tịch Hội đồng quản trị và một số thành viên chuyên trách, làm việc theo chế độ tập thể, giúp việc Hội đồng quản trị có Ban chuyên viên và Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý đối với mọi hoạt động của ngân hàng, chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn; ban hành điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Cấp quản lý kinh doanh gồm Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng và các phòng ban tham mưu giúp vịêc tại Hội sở chính. Cấp trực tiếp kinh doanh gồm các đơn vị hạch toán độc lập, các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp và đơn vị hùn vốn kinh doanh. Mô hình hiện tại theo hai cấp như trên bộc lộ một số nhược điểm: Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất, nhưng không tập trung được các luồng thông tin về hoạt động ngân hàng để xây dựng, kiểm tra các mục tiêu chiến lược và ra quyết định nhằm phòng ngừa rủi ro. Các phòng ban nghiệp vụ từ Hội sở chính đến Chi nhánh được phân nhiệm theo chức năng nghiệp vụ và cắt khúc theo địa giới hành chính, chưa chú trọng phân nhiệm theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ. Thiếu các bộ phận liên kết hoạt động và các quyết định giữa các phòng ban nghiệp vụ để Hội đồng quản trị và Ban điều hành bao quát toàn diện hoạt động và tập trung nguồn lực vào những định hướng chiến lược. Mô hình hai cấp như hiện nay chỉ phù hợp trong điều kiện hoạt động quy mô nhỏ và mức độ tập trung quyền lực cao, trong khi xu hướng chung là các Ngân hàng thương mại ngày càng tăng quy mô hoạt động. Các Ngân hàng thương mại còn lúng túng trong việc hoạch định kế hoạch và chiến lược kinh doanh, hầu như không có sự độc lập tương đối giữa các chức năng nghiệp vụ và quản trị rủi ro. Việc phân cấp, phân quyền giữa Hội đồng quản trị với
  16. Tổng Giám đốc, giữa Giám đốc phòng ban ở Hội sở chính với các Chi nhánh chưa rành mạch và chưa gắn với trách nhiệm cụ thể, cơ chế tập thể quyết định vẫn còn phổ biến đã dẫn đến tình trạng phân quyền không có tác dụng hoặc bị lạm dụng, gây khó khăn cho kiểm soát nội bộ. Ban kiểm soát có trách nhiệm thực hiện to àn diện hoạt động kiểm soát nội bộ, nhưng lại không độc lập với các bộ phận được kiểm tra, trong đó có Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc. Nhìn chung, kiểm soát nội bộ mới chỉ thực hiện được chức năng kiểm tra, phát hiện và xử lý những vấn đề phát sinh, mà chưa chú ý đến kiểm soát quản lý và kiểm soát tống quát. Nhà nước còn giữ tỉ lệ sở hữu khá lớn trong hệ thống Ngân hàng thương mại, nên không thể tránh khỏi mâu thuẫn và xung đột lợi ích, còn can thiệp quá sâu vào quá trình ra quyết định của các Ngân hàng thương mại, kết quả là quản trị ngân hàng yếu kém và ảnh hưởng tiêu cực quyền lợi của các cổ đông.
  17. Phần 3: Những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện và phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam 1. Định hướng chiến lược phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam Trong thời điểm hiện tại, các Ngân hàng thương mại Nhà nước đang thực hiện đề án tổng thể về cơ cấu lại tài chính, hoạt động và tổ chức để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của khách hàng trong điều kiện hội nhập. Theo chủ trương của Chính phủ, trong số các nội dung cơ bản cần cơ cấu lại bao gồm cả việc cơ cấu lại sở hữu bằng hình thức cổ phần hoá tất cả các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Sau cổ phần hoá sẽ là quá trình tạo ra điều kiện và các nhân tố khách quan để các Ngân hàng này phát triển thành các Tập đoàn Ngân hàng - Tài chính lớn hơn. Không lấy mô hình Tập đoàn hoá để thay thế hoặc “trốn” cổ phần hoá, mà Tập đoàn hoá các Ngân hàng thương mại phải là vấn đề hậu cổ phần hoá, hoặc tạo điều kiện cho những Ngân hàng thương mại hiện đã là Ngân hàng cổ phần phát triển thành mô hình Tập đoàn. Cổ phần hoá các Ngân hàng thương mại Nhà nước gắn liền với hiện đại hoá công nghệ và trình độ quản lý, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tổ chức tín dụng có tiềm lực tài chính, công nghệ, quản lý và uy tín quốc tế mua cổ phiếu đến mức trần tối đa cho phép và đủ tư cách để tham gia điều hành. Đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ, phát triển sản phẩm mới dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến về nghiệp vụ bán lẻ, thanh toán và giao dịch. Phát triển hệ thống công nghệ thanh toán tiên tiến. Các Ngân hàng thương mại phải là thành viên trong mạng thanh toán quốc gia, thống nhất một trung tâm phát hành thẻ do Ngân hàng Trung ương quản lý, giám sát vận hành. Thông qua Trung tâm này không chỉ là giải pháp tiết kiệm rất lớn và dễ dàng phát triển thị trường hơn cho các Ngân hàng thương mại so với mạng khép kín cục bộ hoặc từng nhóm cục bộ như hiện nay, mà quan trọng hơn là đảm bảo cho Ngân hàng Trung ương quản lý có hiệu quả lưu thông tiền tệ trong điều hành Chính sách tiền tệ. Chuẩn hoá các qui trình và thủ tục quản lý theo hướng đồng bộ, hiện đại, tự động hóa và phù hợp thông lệ quốc tế.
  18. Phát triển hệ thống thông tin tập trung và quản lý rủi ro độc lập chịu sự giám sát của Thanh tra chuyên ngành Ngân hàng. Thiết lập và tách bạch các nhóm nghiệp vụ như: Quản lý rủi ro; Quản lý tín dụng; Quản lý tài sản nợ/có; Quản lý tài chính - kế toán; Quản trị nguồn nhân lực; Quản lý thanh toán; Quản lý công nghệ; Quản lý chiến lược kinh doanh và Marketing; Hệ thống thông tin quản lý nội bộ. Thành lập Ban/Hội đồng quản lý tài sản nợ/có và phát triển hệ thống kiểm tra trực thuộc Ban điều hành. Tăng cường năng lực tài chính: tăng vốn tự có của các Ngân hàng thương mại bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, sáp nhập; hợp nhất; mua lại; gọi thêm vốn từ các nhà đầu tư chiến lược... để tăng vốn tự có cấp 1; Phát hành trái phiếu huy động vốn dài hạn trên Thị trường chứng khoán sơ cấp, phát hành kỳ phiếu dài hạn trên thị trường huy động tiền gửi để tăng vốn tự có cấp 2. Bảo đảm vốn tự có/tài sản có tối thiểu (8%) trong trung hạn. Củng cố và phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần theo hướng tăng cường năng lực tài chính và quản lý, đồng thời giải thể, khuyến khích sáp nhập, hợp nhất hoặc bán lại các Ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém về hiệu quả kinh doanh. Bảo đảm quyền kinh doanh của các Ngân h àng và tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết quốc tế đã ký kết theo hướng kiểm soát chặt chẽ sự phát triển thêm của các chi nhánh và khuyến khích hình thành loại Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài hoạt động theo Pháp Luật Việt Nam. Có thể nói, Ngân hàng là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phải mở cửa gần như hoàn toàn theo các cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam được xếp vào diện các ngành chủ chốt, cần được tái cơ cầu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống ngân h àng có uy tín, đủ năng lực cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả cao, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư. Việc này đòi hỏi sự nỗ lực nhiều mặt từ phía Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, và chính nội tại các Ngân hàng thương mại.
  19. 2. Giải pháp từ phía Chính phủ Trước hết cần cải cách Doanh nghiệp Nhà nước, tạo ra sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp. Việc bảo hộ cho khu vực Doanh nghiệp Nhà nước là nguyên nhân chính gây ra nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ xấu tại các Ngân hàng thương mại Nhà nước cao. Chính vì vậy, nếu không kiên quyết đẩy mạnh tiến trình cải cách Doanh nghiệp Nhà nước thì việc cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng sẽ khó thực hiện. Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng cho phù hợp tiến trình hội nhập quốc tế; ban hành Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công cụ để Chính phủ kiểm soát hoạt động cạnh tranh. Thứ ba, thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài chính. Tự do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách cơ cấu và tự do hoá thương mại. Nếu có được lộ trình hội nhập tài chính thích hợp sẽ đảm bảo hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh mà không bị vướng vào các dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác nhau. Thứ tư, khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện hoạt động của thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị trường tài chính - ngân hàng. 3. Giải pháp về phía Ngân hàng Nhà nước Thứ nhất, năng cao năng lực quản lý điều hành. Từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, quy định lại chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước nhằm năng cao hiệu quả điều hành vĩ mô, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính. Thứ hai, phối hợp cùng Bộ Tài chính tham gia xây dựng và phát triển đa dạng thị trường vốn, tạo điều kiện san sẻ bớt gánh nặng cung cấp vốn hiện nay mà các Ngân hàng thương mại đang phải gánh vác. Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng xin phép Chính phủ để đẩy nhanh thực hiện cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà nước, tạo điều kiện cho các ngân hàng này hoạt động an toàn và hiệu quả hơn.
  20. 4. Giải pháp từ chính các Ngân hàng thương mại 4.1 Tăng cường năng lực tài chính Năng lực tài chính của các Ngân hàng thương mại Việt Nam nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số đều còn rất thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính, các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro. Đối với các Ngân hàng thương mại Nhà nước, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng. Đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất, phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những Ngân hàng thương mại hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu hồi giấy phép hoạt động. 4.2 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, chú trọng hoạt động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ hiện đại Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nh ưng vẫn bị đánh giá là yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm hiện đại với chức năng hoạt động giao dịch trực tuyến (Online), tạo th êm nhiều sản phẩm gia tăng cho khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng. Nhìn chung, các phần mềm mà một số Ngân hàng thương mại đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển khai xong, một số bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó. Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ, các Ngân hàng thương mại cần có chính sách khai thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2