intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Một số chỉ tiêu sinh sản của bò Brahman và Drought Master ngoại nhập 3 lứa đầu nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh và khả năng sinh trưởng của bê sinh ra từ chúng

Chia sẻ: 9 9 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

135
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của đề tài này là nghiên cứu và đánh giá khả năng sinh sản của đàn bò cái Drought Master và Brahman ngoại nhập nuôi tại TP. Hồ Chí Minh, và tiến hành đánh giá khả năng sinh trưởng của đàn bê Drought Master và Brahman sinh ra tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo đề tài để nắm bắt nội dung chi tiết hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Một số chỉ tiêu sinh sản của bò Brahman và Drought Master ngoại nhập 3 lứa đầu nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh và khả năng sinh trưởng của bê sinh ra từ chúng

  1. ĐINH VĂN TUYỀN – Một số chỉ tiêu sinh sản cuả bò Brahman .. MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH SẢN CỦA BÒ BRAHMAN VÀ DROUGHTMASTER NGOẠI NHẬP 3 LỨA ĐẦU NUÔI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA BÊ SINH RA TỪ CHÚNG Đinh Văn Tuyền1*, Nguyễn Quốc Đạt2, Nguyễn Văn Hùng1 và Nguyễn Thanh Bình2 1 Bộ môn Dinh Dưỡng và Thức ăn và Đồng cỏ -Viện Chăn nuôi 2Trung tâm Nghiên cứu và chuyển giao TBKT Chăn nuôi – Gò Vấp - TP. Hồ chí Minh *Tác giả liên hệ: Đinh Văn Tuyền - Bộ môn Dinh Dưỡng và Thức ăn và Đồng cỏ -Viện Chăn nuôi Thụy Phương -Từ Liêm - Hà Nội Tel: 04 7571692,/0982932269; Fax: 04 8389 775; Email : vantuyen1973@gmail.com ABSTRACT Re productive performance at first three calving of the imported Brahman and Droughtmaster cows and grouth rate their calves raised in Ho Chi Minh city Several reproductive parameters including calving interval, gestation length and number of service per pregnancy were investigated on the pure Brahman and Drought Master cow herds imported from Australia and raised at Cu Chi farm of the HoChi Minh city Dairy Company. Birth weight and the growth curve of the progenies of such imported cows were also measured. Results show that the imported Brahman cows had an average calving interval of 412 days; that of Drought Master cows 449.6 days, 37 days longer than Brahman cows. Gestation length of both Brahman and Drought Master cows averaged 286-287 days, similar to the values recorded on other imported Brahman and Drought Master herds. Birth weights of the Brahman calves were 22.6 and 20.5 kg for male and female respectively whereas those for Drought Master were 20.8 and 20.6 kg. Weights at 6 months old were 144.3 and 127.4 for Brahman male and female and 134.5 and 128 kg for respective Drought Master calves showing similar weaning weights between the two breeds. However, weights at 2 years old were on average 319.5 for Brahman and 356.8 kg for Drought Master calves indicating a higher growth rate of Drought Master than Brahman calves raised under the same feeding regime. It could be concluded that the calving interval of the both breeds was acceptable and the live weight of Drought Master calves at weaning was similar but at 2 years old higher than Brahman calves. Key words: Beef cattle, reproduction, growth performance ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trong nước thu nhập của người dân cũng đã được nâng lên. Vì vậy nhu cầu về thịt trên thị trường cũng tăng lên đáng kể, đặc biệt là các loại thịt có hàm lượng dinh dưỡng cao như thịt bò. Điều này thể hiện rõ trong sự biến đổi giá thịt bò trong thời gian 5 năm qua (giá thịt bò loại 1 tăng từ khoảng 45.000đ/kg năm 2003 lên 120.000đ/kg hiện nay). Với việc tổng sản lượng thịt bò mới chỉ đáp ứng được trên 5% tổng lượng thịt tiêu thụ (Cục chăn nuôi 2006) thì tiềm năng cho phát triển chăn nuôi bò thịt là rất lớn. Chính vì vậy từ năm 2002 một số địa phương đã nhập một số giống bò chuyên thịt cao sản như Brahman và Drought Master của Australia về nuôi nhằm tăng nhanh số lượng và chất lượng đàn giống bò thịt. Theo thống kê cho đến nay đã có khoảng 5000 bò thịt thuần chủng các giống trên được nhập vào nuôi tại một số địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Bình Định, Bình Dương, Thừa Thiên Huế, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ và Lâm Đồng. Khả năng thích nghi, sinh trưởng phát triển của đàn bò thuần ngoại nhập đã bước đầu được nghiên cứu tại Tuyên Quang, Bình Định, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh và Cần Thơ trong các năm từ 2002-2005. Tuy nhiên do thời gian ngắn nên nghiên cứu trên mới chỉ đánh giá được khả năng sản xuất của đàn bò ngoại nhập mà chưa đánh giá tiếp được khả năng sản xuất của các thế hệ bò thuần sinh ra ở Việt nam. Chính vì thế trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ 1
  2. VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 15-Tháng 12-2008 “Nghiên cứu nhân thuần và lai tạo giống bò hướng thịt chất lượng cao ở Việt nam” chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm bổ sung cho nghiên cứu đã tiến hành ở giai đoạn trước. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Khả năng sinh sản của đàn bò thuần được đánh giá trên đàn cái đàn hạt nhân gồm 50 con Brahman và 50 con Drought Master nhập từ Australia nuôi tại Công ty giống bò sữa TP. Hồ Chí Minh có tuổi trung bình tại thời điểm bắt đầu thí nghiệm (tháng 1/2006) là 49 tháng đối với bò Brahman (dao động trong khoảng 47-51 tháng) và 48 tháng đối với bò Drought Master (dao động từ 46-49 tháng). Khả năng sinh trưởng của bê được đánh giá trên đàn bê Brahman và Drought Master thuộc thế hệ thứ 1 sinh ra tại Việt nam của đàn cái sinh sản nuôi tại Công ty giống bò sữa TP. Hồ Chí Minh. Địa điểm và thời gian nghiên cứu Công ty giống bò sữa Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ 1/1/2006 đến 31/12/2007 Nội dung nghiên cứu Đánh giá khả năng sinh sản của đàn bò cái Drought Master và Brahman ngoại nhập nuôi tại TP. Hồ Chí Minh Đánh giá khả năng sinh trưởng của đàn bê Drought Master và Brahman sinh ra tại Việt nam Phương pháp nghiên cứu và chỉ tiêu theo dõi Thu thập số liệu cá thể về các chỉ tiêu sinh sản như phối giống, mang thai, đẻ của đàn hạt nhân được lựa chọn từ đàn cái ngoại nhập để đánh giá khả năng sinh sản. Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm tuổi đẻ lứa đầu, khoảng cách lứa đẻ, hệ số phối giống và thời gian mang thai. Trong số này, một số chỉ tiêu theo dõi được thu thập từ số liệu gốc do cơ sở chăn nuôi ghi chép từ trước và một số là kết quả theo dõi ghi chép trực tiếp trong thời gian nghên cứu. Phương pháp xác định khối lượng bằng cân điện tử tại các thời điểm sơ sinh, 3, 6, 9, 12, 15, 18, 21 và 24 tháng tuổi được dùng để xác định khả năng sinh trưởng của bê. Khối lượng cân bao gồm số liệu cân đã có từ trước và khối lượng cân bổ sung trong giai đoạn thí nghiệm. Xử lý số liệu Phần mềm Genstat phiên bản Discovery 2 (2005) được sử dụng để xử lí số liệu thống kê. Các giá trị trung bình được xác định bằng phép phân tích trung bình và giá trị cực đại cực tiểu trong khi sự sai khác giữa các giống hoặc giới tính trong cùng giống về một số chỉ tiêu được phân tích phương sai ANOVA. Thuật toán hồi qui được sử dụng để xây dựng phương trình mô tả mối quan hệ giữa tuổi và khối lượng của bê Brahman và Drought Master. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Khả năng sinh sản của bò cái Drought Master và Brahman Để đánh giá khả năng sinh sản của đàn bò cái thuần Drought Master và Brahman nuôi tại TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi đã tiến hành thu thập các số liệu về ngày phối giống, số lần phối 2
  3. ĐINH VĂN TUYỀN – Một số chỉ tiêu sinh sản cuả bò Brahman .. giống, ngày đẻ để từ đó đánh giá các chỉ tiêu khoảng cách lứa đẻ, hệ số phối giống và thời gian mang thai của đàn bò cái theo dõi trong đề tài. Kết quả theo dõi được trình bày ở Bảng 1. Bảng 1: Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản của bò cái Droughtmaster và Brahman nuôi tại TP. Hồ Chí Minh Chỉ tiêu Đơn vị DroughtMaster Brahman n Trung bình n Trung bình (tối thiểu-tối (tối thiểu-tối đa) đa) Tuổi đẻ lứa đầu Tháng 49 39,2 64 38,3 (33,3-54,3) (35-49,5) Khoảng cách giữa lứa đẻ 1 Ngày 38 455,1a 38 411,1b và lứa đẻ 2* (342-613) (308-712) Khoảng cách giữa lứa đẻ 2 Ngày 17 437,5 13 414,7 và lứa đẻ 3 (366-600) (332-623) Khoảng cách lứa đẻ trung Ngày 55 449,6a 51 412,0b bình (342-613) (308-712) Hệ số phối giống lứa 1** Lần/bò có chửa 23 1,13a1 29 1,31b (1-2) (1-2) Hệ số phối giống lứa 2 Lần/bò có chửa 33 1,512 33 1,52 (1-4) (1-3) Hệ số phối giống lứa 3 Lần/bò có chửa 27 1,63a2 39 1,26b (1-4) (1-4) Hệ số phối giống trung bình Lần/bò có chửa 83 1,45 10 1,36 (1-4) 1 (1-4) Thời gian mang thai Ngày 49 287,8 54 286,2 (265-306) (266-296) *:Giữa hai giống có sự sai khác ở mức p
  4. VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 15-Tháng 12-2008 Hoàng Văn Trường (2007) trên đàn bò Brahman nhập từ Cu Ba nuôi tại Bình Định (673,4 ngày) và tương đương với bò lai hướng sữa 75% HF (14,5 tháng), bò lai ¾ Brahman (14 tháng) và bò U Đầu Rìu (14,3 tháng) (Trần Trọng Thêm, 2006; Hoàng Văn Vinh và cộng sự, 2001; Nguyễn Văn Niêm và cộng sự, 2001). Khoảng cách lứa đẻ của bò Drought Master cao hơn bò Brahman nuôi trong cùng điều kiện tại TP. Hồ Chí Minh nhưng thấp hơn so đáng kể với bò Brahman nuôi tại Bình Định và trại An phú. Kết quả nghiên cứu của Đinh Văn Cải (2006) cho thấy bò Drought Master nuôi tại trại bến Cát, Bình Dương có khoảng cách lứa đẻ là 474,4 ngày, cao hơn so với kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi trên đàn Drought Master hạt nhân nuôi tại TP. Hồ Chí Minh. Khoảng cách lứa đẻ của bò Brahman trong nghiên cứu của Browning và cộng sự (1994) trên đàn Brahman nuôi tại Mỹ là 361,3-395,4 ngày, thấp hơn đáng kể so với đàn bò Brahman nuôi tại TP. Hồ Chí Minh trong nghiên cứu của chúng tôi. Một điểm rất đáng lưu ý nữa là nhìn chung khoảng cách lứa đẻ ở tất cả các lứa đều có sự biến động rất lớn ở cả hai giống. Với bò Brahman, con có khoảng cách lứa đẻ ngắn nhất là 308 ngày và dài nhất là 712 ngày, gấp hơn hai lần so với con có khoảng cách ngắn nhất. Đối với bò Drought Master khoảng cách lứa đẻ có phạm vi dao động nhỏ hơn, từ 342 ngày đối với con ngắn nhất đến 613 ngày với con dài nhất. Kết quả này của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của các tác giả nghiên cứu trước chẳng hạn như của Đinh Văn Cải (2006) trên bò Drought Master thuần nuôi tại Bình Dương (328-653 ngày). Hệ số phối giống của bò DroughtMaster nuôi tại TP. Hồ Chí Minh ở lứa 1 rất thấp (1,13) trong khi của lứa 2 (1,51) và lứa 3 (1,63) là tương đương nhau; đều cao hơn đáng kể so với của lứa 1 (P
  5. ĐINH VĂN TUYỀN – Một số chỉ tiêu sinh sản cuả bò Brahman .. tại Bình Định của Hoàng Văn Trường (2007) nhưng thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Browning và cộng sự (1994; 1995) trên đàn bò Brahman đỏ nuôi tại Mỹ (trung bình 291,9 và 293,7 ngày). Khả năng sinh trưởng đàn bê Drought Master và Brahman Kết quả đánh giá khả năng sinh trưởng của đàn bê DroughtMaster và Brahman được trình bày ở Bảng 2 và Đồ thị 1 trong đó Bảng 2 trình bày khối lượng bê theo giống và giới tính còn Đồ thị 1 mô tả đường cong sinh trưởng của giống (tính cả bê đực và bê cái) trong giai đoạn từ sơ sinh đến 720 ngày tuổi. Bảng 2: Khối lượng của bê Drought Master và Brahman theo tháng tuổi Brahman Droughmaster Tuổi Giới tính n Khối lượng n Khối lượng (con) (kg) (con) (kg) Đực 123 22,59a1± 3,49 111 20,76b± 2,58 Sơ sinh Cái 114 20,542± 3,05 124 20,64± 2,52 Trung bình 237 21,6a± 3,43 235 20,7b± 2,54 Đực 65 79,81± 11,72 77 83,21± 15,14 3 Tháng Cái 99 74,72± 10,99 78 77,02± 17,78 Trung bình 164 76,7a± 11,52 155 80,1b± 16,76 Đực 20 144,3a1± 13,6 57 134,5b1± 19,9 6 Tháng Cái 93 127,42± 14,85 66 128,02± 17,44 Trung bình 113 130,4± 16,0 123 131,0± 18,8 Đực 8 182,3a± 12,8 19 153,7b± 11,4 9 Tháng Cái 36 180,5a± 14,1 49 159,6 b ± 15,9 Trung bình 44 180,6a± 13,8 67 157,9b±14,9 Đực 14 195,2a± 20,5 16 171,7b± 19,0 12 Tháng Cái 37 204,7a± 21,3 40 185,5b± 18,5 Trung bình 51 202,1a± 21,3 56 181,5b± 19,5 Đực 35 243,8a1± 20,7 25 222,1b± 19,3 15 Tháng Cái 81 225,52± 24,7 44 222,8± 26,2 Trung bình 116 231,0a± 24,9 69 222,5b± 23,8 Đực 22 289,0a1 ± 23,1 24 257,6b± 22,8 18 Tháng Cái 99 251,02± 29,0 36 254,9± 27,7 Trung bình 121 257,9± 31,6 60 255,9± 25,7 Đực 29 296,4± 32,5 22 306,0± 20,9 21 Tháng Cái 136 278,1± 34,5 41 294,4± 24,9 Trung bình 165 281,4a± 34,8 63 298,4b± 24,1 Đực 14 324,3± 34,6 17 357,9± 26,0 24 Tháng Cái 92 318,8a± 40,6 4 352,3b± 25,5 Trung bình 106 319,5a± 39,8 21 356,8b± 24,2 5
  6. VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 15-Tháng 12-2008 Các giá trị trung bình trong cùng 1 hàng có chỉ số trên bằng chữ khác nhau thì khác nhau (P
  7. ĐINH VĂN TUYỀN – Một số chỉ tiêu sinh sản cuả bò Brahman .. Khối lượng lúc 6 tháng tuổi của đàn bê Drought Master nuôi tại TP. Hồ Chí Minh (134,5 kg ở con đực và 128,0 kg ở con cái) thấp hơn so với khối lượng của đàn bê cùng giống nuôi tại Bình Dương (152 kg ở con đực và 140,8 kg ở con cái). Đến 12 tháng tuổi, bê đực nuôi tại Bình Dương đạt 244,9 kg và bê cái 239,4 kg, cao hơn tương ứng 73,2 và 50,9 kg so với bê đực và bê cái nuôi tại TP. Hồ Chí Minh. Tại thời điểm 24 tháng tuổi, bê đực nuôi tại TP. Hồ Chí Minh có khối lượng thấp hơn 79,3 kg và bê cái thấp hơn 24,2 kg so với bê nuôi tại Bình Dương. Như vậy, có thể nói bê Drought Master nuôi tại TP. Hồ Chí Minh có tốc độ sinh trưởng thấp hơn so với bê cùng giống nuôi tại Bình Dương. Điều này chủ yếu là do các yếu tố thức ăn và quản lí nuôi dưỡng. Bê ở Bình Dương được nuôi tại Trung tâm nghiên cứu và huấn luyện chăn nuôi gia súc lớn nên có thể đã được chăm sóc và quản lí tốt hơn bê nuôi tại TP. Hồ Chí Minh. Giá trị độ lệch chuẩn của khối lượng bê nuôi tại Bình Dương luôn thấp hơn giá trị này của bê nuôi tại TP. Hồ Chí Minh chính là bằng chứng cho nhận định trên. 350 300 y = -0,0003x2 + 0,6209x + 21,6 R2 = 0,9923 250 200 BRAHMAN y = -0,0002x2 + 0,5582x + 20,7 2 R = 0,9877 DROUGHT MASTER 150 100 50 0 0 200 400 600 800 Đồ thị 1: Mô tả đường cong sinh trưởng của bê thuần DroughtMaster, Brahman giai đoạn từ 0-720 ngày tuổi Kết quả so sánh khối lượng giữa bê Brahman và bê Droughtmaster nuôi trong cùng điều kiện tại TP. Hồ Chí Minh cho ở Bảng 3 và Đồ thị 1 cho thấy trong suốt giai đoạn từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi bê Brahman luôn có khối lượng cao hơn bê Droughtmaster. Tuy nhiên từ lúc 21 tháng tuổi trở đi bê Drought Master luôn có khối lượng cao hơn bê Brahman. Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi hơi khác so với kết quả của Đinh Văn Cải (2006) theo đó khối lượng của bê Drought Master luôn cao hơn khối lượng của bê Brahman có cùng lứa tuổi. Tuy nhiên cần lưu ý là trong nghiên cứu của Đinh Văn Cải (2006) bê Drought Master và bê Brahman được nuôi tại các vùng cách xa nhau (Bình Dương và Bình Định) và trong điều kiện nuôi dưỡng rất khác nhau (trang trại nghiên cứu và hộ nông dân). Phương trình hồi qui trình bày trên Đồ thị 1 có hệ số xác định rất cao (R2 = 0,9877 đối với phương trình áp dụng cho bê Drought Master và 0,9923 với phương trình cho bê Brahman) cho thấy khối lượng bê Brahman và Drought Master có tương quan rất chặt chẽ với tuổi (tính theo ngày) của chúng. Do đó có thể sử các dụng phương trình này để ước tính khối lượng bê Brahman và Drought Master nuôi tại Công ty giống bò sữa TP. Hồ Chí Minh. 7
  8. VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 15-Tháng 12-2008 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Kết luận Trong cùng điều kiện nuôi dưỡng tại Công ty giống bò sữa TP. Hồ Chí Minh, bò Brahman có khoảng cách lứa đẻ thấp hơn bò Droughtmaster. Tuy nhiên, khoảng cách lứa đẻ (13,7-15 tháng) và hệ số phối giống (1,36-1,45 lần phối/bò có chửa) của cả hai giống đều ở mức khá thấp cho thấy khả năng sinh sản của các giống này là khá tốt. Thời gian mang thai của bò Brahman và Droughtmaster tương đương nhau và khoảng dao động từ 263-306 ngày. Trong điều kiện nuôi dưỡng tại Công ty giống bò sữa TP. Hồ Chí Minh thì từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi, khối lượng của bê Brahman cao hơn của bê Droughtmaster nhưng trong giai đoạn từ 18 đến 24 tháng tuổi bê Droughtmaster có khả năng sinh trưởng cao hơn. Đề nghị Tiếp tục nghiên cứu để đánh giá khả năng sinh sản của bò cái và bò đực các giống này thế hệ sinh ra tại Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cục Chăn nuôi (2006). Hiện trạng ngành chăn nuôi và phương hướng phát triển đến năm 2015. Đinh Văn Cải, (2006). Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu chọn lọc và lai tạo nhằm nâng cao khả năng sản xuất bò thịt ở Việt Nam. Hoàng Văn Trường, (2007). Đánh giá khả năng thích nghi với điều kiện chăn nuôi nông hộ ở Bình định của bò thịt Brahman (nhập từ Cuba). Luận văn thạc sĩ. Trường Đại học Nông Lâm Huế. Nguyễn Văn Vinh, Hoàng Văn Trường, Đồng Thị Diệu Hiền và Đoàn Trọng Tuấn (2001). Kết quả nghiên cứu khả năng sinh trưởng, sinh sản của bò lai Brahman nuôi tại Bình Định. Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y 1999 - 2000. Phần chăn nuôi gia súc. Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Tr. 220 - 228. Trần Trọng Thêm, (2006). Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu chọn tạo đàn bò sữa hạt nhân năng suất trên 4000 kg/chu kỳ”. Nguyễn Văn Niêm, Đỗ Hữu Hoan, Lưu Công Khánh và Đỗ Xuân Cốn, (2001). Đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất và phát triển chăn nuôi bò vàng Hà Giang tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y 1999-2000. Nhà xuất bản Hà nội, 2001. Tr. 92 – 105. Browning. R., Jr, M. L. Leite-Browning, D. A. Neuendorff and R. D. Randel, (1995). Preweaning growth of Angus- (Bos taurus), Brahman-(Bos indicus), and Tuli-(Sanga)-Journal of Ani.Sci.73. p.2558-2563. Browning. R., Jr, B. S. Robert, A. W. Lewis, D. A. Neuendorff and R. D. Randel, (1994). Effects of postpartum nutrition and once-daily suckling on reproductive efficiency and Journal of Anim Science. 72.p.984-989 *Người phản biện : TS. Lê Văn Thông; TS. Trần Trọng Thêm 8
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2