intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Những giải pháp nhằm góp phòng ngừa, hạn chế các vụ kiện chống bán phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá ba sa ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Phuc Vinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

143
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ lâu, thủy sản là loại thực phẩm phổ biến được ưa chuộng ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia có biển hoặc có các thủy vực nội địa lớn. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân cư, nhu cầu về thủy sản ngày càng lớn để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng đa dạng từ cao cấp đến bình dân. Ngoài ra, mức độ an toàn vệ sinh thực phẩm của thủy sản cao hơn các loại thực phẩm khác, trong khi dịch bệnh ở gia súc, gia cầm có chiều hướng gia tăng và càng làm cho nhu cầu tiêu thụ thủy...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Những giải pháp nhằm góp phòng ngừa, hạn chế các vụ kiện chống bán phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá ba sa ở Việt Nam

  1. PH ẦN GIỚI THIỆU 1. L Í DO CH ỌN Đ Ề T ÀI Từ lâu, thủy sản là loại thực phẩm phổ biến được ưa chuộng ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia có biển hoặc có các thủy vực nội địa lớn. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân cư, nhu cầu về thủy sản ngày càng lớn để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng đa dạng từ cao cấp đến bình dân. Ngoài ra, mức độ an toàn vệ sinh thực phẩm của thủy sản cao hơn các loại thực phẩm khác, trong khi dịch bệnh ở gia súc, gia cầm có chiều hướng gia tăng và càng làm cho nhu cầu tiêu thụ thủy sản trên thế giới tăng mạnh. Tăng trưởng tiêu dùng thủy sản không những diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển, mà còn ở các nước đang phát triển. Cùng với xu thế tiêu thụ này thì việc trao đổi xuất nhập khẩu thủy sản giữa các quốc gia được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra các thách thức to l ớn cho các quốc gia cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới. Kể từ khi Việt nam bắt đầu hội nhập kinh tế thế giới và chấp nhận những nguyên tắc của thương mại quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đang phải đối mặt với vô số những hàng rào thương mại phi thuế quan ở các nước nhập khẩu nhằm bảo hộ, hạn chế tự do thương mại dưới nhiều hình thức như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ… làm giảm đáng kể hiệu quả của những nỗ lực tìm kiếm, mở rộng, xúc tiến thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và khiến triển vọng xuất khẩu trở nên bấp bênh,tiêu biểu đó là vấn đề xuất khẩu cá basa. 2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1/ Mục tiêu chung: Khái quát được tình hình xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam trên thị trường thế giới từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm góp phòng ngừa, hạn chế các vụ kiện chống bán phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá 1
  2. ba sa của Việt Nam sang các nước. Đ ồng thời mở rộng thị trưóng xuất khẩu cá ba sa 2.2/ Mục tiêu cụ thể Tìm hiểu và phân tích thực trạng xuất khẩu cá ba sa của - Việt Nam sang thị trường các nước. Tìm hiểu, đánh giá về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa - của Việt Nam ở thị trường Mỹ và tác động của nó tới tình hình xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam. Đưa ra giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá - ba sa, mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Phạm vi về thời gian Thời gian thực hiện đề tài từ 26/04/2010 - 24 /05/2011. Số liệu sử dụng trong đề tài lấy từ năm 1999 đến 2010 3.2. Phạm vi về nội dung Tìm hiểu về vấn đề xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam ở thị trường các nư ớc. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1 / Phương pháp thu thập số liệu Tổng hợp các thông tin, số liệu thứ cấp trên các phương tiện thông tin đại chúng: Báo chí, thời báo kinh tế, các trang web có liên quan… 4.2/ Phương pháp phân tích 2
  3. - Mục tiêu 1: Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả tình hình xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam - Mục tiêu 2: Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá về vấn đề xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam - Mục tiêu 3: Từ mô tả và phân tích trên để đưa ra giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG * CƠ SỞ LÍ LUẬN I.KHÁI NIỆM 1. ĐỐI VỚI VIỆT NAM Cá ba sa phân bổ ở một số nước Ðông Nam Á như Campuchia, Thái Lan, Indonexia và Việt Nam, là loài cá nuôi có giá trị kinh tế cao. Cá basa được nuôi phổ biến hầu hết ở các nước Ðông Nam Á, là một trong các loài cá nuôi quan trọng nhất của khu vực này. Bốn nước trong hạ lưu sông Mê Kông đã có nghề nuôi cá tra truyền thống là Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam do có nguồn cá basa tự nhiên và phong phú. Cá ba sa là các loài cá đặc hữu của vùng châu thổ sông Mê Kông thuộc giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ Silurifornes - bộ cá gồm hơn 2.500 loài cá da trơn, phân bổ trên khắp thế giới. Cụ thể là: Đối với cá ba sa - tên khoa học Pangasius bocourti, tên - thương mại Ba sa, Bocourti, Bocourti fish, Ba sa catfish, Bocourti catfish. Cá basa còn có tên gọi là cá giáo, cá sát bụng, là loại cá da trơn có giá trị kinh tế cao, được nuôi tập trung tại nhiều nước trên thế giới. 3
  4. Theo hệ thống phân loại Tyson Roberts, cá basa thuộc họ Pangasiidae, giống pangasius (Hamilton). 2. ĐỐI VỚI THẾ GIỚI Tháng 5/2008, Quốc hội Mỹ đã thảo luận để thông qua “Đạo luật Nông trại” (Farm Bill). Theo Farm bill 2008 thì cá ba sa Việt Nam có thể bị xếp vào trong nhóm catfish của Mỹ. 3..KHÁI NIỆM XUẤT KHẨU Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất, nó phản ánh quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế giới. Cùng với hình thức kinh doanh nhập khẩu, hình thức kinh doanh xuất khẩu là hoạt động kinh tế cơ bản của một quốc gia, nó là “chiếc chìa khóa” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu của một nước khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế. Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh của mình. Kinh doanh xuất nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau: Xuất khẩu hàng hóa hữu hình, hàng hóa vô hình (dịch vụ); xuất khẩu trực tiếp do chính các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhận; xuất khẩu gián tiếp (hay ủy thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh doanh trung gian đảm nhận. Gắn liền với xuất khẩu hàng hóahữu hình, ngày nay xuất khẩu dịch vụ rất phát triển.. 4.YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG 4
  5. -Mặc dù diện tích nuôi được mở rộng, năng suất, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm song nghề nuôi cá basa tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long vẫn chưa thật ổn định và bền vững. Trong sản xuất vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về ô nhiễm môi trường, biến động về thị trường, giá cả. Có thể dẫn chứng điều này qua sự kiện năm 2005, do EU tăng cường các biện pháp kiểm soát việc sử dụng kháng sinh trong thủy sản xuất khẩu của Việt Nam cộng tác động của vụ kiện chống phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ khiến nguồn nguyên liệu bị “dội chợ” làm cho không ít người nuôi lâm vào cảnh phá sản -Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 2008, người nuôi cá tra và cá basa lại đang đứng trước nguy cơ thua lỗ do chi phí sản xuất tăng ở mức 14.000-15.500 đ/kg (tương đương với giá bán ở thị trường). Điều đáng nói là trong chăn nuôi cá tra và cá basa, chi phí thức ăn chiếm tỷ trọng rất lớn, nhất là trong giai đoạn trước khi thu hoạch. Chính vì vậy, dù Nhà nước đã “bơm” 1.000 tỷ đồng hạn mức tín dụng cho các DN thu mua nguyên liệu để giải quyết đầu ra cho cá tra, cá basa nhưng khả năng thu mua hết sản lượng cá nuôi trong dân là rất khó do bởi theo tính toán, nếu tất các các cơ sở chế biến hoạt động hết công suất thì cũng chỉ tiêu thụ được khoảng 3.000 tấn/ngày. Như vậy mỗi tháng cũng chỉ tiêu thụ được gần 100 ngàn tấn nguyên liệu -Ngoài khó khăn do không dự báo được tình hình thị trường khiến hiện tượng ùn tắc nguyên liệu xảy ra trong những tháng gần đây, hoạt động sản xuất và tiêu thụ cá tra, cá basa vẫn còn những vấn đề cần sớm được giải quyết như: tỷ lệ sản phẩm có giá trị gia tăng còn thấp, chủ yếu mới chỉ xuất khẩu ở dạng fillet cấp đông đơn thuần nên giá xuất khẩu không cao (bình quân 3USD/kg); thiếu kho chứa hàng, thiếu các chợ đầu mối thủy sản tập trung để làm cầu nối ổn định giá cho cả người sản xuất và các nhà máy chế biến; hệ thống xử lý nước thải và các công trình bảo vệ môi trường tuy đã được đầu tư nhưng chưa thường xuyên được nâng cấp nên vẫn còn tình trạng nước thải từ nhà máy đổ trực tiếp ra sông mà chưa qua xử lý; chưa phổ biến rộng khắp quy trình sản xuất sạch theo tiêu chuẩn HACCP; vẫn còn việc mua bán và sử dụng hóa chất, kháng sinh 5
  6. Cá ba sa Việt Nam bị ''đòn hiểm'' của giới nuôi catfish Hoa Kỳ Số phận cá da trơn của Việt Nam trên thị trường Mỹ lại bị đe doạ. Mấy năm trước, loại cá này chỉ được vào Mỹ sau nhiều cửa ải, và với tên gọi "cá tra" hay "cá ba sa", chứ không được gọi là "catfish" vì sợ lầm với cá nội địa của Mỹ. Bây giờ, chính các hiệp hội nuôi cá catfish tại Mỹ lại nêu vấn đề về danh xưng và đòi cá Việt Nam cũng phải được gọi tên là "catfish" ! Vì sao lại có chuyện rắc rối ấy ? Theo tiết lộ của hãng tin Mỹ AP vào cuối tháng 06/2009, bộ trưởng Nông Nghiệp Mỹ ông Tom Vilsack sắp ban hành quyết định về việc quy định loại cá nào bán trên thị trường Hoa Kỳ phải được gọi là ''catfish''. Nội dung quyết định này chưa rõ, nhưng một bản dự thảo mà hãng tin Mỹ đọc được đã liệt loại cá ba sa pangasius của Việt Nam vào diện catfish. Một khi bị xếp loại là catfish, cá ba sa nhập khẩu từ Việt Nam sẽ phải tuân thủ một chế độ kiểm tra ngặt nghèo do bộ Nông Nghiệp Mỹ ấn định, chặt chẽ hơn rất nhiều so với chế độ thông thường của Cơ quan Thực phẩm và Dược Phẩm Mỹ FDA. Theo hãng AP, điều này sẽ trở thành một rào cản cực kỳ kiên cố, chặn đứng đường vào thị trường Hoa Kỳ của cá Việt Nam vì lẽ phiá Việt Nam phải thiết lập một hệ thống kiểm tra việc nuôi và xử lý cá cực kỳ phức tạp, và chứng minh được là hệ thống này tương đương với những gì hiện hành tại Mỹ. Để có được một hệ thống như vậy, theo AP, Việt Nam sẽ phải mất rất nhiều năm. Thế nhưng vì sao mà chính quyền Hoa Kỳ lại có thể có quyết định khắt khe đối với cá nhập khẩu từ Việt Nam như vậy, nhất là khi việc xếp cá basa Việt Nam vào diện ''catfish'' lại hoàn toàn trái ngược với quyết định vào năm 2002, theo đó cá nhập từ Việt Nam không có quyền mang tên gọi catfish ? 6
  7. THỰC TRANG NUÔI TRỒNG, CHẾ BIẾN, XUẤT KHẨU CÁ TRA, BASA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP 7
  8. Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), trong vòng 10 năm qua (1998-2008), cá basa đã nhanh chóng trở thành sản phẩm chiến lược quốc gia. Trong đó, sản lượng tăng gấp 50 lần, vượt ngưỡng 1 triệu tấn/năm; giá trị xuất khẩu tăng gấp 65 lần, đóng góp khoảng 2% GDP của cả nước. Tổng diện tích nuôi cá basa ở Đồng bằng sông cửu long năm 2008 là 6.160 ha, với sản lượng 1.128.000 tấn, xuất khẩu đạt 640.829 tấn, chiếm 51,8% tổng sản lượng xuất khẩu thủy sản cả nước với giá trị kim ngạch 1,453 tỉ USD, chiếm 32% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành thuỷ sản. Thị trường tiêu thụ cá basa đã được mở rộng và có uy tín ở 130 nước và vùng lãnh thổ. Một số nước, khu vực nhập khẩu lớn là Ukraine, Nga, EU, Bắc Phi, Trung Đông, Mỹ. Tại ĐBSCL vùng nuôi cá tra, basa đã được Bộ NN&PTNT xác định ở 10 tỉnh, thành với diện tích 6.000 ha ao nuôi, sản lượng 1,2- 1,5 triệu tấn/năm, trong đó 60- 70% của doanh nghiệp sản xuất tập trung quy mô lớn, còn 30- 40% là quy mô nông hộ. Đến năm 2010, diện tích nuôi toàn vùng đạt 8.600 ha, sản lượng 1,2 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu 1,3- 1,5 tỉ USD và đến năm 2020 diện tích sẽ được nâng lên 13.000 ha. Nhóm sản phẩm cá tra, basa càng quan trọng, bởi chỉ sử dụng một diện tích rất nhỏ bé để nuôi (khoảng 6.000 ha mặt nước, bằng 1% diện tích nuôi tôm), có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tạo việc làm cho hàng chục vạn công nhân, nông ngư dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là ở vùng nông thôn ĐBSCL. Tuy vậy, theo các chuyên gia về thuỷ sản thì việc nuôi, chế biến, xuất khẩu cá basa của Việt Nam còn có nhiều yếu kém, bất cập, phát triển tự phát và thiếu tính bền vững, cụ thể: Thực trạng và nguyên nhân:  Công quản lý nhà nước trong sản xuất, tiêu thụ cá tra, basa hiện nay còn nhiều bất cập: thiếu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, hệ thống 8
  9. thể chế pháp lý để quản lý, thúc đẩy phát triển bền vững và xây dựng cơ sở hạ tầng... Do vậy sản xuất, tiêu thụ cá tra hiện nay mang tính tự phát cao, khó quản lý, nhất là về diện tích, sản lượng, chất lượng, giá thức ăn, con giống, thuốc thú ý, vệ sinh an toàn thực phẩm...  Việc nuôi cá tra, basa gần đây phát triển với nhịp độ nhanh, diện tích tăng đột biến. Năm 2006 diện tích nuôi cá tra toàn vùng chỉ vào khoảng 3.797 ha, đến năm 2007 đã tăng lên là 6.406 ha và năm 2008 là 6.160 ha. Trong 6 tháng đầu năm 2009, tổng diện tích thả nuôi cá tra của 10 tỉnh, thành vùng ĐBSCL khoảng 5.000 ha. Do vậy quy hoạch chưa theo kịp hoặc không còn phù hợp với tình hình mới. Quy hoạch vùng nguyên liệu cho phù hợp với từng thị trường còn quá nhiều bất cập, các doanh nghiệp chế biến không có vùng nguyên liệu của mình, do đó việc thừa thiếu nguyên liệu thường xuyên diễn ra. Doanh nghiệp thì không nắm được sản lượng, người nuôi thì không có thông tin về thị trường. Hạ tầng cơ sở, các công trình thủy lợi phục vụ nuôi cá basa chưa bảo đảm để phát triển ổn định, bền vững.  Hệ thống tổ chức quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn tồn tại nhiều vướng mắc như trong vấn đề chậm trễ cập nhật các văn bản pháp quy để phù hợp với các thị trường xuất khẩu, hệ thống cán bộ phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu, quản lý hàng thủy sản chưa được thực hiện bài bản... cũng tạo nhiều khó khăn, thách thức trong xuất khẩu. ¬- Tất cả các khâu của quá trình sản xuất cá tra, basa như: giống, thức ăn, giá, vốn, nuôi, chế biến, thị trường…đều đang có quá nhiều bất cập, hạn chế, phát triển không bền vững, cụ thể: * Về giống:  Trong thời gian qua, để đáp ứng nhu cầu con giống theo đà tăng mạnh về nhịp độ và diện tích nuôi, số lượng các cơ sở sản xuất giống cá basa cũng tăng lên nhanh chóng. Đến nay, trong vùng đã có 217 cơ sở sản xuất cá giống với tổng sản lượng khoảng 1,8 tỉ con, thừa khả năng đáp ứng nhu cầu cá giống cho cả khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, khi phong trào nuôi cá basa trầm lắng, nhiều hộ nuôi “treo ao” thì giá cá giống liên tục giảm, hiện nay chỉ còn 330 đồng/con kích thước 1,7cm, 240 đồng/con kích thước 1,5cm, cá bột giá 0,5 đồng/con. Do vậy, các cơ sở sản xuất giống đang phải bán tháo cá bố mẹ và cá giống vì làm ăn thua lỗ. Điển hình tại làng sản xuất cá tra, basa giống Hồng Ngự/Đồng Tháp (nơi sản xuất giống lớn nhất ĐBSCL) trước đây có hơn 70 cơ sở với đàn cá bố mẹ có tổng trọng 9
  10. lượng hơn 150 tấn (mỗi con nặng từ 10kg đến 15 kg), hàng năm cung ứng cho thị trường hơn năm tỉ con cá bột và trên một tỉ con cá giống thương phẩm. Tuy nhiên hiện nay đã có 60 cơ sở sản xuất cá tra giống đã đóng cửa, kêu bán tháo cá bố mẹ với giá: 13.000 đồng- 14.000 đồng/kg nhưng không có người mua. Đồng thời do không có chế tài nào nên nguồn cá bố mẹ chưa được quản lý tốt vì vậy chất lượng con giống chưa đồng đều, một số cơ sở sản xuất giống chưa đảm bảo chất lượng con giống cho nuôi cá thương phẩm. * Về thức ăn:  Trong thời gian qua, giá thức ăn thủy sản liên tục tăng cao đã gây nhiều khó khăn cho nghề nuôi cá basa. Năm 2008, giá thức ăn thủy sản tăng trung bình khoảng 30% so với năm 2007 và giữ ổn định ở mức 9.500- 10.500 đồng/kg. Trong 6 tháng đầu năm 2009, giá thức ăn thủy sản có giảm lại, dao động 6.500- 9.700 đồng/kg. Giá thức ăn tăng đã làm giá thành sản xuất cá tra, basa tăng. Năm 2008, giá thành sản xuất trung bình 01kg cá nguyên liệu khoảng 15.000- 16.000 đồng (tăng 40% so với năm 2007), trong khi đó, giá bán cá tra, basa chỉ ở mức thấp, dao động 13.800- 15.500 đồng/kg dẫn đến người nuôi bị lỗ nặng. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2009, giá thành sản xuất đã hạ xuống khoảng 13.500- 14.500 đồng/kg, nhưng giá cá chỉ có 12.500- 13.800kg, nên người nuôi lại tiếp tục lỗ.  Hiện nay, các nhà máy sản xuất thức ăn thuỷ sản đều “kêu” bị lỗ và phải tăng giá. Với những lý do như: giá nguyên liệu nhập khẩu tăng, nguyên liệu nhập về cảng bị ứ đọng, hàng giải phóng chậm, hàng để trong cảng bị mất mát nhiều nên phải nâng mức bảo hiểm... Tất cả các khoản “thiệt hại” trên họ đều tính hết vào giá thành sản xuất nên giá thức ăn thuỷ sản cao là không có gì lạ. Tuy nhiên thực tế họ đều đua nhau tăng công suất từ 15- 20% so với cùng kỳ năm ngoái, kể cả các cơ sở nhỏ cũng tăng từ 7- 10%. Do vậy các nhà sản xuất thức ăn hiện nay chỉ biết quan tâm đến quyền lợi của mình, cứ đua nhau tăng giá, bất chấp quyền lợi của người chăn nuôi, của cả chuổi sản xuất, chế biến, xuất khẩu cá basa thì trước sau cũng sẽ gây ra khủng hoảng.  Nhiều hộ nuôi cá basa ở ĐBSCL đã chủ động nuôi giảm mật độ tới 50% so với năm 2008 và hầu hết họ không còn nợ ngân hàng mà nợ cơ sở bán thức ăn thủy sản với lãi suất cao. Ngoài ra, có nhiều mẫu thức ăn không đạt hàm lượng đạm theo quy định và nhiều cơ sở sản xuất giống kém chất lượng làm ảnh hưởng 10
  11. lớn đến chất lượng sản phẩm cá tra, basa. * Về giá:  Trong 6 tháng đầu năm 2009, giá cá basa tiếp tục biến động. Vào đầu tháng 3-2009 giá cá tăng lên 15.000-17.000 đồng/kg và người nuôi cá lời 1.000- 2.000 đồng/kg, nhưng từ đó đến tháng 6/2009 giá cá giảm mạnh chỉ còn từ 13.000- 14.000đ/kg. Hiện tại giá giảm mạnh là rất bất hợp lý bởi lẽ thị trường cho cá basa đang mở rộng và hút hàng, trong khi sản lượng cá nguyên liệu giảm tới 30% so với năm 2008. Theo quy luật cung cầu: khi nguyên liệu thiếu hụt, thị trường mở rộng thì giá phải tăng lên. Tuy nhiên giá thu mua cá nguyên liệu giảm mạnh và đang ở mức thấp, do: + Các doanh nghiệp chế biến đang giảm mạnh nhu cầu mua vào vì lượng cá tồn kho tương đối lớn. Họ đang đứng trước áp lực về vốn, lãi suất, chi phí lưu kho nên phải đẩy hàng ra bằng mọi giá. Họ bán xong hàng tồn kho rồi mới tiến hành thu mua cá mới. + Một số doanh nghiệp còn chào hàng ra thị trường nước ngoài với giá thấp nên phải mua cá của người nuôi với giá thấp. Giá xuất khẩu vào EU là trên 3USD/kg, nhưng họ giảm chỉ còn 2,47USD/kg. Do đó doanh nghiệp phải giảm giá thu mua cá loại 1 còn 14.000đ/kg. + Nhiều doanh nghiệp chế biến đã chủ động nguồn nguyên liệu, họ tự nuôi cá trên diện tích lớn, nên nhu cầu mua cá trong dân đang bị thu hẹp lại. Theo thống kê của VASEP, hiện nay nguồn cá nguyên liệu từ các hộ nuôi nhỏ lẻ chỉ còn chiếm khoảng 20%, 80% còn lại do các doanh nghiệp tự cung cấp hoặc từ các trang trại lớn theo quy mô công nghiệp. * Về vốn:  Thực tế ở ĐBSCL hiện nay, người nuôi cá không thể tồn tại nổi với mức giá cá quá thấp, trong khi giá thức ăn tăng liên tục, ngân hàng không cho vay vốn. Cá không thể bán nhưng càng nuôi, cá ăn càng nhiều, càng lớn, càng khó bán và người nuôi càng lâm nợ. Do vậy có gần 50% ao đã bán cá đều không thả lại. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản An Giang (AFA), ở thời điểm này có tới 25- 30% số hộ nuôi cá tra, basa bị phá sản, 40- 50% số hộ nuôi bị mất vốn, 70- 80% số hộ nuôi đang lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, 90% hộ nuôi cá đang nợ ngân hàng. 11
  12.  Đồng thời, người nuôi hiện nay rất khó tiếp cận vốn vay kích cầu của Chính phủ so với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu, vì những quy định của ngân hàng. Muốn được vay, người nuôi phải có xác nhận nuôi trong vùng quy hoạch, có hợp đồng bao tiêu sản phẩm, có tài sản thế chấp, phải trả dứt nợ cũ, nợ quá hạn… Trong khi đó, tài sản của người nuôi chỉ có nhà ở và ao nuôi cá, trong đó có tới 90% người nuôi đã thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà, đất cho ngân hàng để vay vốn sản xuất.  Ngoài ra, nhiều người nuôi cá tra, basa tại An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ... đang bị các doanh nghiệp thu mua cá chiếm dụng vốn dưới nhiều hình thức, trong đó chủ yếu là kéo dài thời gian thanh toán tiền mua cá theo hợp đồng từ 15- 30 ngày. Mỗi người nuôi, khi bán cá trị giá vài tỉ đồng, doanh nghiệp chỉ trả ban đầu khoảng 30% tiền mặt, số còn lại là nợ hoặc trả dần. Do vậy, người nuôi rất khó thanh toán cho các chủ nợ và đầu tư tái sản xuất. * Về diện tích, sản lượng cá nuôi:  Hiện nay, diện tích thả nuôi cá tra, basa tại ĐBSCL thấp hơn cùng kỳ năm 2008 đến 30% diện tích. Riêng tỉnh An Giang, có hơn 1.400ha ao, hầm nuôi cá tra, basa, nhưng diện tích ao, hầm không nuôi đã lên đến hơn 400ha, hiện toàn tỉnh chỉ còn khoảng 1.000ha nuôi cá. Diện tích giảm, khiến sản lượng cá nguyên liệu cũng giảm. Trong 06 tháng đầu năm 2009, thu hoạch cá tra, ba sa chỉ có 141.221 tấn, giảm 39.000 tấn (tương đương 21,5%).  Theo Bộ NN- PTNT, nhiều hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL đã chủ động nuôi giảm mật độ tới 50% so với năm 2008, nên sản lượng có thể sẽ sụt giảm khoảng 200.000 tấn so với kế hoạch. Tuy vậy, hiện ĐBSCL còn khoảng 120.000 tấn cá nguyên liệu tới kỳ thu hoạch, trong đó cá phải thu hoạch gấp khoảng hơn 100.000 tấn, nhưng các doanh nghiệp lại không thu mua và đang “làm giá” với người nuôi. Trong thời gian tới người nuôi khó khôi phục lại diện tích và mật độ thả nuôi vì họ đang nợ ngân hàng và khó tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ. Vì vậy chuyện thiếu nguyên liệu trong dịp cuối năm và người nuôi lại “làm giá” với doanh nghiệp là không thể tránh khỏi. Đồng thời, việc các doanh nghiệp đang tạm ngưng thu mua cá nguyên liệu để “bán tháo” cá tồn kho đã làm cho hàng chục nghìn công nhân 12
  13. mất việc. Hiện ở ĐBSCL có trên 100 nhà máy chế biến thuỷ sản với công suất thiết kế 2,5 triệu tấn cá nguyên liệu/năm, nhưng với sản lượng thu hoạch như hiện nay, các nhà máy chỉ hoạt động chưa được 50% công suất. Vấn đề thừa, thiếu cá tra, basa nguyên liệu tại ĐBSCL trong thời gian qua giống đã đem lại nhiều hậu quả khó lường. Khi thừa nguyên liệu doanh nghiệp ép giá người nuôi và ngược lại, cả người nuôi và doanh nghiệp đều có lúc làm ăn thua lỗ, phá sản. Nguyên nhân chính dẫn đến thừa, thiếu nguyên liệu là doanh nghiệp phát triển mà không gắn với việc tạo nguồn nguyên liệu ổn định, còn người nuôi thì không nắm được thông tin thị trường. Vì vậy, nghề sản xuất cá tra, basa không thể phát triển bền vững nếu tình trạng thừa, thiếu nguyên liệu, người nuôi và doanh nghiệp cứ “ép giá” tiếp tục tái diễn. * Về thị trường: mất cân đối giữa cung và cầu.  Hiện nay, chế biến xuất khẩu cá basa cũng đang gặp một số khó khăn do các nước có xu hướng dựng lên rào cản kỹ thuật nhằm hạn chế nhập khẩu để bảo hộ nền sản xuất thủy sản trong nước.  Thông tin thị trường thiếu và nắm không chắc, do vậy việc thừa, thiếu cá nguyên liệu thường xuyên diễn ra. Vào thời điểm cuối năm 2008, hầu hết các thị trường đều đóng cửa, trong đó có thị trường lớn nhất là Nga, nhưng trước đó người nuôi lại ồ ạt tăng diện tích và sản lượng nên cho đến nay chuyện thừa nguyên liệu, dẫn đến giá giảm, người nuôi lỗ nặng là điều tất nhiên. Từ nay đến cuối năm thị trường mở rộng nhưng người nuôi đã giảm diện tích và mật độ nuôi, do đó vào thời điểm giữa cuối năm 2009 chắc chắn lại xảy ra tình trạng thiếu nguyên liệu.  Ngoài ra, việc nuôi, chế biến, xuất khẩu cá basa chưa đáp ứng theo nhu cầu thị trường, đến nay nghề sản xuất cá tra, basa vẫn trong tình trạng làm ra cái có thể làm chứ chưa làm ra cái mà thị trường cần. Do vậy việc tồn hàng và thừa nguyên liệu là tất yếu. Chẳng hạn, thị trường Châu Âu, Mỹ… tiêu thụ các loại cá chất lượng tốt, thịt trắng và chiếm thị phần không cao, nhưng người nuôi và doanh nghiệp luôn hướng tới thị trường thị này. Trong khi các thị trường Nga, Đông Âu, Trung Đông, Mexico lại chuộng loại cá thịt đỏ, chất lượng thấp hơn và đây là thị trường chiếm thị phần lớn thì hầu như người nuôi và doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm. Năm 2006, diện tích nuôi cá tra của ĐBSCL chỉ 3.797 ha, năm 2008 đã tăng lên đến 5.700 ha. Diện tích đã 13
  14. thu hoạch đến ngày 19/6/2009 là 1.133 ha, với sản lượng 312.337 tấn, năng suất bình quân 240 tấn/ha. Không tính lượng cá tồn đọng gần 7.000 tấn, sản lượng đến kỳ thu hoạch tính đến nay đã gần 120.000 tấn. Hiện tại đang khủng hoảng thừa, nhưng đến cuối năm lại khủng hoảng thiếu. Tình trạng này chủ yếu là do không nắm chắc thông tin thị trường, sản xuất tự phát, không theo quy luật cung cầu.  - Mối liên kết 4 nhà chưa chặt chẽ, gồm: nhà sản xuất giống, nhà sản xuất thức ăn và thuốc thủy sản, người nuôi, thương lái và nhà chế biến vẫn chưa có sự liên kết chặt chẽ mang tính bắt buộc, họ vẫn thường cạnh tranh không lành mạnh, ép giá lẫn nhau vì lợi ích riêng của mình mà không biết chia sẻ lợi ích để cùng tồn tại, phát triển. Trong đó chủ yếu chưa có sự gắn kết giữa nông dân với doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp và giữa nông dân với nhau.  Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trong nước cạnh tranh không lành mạnh, mạnh ai nấy làm, chưa thống nhất với nhau về giá nên ai cũng hạ giá bán nhằm tranh giành khách hàng. Sự cạnh tranh không lành mạnh đã đây các doanh nghiệp quay lại ép giá người nuôi và gian lận thương mại, buông lỏng yếu tố chất lượng và gây hưởng đến uy tín sản phẩm cá tra, basa Việt Nam.  Với kiểu làm ăn cá thể nhỏ lẻ, thậm chí còn cạnh tranh không lành mạnh, người nuôi không chỉ mất tiếng nói chung, sức mạnh chung mà còn tự làm suy yếu nhau. Khi bị thương lái hoặc các công ty chế biến xuất khẩu ép giá, họ không có công cụ và giải pháp nào để khắc phục nếu không có sự tư vấn, can thiệp của các cơ quan chức năng và các tổ chức phi chính phủ. Đồng thời tổ chức VASEP là tổ chức của các công ty chế biến xuất khẩu thuỷ sản, chỉ bảo vệ quyền lợi của các thành viên của họ, chứ không phải tổ chức nhằm liên kết và bảo vệ quyền lợi của người nuôi. Quyền lợi của các thành viên VASEP nhiều khi xung đột với quyền lợi người nuôi cá. Do vậy dẫn đến tình trạng bất ổn, không bền vững trong nuôi, chế biến và xuất khẩu cá tra, basa hiện nay.  - Môi trường nuôi xuống cấp do ô nhiễm, do đó chất lượng nguyên liệu không đồng nhất, còn phát sinh nhiều dịch bệnh, chưa truy xuất được nguồn gốc thủy sản trước chế biến. 14
  15.  - Chi phí sản xuất và rủi ro trong sản xuất cá tra, basa ngày càng tăng, người nuôi và doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư, trong khi tín dụng bị siết chặt, lãi suất ngân hàng cao.  Công nghiệp hoá ngành nuôi, chế biến cá tra, basa chưa được quan tâm đúng mức, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ cao trong nuôi và chế biến, xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Thực trạng là vẫn còn sản xuất tự phát, thủ công, lấy công làm lời… GIẢI Pháp cho thực trạng cá basa khi xuất khẩu tại Việt Nam và trên toàn thế giới Tăng cường công tác quản lý con giống, thức ăn và các chất xử lý cải tạo môi trường nuôi; nâng cao vai trò của hiệp hội để gắn kết các doanh nghiệp sản xuất tiêu thụ cá basa, thông tin dự báo kịp thời về giá cả trong, ngoài nước, xúc tiến mở rộng thị trường thế giới, xây dựng hệ thống kho chứa đông, điều hành sản xuất chế biến và xuất khẩu theo hướng bảo đảm kinh doanh uy tín sản phẩm quốc gia, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi trồng tập trung đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Dành một khoản thích đáng trong gói kích cầu của Chính phủ cho các doanh nghiệp chế biến vay để mua thức ăn cung ứng theo tiến độ cho nông dân nuôi cá basa.v.v. Sản phẩm cá basa là sản phẩm đặc thù, là thế mạnh, lợi thế của ĐBSCL, nhất là các tỉnh ven bờ sông Tiền, sông Hậu. 15
  16. Tuy nhiên,Quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này chưa đáp ứng được yêu cầu; thể chế, cơ chế chưa tương xứng với sự phát triển nhanh, mạnh của sản xuất, tiêu thụ cá basa. Thiếu sự hợp tác, gắn kết thành hệ thống trong sản xuất, chế biến đến tiêu thụ cá basa. Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng đề án đồng bộ từ sản xuất đến tiêu thụ cá basa. Trong đó, cần phát huy tối đa lợi thế của việc nuôi cá basa, theo hướng sản xuất lớn, quy mô công nghiệp, quản lý tiên tiến, đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước, đem lại thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân. Sau đó, cần xây dựng một loạt cơ chế chính sách, để quản lý, hợp tác tốt hơn, phát triển hiệu quả, bền vững hơn, “Phải xây dựng thương hiệu cá basa Việt Nam”,Hội nghề cá, lãnh đạo các tỉnh có qui hoạch nuôi cá tra, basa, do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm Trưởng Ban. Ban cần thường xuyên họp, chỉ đạo kịp thời thông suốt từ sản xuất đến tiêu thụ cá tra, basa. Thành lập hiệp hội các nhà sản xuất, tiêu th ụ cá tra, basa.Cần thí điểm và mở rộng quản lý xuất khẩu cá tra, basa theo c ơ chế thị trường tập trung. Với thế mạnh và hiệu quả của nghề nuôi cá basa 10 năm qua, từ một loài cá bản địa, cá basa đã trở thành sản phẩm chiến lược quốc gia, sản lượng nuôi tăng gấp 65 lần, đóng góp khoảng 2% GDP của cả nước; chiếm hơn 1/2 tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu cả nước. Thị trường tiêu thụ cá tra đã được mở rộng và có uy tín ở 130 nước và vùng lãnh thổ. Một số nước, khu vực nhập khẩu lớn là Ucraina, Nga, EU, Bắc Phi, Trung Đông, Mỹ. Nhóm sản phẩm cá basa càng quan trọng, bởi chỉ sử dụng một diện tích rất nhỏ bé để nuôi (khoảng 6.000 ha mặt nước, bằng 1% diện tích nuôi tôm), có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tạo việc làm cho hàng chục vạn công nhân, nông ngư dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là ở vùng nông thôn ĐBSCL  Theo những chủ hộ nuôi cá tra ở các tỉnh miền Tây Nam bộ như: Tiền Giang, An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp…. mới đây nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu đã tăng giá thu mua cá tra thêm 200 đồng/kg, đạt mức 16.000 đồng/kg cá loại 1, tuy nhiên người nuôi cá vẫn lỗ vốn. 16
  17.  Hiện nay, giá thành sản xuất của cá tra thấp nhất là 16.500 đồng/kg. Không chỉ người nuôi cá tra thương phẩm bị ảnh hưởng mà những người ương giống cá tra cũng mất gần 50% doanh thu. Trước đây, giá cá tra giống loại 70 con/kg là 30.000 đồng/kg thì nay chỉ còn 17.000 đến 18.000 đồng/kg.  Theo thống kê của Hiệp Hội Chế Biến và Xuất Khẩu Thủy Sản Việt Nam, 3 tháng đầu năm 2010, tổng lượng cá tra xuất khẩu xấp xỉ 150 ngàn tấn thành phẩm, với giá trị khoảng 310 triệu đô la xuất khẩu. Trong đó, thị trường Châu Âu chiếm tỉ trọng lớn nhất với khoảng 38%, sau đó là thị trường Mỹ và các thị trường khác. Tuy nhiên, bước vào tháng 4, tình hình thị trường tiêu thụ cá bắt đầu có những dấu hiệu giảm sút giữa tỉ giá của đồng Euro so với đồng đô la Mỹ (do tỉ giá Euro giảm so với đồng đô la Mỹ); khiến việc mua bán giữa doanh nghiệp trong nước và công ty nước ngoài bị chậm lại, ảnh hưởng đến việc xuất khẩu cá.  Hiện nay, giá cá nguyên liệu dao động trong phạm vi chất lượng từ 15.300đ/kg – 16.000đ/kg. Thực tế, chỉ có khoảng 10% người nuôi bán được với giá 16.000/kg, còn lại trung bình chỉ bán được với giá 15.300đ/kg cho hợp đồng trả chậm sau 45 ngày bắt cá, riêng trường hợp nhận tiền trong vòng 1 tuần thì chỉ bán được 15.000đ/kg. Giá cá sụt thê thảm khiến người nuôi chịu lỗ từ 1500 – 2000đ/kg.  Việc bỏ công sức, vốn liếng ra thì nhiều mà lãi thu về lại ít, dẫn đến rất nhiều hộ nông dân quyết định không thả giống, không nuôi trong 17
  18. vụ này. Trong khi đó các doanh nghiệp thì không thể đẩy giá thu mua lên cao, cũng như xuất khẩu với giá cao hơn. Giải pháp cho đầu ra cá cá ba sa ổn định Việc thành lập Ban chỉ đạo phát triển cá vùng đồng bằng sông Cửu Long đến nay đã hình thành, tuy nhiên, vấn đề nuôi cá basa bền vững hầu như vẫn chưa có giải pháp khả thi. Do vậy, diện tích và mật độ thả nuôi vẫn tiếp tục giảm, có ảnh hưởng chung đến nghề nuôi thủy sản. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, sản lượng nuôi trồng thủy sản 05 tháng đầu năm 2010, ước đạt 872 ngàn tấn, đạt gần 33% kế hoạch và giảm trên 5% so với cùng kỳ năm trước.  Làm gì để giữ vững diện tích nuôi cá, cùng với đó là giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm, ổn định nguồn cung, đáp ứng kịp thời nguồn cầu, phát triển thị trường cá tra Việt Nam ra thế giới là vấn đề mà các cấp, ban ngành liên quan cần có những giải pháp thiết thực và đồng bộ. Đã từ nhiều năm nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ngân hàng, nông dân và các doanh nghiệp cùng vào cuộc, tìm giải pháp nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao từ cá ba sa. Giúp cho việc xuất khẩu cá tra của Việt Nam được thuận lợi, mang lại lợi nhuận cao cho ngành Thủy sản Việt Nam và đời sống của người nuôi cá cũng được nâng lên. Vấn đề về an toàn thực phẩm có ý nghĩa quan trọng đến xu hướng phát triển của vùng nuôi cá ba sa. Hiện nay, thị trường thế giới đang đặt ra các tiêu chuẩn rất cao cho cá basa và cả hàng hóa nông sản xuất khẩu. Muốn vượt qua các rào cản do các nước nhập khẩu đặt ra, phải đáp ứng và tuân thủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm từ nuôi trồng cho đến chế biến và tiêu thụ. Vì thế, việc xây dựng một quy 18
  19. định, một tiêu chuẩn chung cho nghề nuôi cá basa ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và cả nước nhằm tạo ra thế phát triển bền vững là một yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay.  Tuy nhiên, việc kiểm soát chất lượng thức ăn và sản phẩm chế biến cá ba sa còn chưa được quan tâm thỏa đáng. Điều này đã làm ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm rất nhiều. Để nghề nuôi thủy sản nói chung và nuôi cá basa nói riêng phát triển ổn định và bền vững, trong xu thế phát triển hiện nay, thì quá trình sản xuất phải được quản lý bởi các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, sản phẩm tạo ra phải đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng được các yêu cầu của thị trường như CoC/Gap/BMP, SQF ... Có như vậy, sản phẩm mới có sức cạnh tranh, tăng hiệu quả cho hoạt động nuôi trồng, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu.  Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra đến năm 2020. Tuy nhiên, muốn tổ chức tốt đề án này cần có tính chiến lược, nguồn hỗ trợ là nhà nước phải tiếp tục cho vay, với lãi suất ưu đãi và dễ tiếp cận. Hy vọng, với sự chung tay của các cấp, các ngành, các tra và cá ba sa của Việt Nam sẽ có chỗ đứng chắc trên thị trường thế giới. Tình hình xuất khẩu cá tra, cá ba sa hiện nay rất khó khăn. Đặc biệt, thị trường EU tăng cường kiểm tra chất lượng nghiêm ngặt và trả về nhiều lô hàng không đạt. Điều đáng nói là năm nay qua ki ểm tra cho thấy chất lượng cá nhiều nơi kém, cá biệt có những nơi có khoảng 80% bị nhiễm chất kháng sinh Malachite. Đây là một cảnh báo cần nhanh chóng khắc phục. Có thể nói, lượng cá tra, cá ba sa tồn đọng hiện nay rất lớn, tuy nhiên thị trường đang thiếu trầm 19
  20. trọng số lượng “cá tốt”, khiến nhiều hợp đồng xuất kh ẩu phải h ủy bỏ. --- các nhà doanh nghiệp, chăn nuôi cá nên tăng cường kiểm tra chất lượng cá thường xuyên khi đang nuôi, nâng cao trình độ chuyên môn về vấn đề nuôi cá basa vá quan tr ọng h ơn hết các nhà doanh nghiệp nên đảm bảo được môi trường nuôi cá basa sao cho tốt nhất và phù hợp theo tiêu chuẩn quốc tế. Thực trạng nuôi tự phát diễn ra tràn lan thiếu kiểm soát quản lý. Điển hình như khi cá basa được giá cao thì lập tức sau đó hàng loạt hộ đào ao hầm thả nuôi ào ạt. Diện tích cứ phát tri ển theo c ấp số nhân, 1 người trúng thì 3 người mới nhảy vào nuôi cá… nhiều địa phương chỉ lo mở rộng diện tích nhưng đầu ra bỏ ngỏ, trong khi nông dân cứ làm gàn, việc này rất khó. Cần phải thấy rằng, thị trường quyết định mọi thứ. Giá cả lên xuống cũng nh ư nước lớn nước ròng, vấn đề là chúng ta thiếu dự báo và thiếu quy hoạch điều tiết sản lượng. - Các nhà nuôi cá basa nên nắm rõ thực tr ạng v ề tình hình xuất khẩu cá basa trong và ngoài nước, phải biết đ ược khả năng của bản thân mình. Mỗi nhà doanh nghi ệp nuôi cá basa tránh đi theo xu hướng nuôi cá basa ồ ạt nh ư hi ện nay, h ọ cần có cái nhìn chính xác về thực trạng cá basa t ại Việt Nam và cần vạch ra một kế hoạch phát triển lâu dài, tránh vi ệc khi cá basa mất mùa thì doanh nghiệp coi như phá sản Mặc dù diện tích nuôi được mở rộng, năng suất, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm song nghề nuôi cá tra và cá basa tại khu vực ĐBSCL vẫn chưa thật ổn định và b ền vững. Trong sản xuất vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về ô nhiễm môi trường, biến động về thị trường, giá cả. Có thể dẫn chứng đi ều này qua sự kiện năm 2005, do EU tăng cường các biện pháp kiểm soát việc sử dụng kháng sinh trong thủy sản xuất khẩu của Vi ệt Nam cộng tác động của vụ kiện chống phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ khiến nguồn nguyên liệu bị “dội chợ” làm cho không người cảnh sản. ít nuôi lâm vào phá 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2