intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐỀ TÀI " PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ "

Chia sẻ: Nguyen Thinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:93

223
lượt xem
69
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quảng Trị thuộc miền Trung Việt Nam, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp nước CHDCND Lào, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế và phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình; diện tích tự nhiên 4.739,82 km2, dân số tính đến 31/12/2010 là 600.462 người. Quảng Trị từng là vùng đất bị tàn phá nặng nề trong 2 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Sau ngày đất nước được giải phóng, nhân dân Quảng Trị bắt tay vào công cuộc tái thiết kinh tế-xã hội và bước đầu đạt được những thành tựu đáng kể....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐỀ TÀI " PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ "

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG _____________________ NGUYỄN ĐÌNH MINH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ ( Bản thảo) Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 60.31.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS. Trương Sĩ Quý Đà Nẵng-Năm 2012 MỤC LỤC
  2. TỪ VIẾT TẮT Hiệp định thương mại Việt Mỹ AFTA Cụm công nghiệp CCN Cộng hoà dân chủ nhân dân CHDCND Công nghiệp hoá-hiện đại hoá CNH-HĐH Khu công nghiệp KCN Niên giám thống kê NGTK Nhà xuất bản NXB Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI Tài sản cố định TSCĐ Tiểu thủ công nghiệp TTCN Vật liệu xây dựng VLXD Tổ chức thương mại thế giới WTO
  3. MỤC LỤC BẢNG BIỂU Danh mục các bảng Danh mục các hình vẽ, đồ thị
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quảng Trị thuộc miền Trung Việt Nam, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp nước CHDCND Lào, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế và phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình; diện tích tự nhiên 4.739,82 km2, dân số tính đến 31/12/2010 là 600.462 người. Quảng Trị từng là vùng đất bị tàn phá nặng nề trong 2 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Sau ngày đất nước được giải phóng, nhân dân Quảng Trị bắt tay vào công cuộc tái thiết kinh tế-xã hội và bước đầu đạt được những thành tựu đáng kể. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 10,6%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2011 đạt 16,468 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.Hiện nay, nông nghiệp chiếm 28,4%; công nghiệp-xây dựng chiếm 35,8% và dịch vụ chiếm 35,8%. Tuy vậy, so với mặt bằng chung cả nước, Quảng Trị vẫn được xếp là tỉnh nghèo. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế đang là một thách thức lớn. Để khắc phục tình trạng kém phát triển, từ lý luận và thực tiễn cho thấy tiến lên công nghiệp hoá -hiện đại hoá là bước đi tất yếu. Trong đó, xác định phát triển công nghiệp là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài. Công nghiệp là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân và được đánh giá là ngành kinh tế chủ đạo. Sự phát triển của công nghiệp có ý nghĩa quan trọng, đóng góp vào tạo ra thu nhập cho đất nước, của cải cho xã hội, tích luỹ vốn cho phát triển, là động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đ ẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Đặc biệt, đứng trước xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp càng khẳng định vai trò tiên phong trong việc đón đầu những cơ hội và cả thách thức mà xu thế này mang lại. Sự thích ứng một cách nhanh chóng và dễ dàng với thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, khả năng thu hút vốn đầu tư cao, cách thức tổ chức quản lý tiên tiến là những ưu thế để lựa chọn phát triển công nghiệp trong giai đoạn hiện nay, tạo cơ sở cho việc rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa các nước và khu vực.
  5. 2 Đứng trước yêu cầu đó, trong thời gian vừa qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các học giả, các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, của các cấp quản lý về đề tài này. Những đóng góp về mặt lý luận và những thành tựu đạt được qua thực tiễn là rất đáng trân trọng và cần được ghi nhận. Tuy nhiên, phần lớn các đề tài tập trung nghiên cứu chung cho cả nước hoặc một số địa phương nhất định. Riêng đối với tỉnh Quảng trị, với những đặc thù riêng, xét thấy có rất ít đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống và sát với thực tế hiện nay. Đây là c ơ sở để tác giả chọn đề tài: “ Phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng trị” để tiến hành nghiên cứu và giải quyết. 2. Mục tiêu nghiên cứu Một là, làm rõ những lý luận và kinh nghiệm thực tiễn liên quan đ ến vấn đ ề phát triển công nghiệp ở một địa phương đặc thù như tỉnh Quảng Trị. Xây dựng một số các chỉ tiêu đánh giá liên quan đến phát triển công nghiệp. Hai là, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp của địa phương, từ đó chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân cần khắc phục. Ba là, đề xuất một số giải pháp có tính thực tiễn đề giải quyết các vấn đề còn tồn tại, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Trị. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Các mối quan hệ kinh tế-xã hội trong nội bộ ngành công nghiệp và giữa công nghiệp với các ngành khác phát sinh trong quá trình phát triển công nghiệp tại Quảng Trị. Phạm vi nghiên cứu Về không gian nghiên cứu: địa bàn tỉnh Quảng Trị. Về thời gian nghiên cứu: Trong phạm vi 20 năm, bao gồm phân tích, đánh giá thực trạng giai đoạn 2005-2010, phương hướng và giải pháp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn tiếp cận đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của duy vật lịch sử làm phương pháp chung. Luận văn coi trọng nền tảng kiến thức lý luận sẵn có, tổng kết thực tiễn, từ đó khái quát
  6. 3 hoá, nêu lên những kiến nghị hoàn thiện giải pháp. Các phương pháp cụ thể: - Hệ thống hoá các văn bản, chính sách liên quan, nhất là những quyết định có tác động trực tiếp và gián tiếp đến phát triển công nghiệp. - Phương pháp thống kê so sánh được dùng để tính toán một chỉ tiêu và cũng được dùng để phân tích thực trạng. - Số liệu thứ cấp: niên giám thống kê các năm, báo cáo của các cơ quan liên quan như: Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Công thương, các bài báo, đề tài nghiên cứu khoa học,.v.v. 5. Đóng góp của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa có chọn lọc các quan điểm, ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý.v.v. Đề tài đã đóng góp trên một số khía cạnh sau: - Về lý luận: hệ thống hoá những quan điểm, lý thuyết về phát triển công nghiệp làm cơ sở cho những nghiên cứu sau này và phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. - Về thực tiễn: thông qua đánh giá thực trạng, phát hiện những biến động, xu thế từ đó làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, tìm hướng giải quyết và đề xuất các giải pháp có tính thực tiễn. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG TRỊ GIAI ĐOẠN 2005-2010. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG TRỊ. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
  7. 4 1.1. Khái niệm và phân loại công nghiệp 1.1.1. Khái niệm công nghiệp Công nghiệp, là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hoá vật chất mà sản phẩm được chế tạo, chế biến nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ về công nghệ, khoa học và kỹ thuật. Một nghĩa rất phổ thông khác của công nghiệp là "hoạt động kinh tế quy mô lớn, sản phẩm (có thể là phi vật thể) tạo ra trở thành hàng hoá ". Theo nghĩa này, những hoạt động kinh tế chuyên sâu khi đạt được một quy mô nhất đ ịnh s ẽ tr ở thành một ngành công nghiệp, ngành kinh tế như: công nghiệp phần mềm máy tính, công nghiệp điện ảnh, công nghiệp giải trí, công nghiệp nghiệp thời trang, công nghiệp báo chí, v.v.. [Theo Wekipedia] 1.1.2. Phân loại ngành công nghiệp Theo cách phân loại của Tổng cục Thống kê, công nghiệp gồm 3 nhóm ngành: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và công nghiệp điện khí nước. Công nghiệp khai thác có nhiệm vụ khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất và đời sống. Khai thác năng lượng: dầu mỏ, khí đốt, than… Khai thác quặng kim loại: sắt, thiếc, bô-xít… Khai thác quặng: uranium, thori… Khai thác vật liệu xây dựng: đá, cát, sỏi… Sản phẩm công nghiệp khai thác cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến. Sự phát triển của công nghiệp khai thác thường gắn với nguồn tài nguyên tạo điều kiện để phát triển vùng-lãnh thổ. Công nghiệp chế biến bao gồm: Công nghiệp chế tạo công cụ sản xuất gồm cơ khí, chế tạo máy, kỹ thuật điện, điện tử. Đây là ngành công nghiệp có vai trò quan trọng hàng đầu vì nó cung cấp tư liệu sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế, trang bị cơ sở vật chất cho tất cả các ngành.
  8. 5 Công nghiệp sản xuất đối tượng lao động gồm hoá chất, hoá dầu, luyện kim, vật liệu xây dựng. Sản phẩm ngành này lại tiếp tục cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành khác. Cung cấp phân bón hoá học, thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, cung cấp vật liệu cho ngành xây dựng. Công nghiệp sản xuất vật phẩm tiêu dùng như dệt may, chế biến thực phẩm đồ uống, chế biến gỗ-giấy, chế biến thuỷ tinh-sành sứ… Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước: cung cấp đầu vào thiết yếu cho sản xuất và đời sống. Mọi hoạt động diễn ra ngày nay đều phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển ngành này.[5, tr 360-361] 1.2. Đặc điểm và vai trò của công nghiệp 1.2.1. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp - Tính chất hai giai đoạn của quá trình sản xuất Quá trình sản xuất công nghiệp thường được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn tác động vào đối tượng lao động để tạo ra nguyên liệu và giai đoạn chế biến các nguyên liệu thành tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. Tất nhiên, trong mỗi giai đoạn lại bao gồm nhiều công đoạn sản xuất phức tạp và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tính chất hai giai đoạn của quá trình sản xuất công nghiệp là do đối tượng lao động của nó đa phần không phải sinh vật sống, mà là các vật thể của tự nhiên, thí dụ như khoáng sản nằm sâu trong lòng đất hay dưới đáy biển. Con người phải khai thác chúng để tạo ra nguyên liệu, rồi chế biến nguyên liệu đó để tạo nên sản phẩm. - Sản xuất công nghiệp có khả năng thực hiện chuyên môn hoá sản xuất sâu và hiệp tác hoá sản xuất rộng Do hai giai đoạn của sản xuất công nghiệp không phải theo trình tự bắt buộc như nông nghiệp, mà có thể tiến hành đồng thời và thậm chí cách xa nhau về mặt không gian. Bởi vì sản xuất công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động cơ, lý, hoá trực tiếp vào giới tự nhiên để lấy ra và biến đổi các vật thể tự nhiên thành các sản phẩm cuối cùng phục vụ cho nhân loại. Do đó, trong sản xuất công nghiệp, các nhà sản xuất có thể lựa chọn mức độ chuyên môn hoá phù hợp.
  9. 6 - Sản xuất công nghiệp có xu hướng phân bố ngày càng tập trung cao độ theo lãnh thổ Phân bố tập trung theo lãnh thổ là quy luật phát triển của sản xuất công nghi ệp thể hiện ở quy mô xí nghiệp và mật độ sản xuất các xí nghiệp công nghiệp trên một đơn vị lãnh thổ. Tính tập trung theo lãnh thổ của sản xuất công nghiệp có nhiều ưu điểm, song cũng có nhiều nhược điểm. Công nghiệp phân bố tập trung theo lãnh thổ hình thành những điểm công nghiệp, khu công nghiệp, vùng công nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để thực hiện chuyên môn hoá sản xuất và hiệp tác hoá sản xuất, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản xuất, đưa lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Tuy nhiên nếu quy mô tập trung công nghiệp theo lãnh thổ quá mức,vượt quá sức chứa của lãnh thổ, sẽ gây ra rất nhiều khó khăn đó là: làm hình thành những khu công nghiệp lớn, những trung tâm dân cư đông đúc, những thành phố khổng lồ, tạo sức ép lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng, gây khó khăn phức tạp cho tổ chức, quản lý xã hội và môi trường. Vì vậy c ần nghiên c ứu toàn diện những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trong từng địa phương; từng vùng cũng như trên lãnh thổ cả nước để lựa chọn quy mô phân bố công nghiệp cho phù hợp. - Đặc điểm công nghệ sản xuất: công nghệ sản xuất trong công nghiệp do con người tạo ra. Quá trình tạo ra sản phẩm công nghiệp được thực hiện thông qua hệ thống máy móc, thiết bị với đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao. Khi công nghệ ngày càng được cải tiến, hiện đại thì đổi hỏi trình độ lao động phải tăng theo và ngược lại. - Đặc điểm về sự biến đổi các đối tượng lao động: sau mỗi chu kỳ sản xuất từ một nguồn nguyên liệu với những công nghệ khác nhau có thể tạo ra nhiều sản phẩm với nhiều công dụng khác nhau; cùng một sản phẩm có thể tạo ra nhiều mẫu mã, kiểu dáng khác nhau. Đây là tính ưu việt của sản xuất công nghiệp.[6, tr 55-56] 1.2.2. Vai trò của công nghiệp với phát triển kinh tế - Công nghiệp tăng trưởng nhanh và làm gia tăng thu nhập quốc gia
  10. 7 Năng suất lao động của khu vực công nghiệp cao hơn hẳn các ngành kinh tế khác, mà năng suất lao động là yếu tố quyết định nâng cao thu nhập, thúc đ ẩy nhanh tăng trưởng công nghiệp và đóng góp ngày càng lớn vào thu nhập của quốc gia . Công nghiệp có vai trò quan trọng này là do thường xuyên được đổi mới và ứng dụng công nghệ tiến tiến; hơn nữa, giá cả sản phẩm công nghiệp thường ổn định và cao hơn các sản phẩm khác ở thị trường trong nước và ngoài nước. - Công nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế Công nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm làm chức năng tư liệu sản xuất, cho nên nó là ngành có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Trình độ phát triển công nghiệp cao thì tư liệu sản xuất càng hiện đại, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động xã hội. Ngày nay, sự phát triển của công nghiệp đang đưa hoạt động kinh tế thế giới đến trình độ sản xuất rất cao, đó là tạo ra các tư liệu sản xuất có khả năng thay thế phần lớn sức lao động của con người. Đó chính là sự ra đời và phát triển mạnh mẽ các tư liệu sản xuất có khả năng tự động hoá trong một số khâu hoặc toàn bộ quá trình sản xuất. Máy móc tự động hoá thể hiện sự phát triển cao của công nghiệp trong việc tạo ra tư liệu sản xuất phục vụ cho các ngành sản xuất và cho bản thân ngành công nghiệp. - Công nghiệp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp được coi là nhiệm vụ cơ bản nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho đời sống nhân dân và nông sản cho xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ này nông nghiệp không thể tự thân vận động nêu không có sự hỗ trợ của công nghiệp. Công nghiệp chính là ngành cung cấp cho sản xuất những yếu tố đầu vào quan trọng như phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, máy móc cơ khí nhỏ đến cơ giới lớn. Công nghiệp còn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp và cho xây dựng nông thôn mới. Công nghiệp chế biến đã có những đóng góp quan trọng vào việc tăng giá tr ị sản phẩm, tăng khả năng tích trữ, vận chuyển của sản phẩm nông nghiệp và làm cho sản phẩm nông nghiệp ngày càng đa dạng về chủng loại. Do sản phẩm của nông
  11. 8 nghiệp mang tính thời vụ cao và khó bảo quản, nếu không có công nghiệp chế biến sẽ hạn chế lớn đến khả năng tiêu thụ. - Công nghiệp cung cấp hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân Nông nghiệp cung cấp những sản phẩm tiêu dùng tất yếu, đáp ứng nhu cầu cơ bản nhất của con người. Còn công nghiệp cung cấp những sản phẩm tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Kinh tế càng phát triển, thu nhập của dân cư càng tăng thì nhu cầu của con người ngày càng mở rộng. Chính sự phát triển của nhu cầu đã góp phần thúc đẩy công nghiệp phát triển . Song ngược lại sự phát triển của công nghiệp không những đáp ứng nhu cầu của con người mà nó lại hướng dẫn tiêu dùng của con người, hướng đến nhu cầu cao hơn. Như vậy, công nghiệp càng phát triển thì các sản phẩm hàng hoá càng đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã, càng nâng cao về chất lượng. - Công nghiệp thu hút lao động nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm xã hội Công nghiệp tác động vào sản xuất nông nghiệp làm nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, tạo khả năng giải phóng sức lao động trong nông nghiệp. Đồng thời sự phát triển mạnh mẽ công nghiệp đã làm cho sản xuất công nghiệp ngày càng mở rộng, tạo ra các ngành sản xuất mới, các khu công nghiệp mới, đến lượt mình, công nghiệp đã thu hút lao động nông nghiệp và giải quyết việc làm cho xã hội. Việc thu hút số lao động ngày càng tăng từ nông nghiệp vào công nghiệp không chỉ góp phần giải quyết việc làm, mà còn tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, tăng thu nhập cho người lao động. - Công nghiệp tạo ra hình mẫu ngày càng hoàn thiện về tổ chức sản xuất Do đặc điểm của sản xuất, công nghiệp luôn có một đội ngũ lao động có tính tổ chức, kỷ luật cao, có tác phong lao động “ công nghiệp” . Do đó, đội ngũ lao động trong công nghiệp luôn là bộ phận tiên tiến trong dân cư. Lao động trong công nghiệp ngày càng có trình độ chuyên môn hoá cao tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động và chất lượng sản phẩm - Công nghiệp tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm thay đổi sự phân công lao động và giảm mức độ chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng.
  12. 9 Công nghiệp tạo điều kiện khai thác có hiệu quả tài nguyên ở khắp mọi nơi từ mặt đất, dưới lòng đất, kể cả dưới đáy biển. Nhờ làm tốt công tác thăm dò, khai thác và chế biến tài nguyên mà danh mục các điều kiện tự nhiên trở thành tài nguyên thiên nhiên phục vụ công nghiệp ngày càng thêm phong phú. Công nghiệp làm thay đổi sự phân công lao động vì dưới tác động của nó, không gian kinh tế đã bị biến đổi sâu sắc. Nơi diễn ra hoạt động công nghiệp cần có các hoạt động dịch vụ phục vụ cho nó như nhu cầu lương thực, thực phẩm, nơi ăn chốn ở của công nhân, đường giao thông, cơ sở chế biến. Công nghiệp cũng tạo điều kiện hình thành các đô thị hoặc chuyển hoá chức năng của chúng, đồng thời là hạt nhân phát triển các không gian kinh tế. Hoạt động công nghiệp còn làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn. Chính công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn, làm cho nông thôn nhanh chóng bắt kịp với đời sống thành thị .[5, tr 361-364] 1.3. Nội dung phát triển công nghiệp 1.3.1. Tăng trưởng sản lượng công nghiệp Tăng trưởng về sản lượng công nghiệp theo chiều rộng bằng cách tăng quy mô sản xuất và quy mô lao động, vốn. Để tăng trưởng công nghiệp theo h ướng này cần chú trọng mở rộng quy mô cơ sở sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề, phát triển các loại hình doanh nghiệp, tăng số lao động, vốn trong công nghiệp, phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế từ đó tạo ra ngày càng nhiều hơn các sản phẩm công nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị trường, góp phần gia tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. Nhóm chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng công nghiệp: đó là chỉ tiêu phản ánh về quy mô và tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm hay bình quân năm của một giai đoạn nhất định. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, cồn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. - Giá trị sản xuất công nghiệp: thường được dùng để đo lường toàn bộ kết quả sản xuất công nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Giá trị sản xuất công nghiệp được tính theo giá cố định và giá hiện hành. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp được tính bằng giá cố định.
  13. 10 - Giá trị gia tăng hay giá trị tăng thêm (VA) ngành công nghiệp là chỉ tiêu c ốt lõi phản ánh tăng trưởng về sản lượng công nghiệp, đồng thời là chỉ tiêu đ ịnh l ượng để phản ánh chất lượng tăng trưởng. Giá trị gia tăng là một bộ phận c ủa giá tr ị sản xuất (GO) và chi phí trung gian (IC) gồm : thu nhập của người lao động từ sản xuất, thuế sản xuất, khấu hao tài sản cố định và thặng dư sản xuất. Mối quan hệ giữa VA, GO, IC được biểu diễn như sau: VA=GO-IC; theo cách tính trên thì VA tỉ lệ thuận với GO và tỉ lệ nghịch với IC. - Tốc độ phát triển liên hoàn: thể hiện sự biến đổi của đối tượng nghiên cứu giữa 2 giai đoạn liên tiếp (hoặc 2 năm liên tiếp) và được tính theo công thức: Yi − Yi −1 yi = × 100% Yi −1 Trong đó: yi: tốc độ phát triển giá trị sản xuất công nghiệp Yi: giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn i Yi-1: giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn i-1 - Tốc độ phát triển bình quân: chỉ tiêu này phản ánh mức độ phát triển trung bình trong cả giai đoạn nghiện cứu. Yt y=n × 100% − 100% Y1 Trong đó: y tốc độ phát triển bình quân Yt: giá trị sản xuất công nghiệp của năm cuối của giai đoạn nghiên cứu Y1: giá trị sản xuất công nghiệp năm gốc N: số năm trong giai đoạn nghiên cứu ( không tính năm gốc) - Số lượng, sản lượng sản phẩm công nghiệp: phản ánh quy mô, tính đa dạng trong sản xuất sản phẩm công nghiệp. - Tăng trưởng về số lượng và quy mô cơ sở sản xuất công nghiệp : phát triển số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp trong đó phải chú trọng đến việc phát triển các doanh nghiệp công nghiệp. Doanh nghiệp là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của sản xuất công nghiệp. Có càng nhiều doanh nghiệp lớn mạnh thì ngành công nghiệp càng phát triển. Doanh nghiệp mạnh phản ánh năng lực cạnh tranh và thích nghi trong môi trường biến động. Thực hiện tập trung hoá sản xuất công nghiệp
  14. 11 để tạo điều kiện hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn. Để phản ánh quy mô doanh nghiệp và so sánh quy mô doanh nghiệp ta có thể sử dụng một số tiêu chí: + Số lượng sản phẩm (tính bằng giá trị hoặc hiện vật) + Số lao động + Giá trị tài sản cố định Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức liên kết trong công nghiệp cũng rất quan trọng. Đây là phạm trù phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định. Liên doanh là một trong những dạng biểu hiện cụ thể của hoạt đ ộng liên kết. Có thể phát triển các loại liên kết như liên kết để tạo ra các yếu tố đ ầu vào cho sản xuất, liên kết ở khâu sản xuất, liên kết ở khâu tiêu thụ. Tăng cường liên kết kinh tế trong công nghiệp là cơ hội để tăng số lượng doanh nghiệp công nghiệp, đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển hiệu quả và bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và thế giới. 1.3.2. Nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp Nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp phản ánh sự phát triển công nghiệp về chiều sâu. Đó là sự gia tăng về quy mô và sản lượng phải dẫn đ ến những biến đổi tích cực trong sản xuất và sản phẩm công nghiệp. Sản xuất công nghiệp phải theo hướng ngày càng hiện đại, tính chuyên môn hoá cao, dây chuyền và thiết bị sản xuất tiên tiến, nâng cao trình độ tay nghề lao động, sản phẩm phải đa dạng chủng loại, tạo ra chuỗi giá trị cao. Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự phát triển công nghiệp về chất là tỷ lệ giữa giá trị gia tăng (VACN) và giá trị sản xuất công nghiệp (GOCN). Tỷ lệ này càng cao phản ánh hiệu quả trong sản xuất công nghiệp. Làm được điều đó, đòi hỏi s ản xuất công nghiệp phải phát huy tối đa các nguồn lực sẵn có, đồng thời phải đẩy mạnh đầu tư đổi mới trang thiết bị, máy móc để tăng năng suất; nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá trong lao động, tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Năng suất lao động cũng là một chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá hiệu quả trong sản xuất công nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh sự phù hợp của lao đ ộng với trình độ công nghệ trong quá trình sản xuất công nghiệp, đồng thời phản ánh mức
  15. 12 độ hiệu quả khi sử dụng lao động của doanh nghiệp. Để năng suất lao động tăng cao, đòi hỏi người lao động phải thường xuyên được bồi dưỡng, đạo tạo về trình độ chuyên môn để thích ứng với các dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đ ại. Đồng thời, đẩy mạnh cách thức tổ chức, quản lý theo các tiêu chuẩn quốc tế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất công nghiệp.Về mặt lượng, năng suất lao động được tính bằng tỷ số giữa giá trị sản xuất công nghiệp và số l ượng lao động trong từng bộ phận công nghiệp cụ thể. Ngoài ra, cơ cấu công nghiệp hợp lý trong từng giai đoạn phát triển cụ thể cũng rất quan trọng trong đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp. Cơ c ấu công nghiệp hợp lý là cơ cấu phản ánh được xu thế phát triển chung. Đó là, cơ cấu đa dạng nhưng thống nhất và có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau, cho phép tạo ra các giá trị gia tăng lớn nhất. Trong đó, hàm lượng khoa học, công nghệ và chế biến sâu trở thành động lực tăng trưởng, quy định nội dung về chất của cơ cấu. Về mặt lượng, cơ cấu công nghiệp được xác định bằng tỷ trọng giữa giá trị sản l ượng c ủa từng bộ phận chiếm trong tổng giá trị sản lượng ngành công nghiệp.[4, tr1] Trong lựa chọn cơ cấu công nghiệp, cần thấy rằng mỗi ngành công nghiệp muốn phát triển phụ thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp khác có liên quan. Vì thế năng lực cạnh tranh của một ngành công nghiệp chuyên môn hoá phụ thuộc vào ngay trong khả năng liên kết trong nội bộ ngành công nghiệp, cũng như liên kết với các ngành và các lĩnh vực liên quan khác. Để phát triển hiệu quả các ngành công nghiệp đã lựa chọn, cần chuyển dịch cơ cấu ngành theo các mô hình liên kết như: - Liên kết giữa các ngành khai thác tài nguyên và chế biến tài nguyên thành các sản phẩm (có thể trở thành đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến hoặc có thể là những sản phẩm hoàn chỉnh). Lựa chọn cơ cấu công nghiệp theo mô hình liên kết các ngành công nghiệp có liên quan chặt chẽ với nhau, từ khai thác đến chế biến tài nguyên phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước, đồng thời hướng đến phục vụ xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng về cả kinh tế, xã hội và môi trường. - Liên kết giữa ngành công nghiệp chế biến với ngành sản xuất nông, lâm, thuỷ sản trên từng vùng lãnh thổ. Mô hình này sẽ đảm bảo cho các nhà máy
  16. 13 chế biến chủ động về nguồn nguyên liệu, từ đó chủ động trong sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tạo vị thế cạnh tranh. Đây là cơ sở để ngành công nghiệp chế biến và ngành sản xuất nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản có thể phát triển một cách bền vững, lâu dài. Lựa chọn cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng phát triển các mô hình liên kết là xu hướng tất yếu, phù hợp với tiềm năng và lợi thế về tài nguyên, về nguồn nguyên liệu do các ngành sản xuất nông-lâm-thuỷ sản sản xuất ra và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Đây là quá trình chuyển dần từ các ngành công nghiệp dựa vào lợi thế tài nguyên sang lợi thế về vốn, khoa học và công nghệ. Cơ cấu công nghiệp theo vùng Phát triển công nghiệp theo vùng là nhằm khắc phục tình trạng phân bổ công nghiệp mất cân đối giữa các vùng, địa phương. Sự phát triển công nghiệp không cân đối giữa các vùng làm hạn chế trong khai thác tiềm năng, lợi thế c ủa vùng mà còn gây mất cân đối thu nhập giữa các vùng, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, gây áp lực lên hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Vì vậy, chính sách phát triển công nghiệp theo vùng là nhằm thúc đẩy sự phát triển công nghiệp một cách cân đối, hài hoà trên cơ sở phát huy được tất các tiềm năng, lợi thế của vùng. Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế Để phát triển công nghiệp theo hướng đã lựa chọn, nhất là các ngành công nghiệp được ưu tiên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển công nghiệp cân đối trên các vùng lãnh thổ cần có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển công nghiệp. + Cần đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển công nghiệp theo định hướng và quy hoạch, nghĩa là không có sự phân biệt đối xử trong chính sách ưu đãi. + Nhà nước cần xác định cụ thể trong chiến lược phát triển công nghiệp lĩnh vực nào nhà nước cần phải đầu tư, lĩnh vực nào thì khuyến khích các thành ph ần xã hội khác tham gia đầu tư. + Đối với ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao, hiện đại cần có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo các hình thức đầu
  17. 14 tư trực tiếp, liên doanh với các doanh nghiệp trong nước. Các hình thức liên doanh với nước ngoài trong phát triển công nghiệp cần có chiến lược và quy hoạch cụ thể để tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm chế tạo. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường quan hệ liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo các ngành công nghiệp phát triển một cách bền vững. Mục tiêu của việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong phát triển công nghiệp là nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển công nghiệp theo định hướng đã lựa chọn, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. 1.3.3. Lựa chọn công nghệ trong phát triển các ngành công nghiệp Quá trình phát triển công nghệ từ thấp đến cao tương ứng với các loại công nghệ như: công nghệ thâm dụng tài nguyên (các ngành khai thác tài nguyên, chế biến nông sản...); công nghệ thâm dụng lao động (các ngành sản xuất quần áo, giày dép, hàng gia dụng...); công nghệ thâm dụng vốn (các ngành sản xuất máy móc, thiết bị...); công nghệ thâm dụng kỹ thuật (các ngành sản xuất phần cứng, phần mềm máy vi tính, công nghệ sinh học...). Các nước đi sau có lợi thế của kẻ đi sau, vừa có thể phát triển tuần tự, vừa có thể nhảy vọt ở một số ngành kỹ thuật cao nếu có điều kiện phù hợp. Việc tận dụng lợi thế về tài nguyên phong phú và lao động giá rẻ là nguyên nhân trực tiếp để đa số các nước đang phát triển lúc đầu lựa chọn công nghệ thâm dụng tài nguyên và lao động. Những ngành sử dụng loại công nghệ này thường dễ xây dựng, vốn đầu tư không lớn, tạo được nhiều việc làm cho người lao động, góp phần tích luỹ vốn ban đầu. Nhưng về lâu dài lại tạo ra giá trị gia tăng thấp, ít sự sáng tạo, năng suất lao động tăng chậm. Lúc này, việc tận dụng lợi thế của kẻ đi sau lại tạo ra bước đột phá trong sản xuất, phát triển các ngành công nghệ cao, nâng cao năng suất lao động, tạo ra giá trị gia tăng lớn. Công nghệ thích hợp khi có tỉ lệ vốn-lao động phù hợp với nguồn lực sẵn có của đất nước, địa phương. Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài thường cung cấp những công nghệ phù hợp với điều kiện của họ, tức là có tỉ l ệ vốn-lao động cao. Ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ đạt được năng suất cao, tạo nhiều mối liên kết và tiềm năng sẽ tạo ra được những ngành công nghiệp chiến l ược, đặc biệt trong hoàn cảnh chính sách thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, trên cơ sở
  18. 15 nguồn lực của các nước đang phát triển, công nghệ hiện đại chỉ có thể đạt đ ược thành công khi có chính sách can thiệp của Nhà nước. Một số chính sách can thiệp chủ yếu như: - Chính sách giá trần và giá sàn của Nhà nước: chính sách lương tối thiểu hay lương theo thoả thuận của công đoàn dẫn đến xu hướng chuyển sang sử dụng công nghệ thâm dụng vốn. - Chính sách lãi suất trần, quản lý tín dụng làm cho các doanh nghiệp lớn có cơ hội hơn và chuyển sang công nghệ thâm dụng vốn. - Chính sách ngoại thương nói chung khuyến khích các doanh nghiệp lớn thông qua miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc thiết bị. Nhưng những can thiệp trên sẽ không có lợi cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ. Các công nghệ không thích hợp thể hiện: - Sản phẩm không thích ứng với nhu cầu và thị hiếu của đại đa số người tiêu dùng trong nước. - Sử dụng nguyên liệu nhập khẩu trong khi địa phương có khả năng cung ứng. - Quy mô hoạt động quá lớn vượt quá khả năng quản lý. - Sử dụng lao động kỹ thuật cao không có sẵn tại địa phương. - Sử dụng nhiều máy móc nhập khẩu đắt tiền không thích hợp với điều kiện địa phương. - Thông thường chỉ thích hợp với một số doanh nghiệp quy mô lớn chứ không thích hợp với nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ. - Công nghệ thâm dụng vốn có sản lượng cao hơn trên một đ ồng vốn đ ầu t ư nên gia tăng GDP. Công nghệ thâm dụng lao động có sản lượng trên một đồng vốn thấp nhưng tạo nhiều việc làm hơn. 1.3.4. Tận dụng lợi thế theo quy mô trong phát triển một số ngành công nghiệp Trong nhiều ngành công nghiệp sản xuất quy mô lớn có thể giảm được chi phí. Lợi thế kinh tế theo quy mô tồn tại vì những lý do: - Do tính không thể chia được của quá trình sản xuất, trong quá trình sản xuất luôn cần một số lượng tối thiểu các đầu vào để duy trì hoạt động của doanh nghiệp, nó không phụ thuộc vào việc có sản xuất hay không sản xuất, các chi phí đó gọi là
  19. 16 chi phí cố định và nó không thay đổi theo mức sản lượng, nghĩa là các chi phí không thể chia nhỏ được nữa, nó bắt đầu từ những mức sản lượng thấp và không tăng cùng với mức tăng của sản lượng. Vì vậy, khi sản l ượng tăng, doanh nghi ệp sẽ đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô vì chi phí cố định này có thể chia cho một số lượng nhiều hơn các đơn vị sản lượng và như vậy nó làm giảm chi phí bình quân cho một đơn vị sản phẩm. - Do tính chuyên môn hoá, một số ngành nghề riêng lẻ, một mình phải đảm đương tất cả các công việc trong kinh doanh nhưng nếu họ mở rộng sản xuất và thuê thêm lao động thì mỗi người công nhân có thể tập trung vào một công việc cụ thể và giải quyết công việc đó có hiệu quả hơn, do đó góp phần làm giảm chi phí bình quân. - Do tính quan hệ chặt chẽ, doanh nghiệp có quy mô lớn thường cần đ ến l ợi thế của các máy móc mới, hiện đại, với mức sản lượng cao thì chi phí khấu hao máy móc có thể trải đều cho một số lượng lớn sản phẩm và với kỹ thuật đó có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm đến mức làm cho chi phí bình quân giảm. Các doanh nghiệp quy mô lớn thường có khả năng chi phối thị trường, sử dụng kỹ thuật sản xuất hàng loạt, có đủ tiềm năng tài chính để tự nghiên cứu và phát triển, có bộ máy quản lý chuyên nghiệp và được xem là đầu tàu kéo các doanh nghi ệp khác cùng phát triển. Phát triển các ngành công nghiệp quy mô vừa và nhỏ Trong một số ngành công nghiệp mà sản phẩm có tính thời trang như quần áo, giày dép, đồ gỗ gia dụng, vật liệu xây dựng, thực phẩm, thì quy mô vừa và nhỏ tỏ ra khá hiệu quả. Việc phân loại quy mô lớn, vừa hay nhỏ dựa vào tiêu thức s ố lao động hay số vốn và chỉ mang tính chất tương đối. Doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ lao động kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đ ổi c ủa thị trường, phát huy và tận dụng tốt các nguồn lực ở những vùng sâu, vùng xa. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp quy mô nhỏ ở các thành phố lớn còn nhiều hơn các doanh nghiệp quy mô lớn. Hơn nữa, doanh nghiệp quy mô nhỏ nói
  20. 17 chung thường sử dụng công nghệ thâm dụng lao động. Loại hình doanh nghiệp này tạo nhiều việc làm, góp phần phân phối lại thu nhập. Công nghiệp quy mô nhỏ còn thúc đẩy phi tập trung hoá do phân bổ ở nông thôn hay những thành phố nhỏ, đó là xí nghiệp thôn dã. Những ngành công nghiệp truyền thống cũng thường phát triển ở quy mô vừa và nhỏ. Doanh nghiệp nhỏ còn là vườn ươm cho các tài năng quản lý. Tuy nhiên, hiệu quả của các doanh nghiệp quy mô nhỏ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả sinh ra do sự kết hợp nhiều doanh nghiệp và do các hoạt động thay thế hay hỗ trợ. Những người sản xuất quy mô nhỏ cần tiếp cận với các đầu vào trung gian nên thích phân bổ gần các cảng hay những tiện ích giao thông khác. Các doanh nghiệp nhỏ ít tự đào tạo lao động, nhưng hưởng lợi do gần các trung tâm đô thị nơi lao động có tay nghề. Các doanh nghiệp nhỏ có tỉ lệ phá sản khá cao. Chính phủ tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển như: cung cấp hệ thống luật pháp, những thể chế khác, duy trì những chính sách dựa trên cơ sở thị trường, loại bỏ những chính sách làm nản lòng nhà kinh doanh. Chính phủ còn hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong dài hạn, trợ cấp cho các doanh nghiệp này sẽ tốn kém và tỏ ra kém hiệu quả.[1, tr 190-192] 1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển công nghiệp 1.4.1.Vị trí địa lý Vị trí địa lý bao gồm vị trí tự nhiên, vị trí kinh tế, giao thông, chính trị. Vị trí đ ịa lý tác động rất lớn tới việc lựa chọn địa điểm xây dựng xí nghiệp cũng như phân bố các ngành công nghiệp và các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Nhìn chung, vị trí địa lý có ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành cơ cấu ngành công nghiệp và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trong điều kiện tăng cường mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Sự hình thành và phát triển của các xí nghiệp, các ngành công nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào vị trí địa lý. Có thể thấy rõ hầu hết các cơ sở công nghiệp ở các quốc gia trên thế giới đều được bố trí ở những khu vực có vị trí thuận lợi như gần
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2