intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài "Quy luật giá trị - sự vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế việt nam hiện nay"

Chia sẻ: Lê Trang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

348
lượt xem
123
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nước ta là một nước đông dân cư với nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Việc phát triển kinh tế là một trong những bước đi quan trọng để phát triển đất nước. Thực tế đã chứng minh, phát triển kinh tế là một việc vô cùng khó khăn, phải trải qua một thời gian khá dài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài "Quy luật giá trị - sự vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế việt nam hiện nay"

  1. Luận văn Đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chăm sóc khách hàng tại công ty Cổ Phần Đầu Tư và XNK Cà Phê Tây Nguyên 1
  2. Mục lục Mục lục ........................................................................................................................ 1 LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4 NỘI DUNG ................................ ................................ ................................ .................. 5 1. Quy luật giá trị: ................................ ........................................................................ 5 1.1. Nội dung và yêu cầu của q uy luật giá trị: .............................................................. 5 1.2. Tác động của quy luật giá trị: ................................................................................ 6 2. Vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: ................................ ...................... 7 2.1. Tính tất yếu của việc vân dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: .......... 7 a. Tính tất yếu của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: .................. 7 b. Bản chất kinh tế thị trường ở Việt Nam:.....................................................................9 2.2. Thực trạng vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: ........................ 10 a. Vận dụng quy luật giá trị vào những năm nền kinh tế bao cấp: ................................ 10 (Theo: Văn kiện Đảng toàn tập(trang 671 – 676), tập 3 ............................................... 11 b. Vận dụng quy luật giá trị vào những năm chuyển sang nền kinh tế thị trư ờng:......... 12 2.3. Kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: ....................... 15 a. Mặt tích cực của việc vận dụng quy luật giá trị: ...................................................... 15 (Theo:Lưu Ngọc Trịnh – Trần Thị Lan Hương,............................................................ 16 b. Mặt hạn chế của việc vận dụng quy luật giá trị:....................................................... 17 2.4. Những giải pháp nhằm vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay:................................ ................................ ............................................................. 18 KẾT LUẬN ................................ ................................ ................................ ................ 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................ ................................ ......................... 23 2. Tạp chí cộng sản điện tử ( Số 1(122), 2007; Số 23(215), 2010) ................................ 23 3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX(trang 87), ................................ ....... 23 4. Văn kiện Đảng to àn tập(trang 671 – 676),................................................................ 23 2
  3. 5. Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới(trang 45 – 51), số 11(139) ...................... 23 6. Bách khoa toàn thư mở wikipedia, ................................ ................................ ........... 23 7. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, ....................................................................23 3
  4. LỜI MỞ ĐẦU N ước ta là một nước đông dân cư với nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Việc phát triển kinh tế là m ột trong những bước đi quan trọng để phát triển đất nước. Thực tế đ ã chứng minh, phát triển kinh tế là m ột việc vô cùng khó khăn, phải trải qua một thời gian khá dài. Phát triển kinh tế là cuộc chạy đua sôi động của các nước trên thế giới nhằm đạt vị trí cao hơn trên trường quốc tế. Mỗi quốc gia cần phải dựa trên nền tảng đất nước để có những chính sách phù hợp, vận dụng hợp lý các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị vào việc phát triển nền kinh tế. Tác động của quy luật giá trị vào mỗi quốc gia là khác nhau, nó tùy thuộc vào trình độ p hát triển của lực lượng sản xuất, khả năng nhận thức vận dụng và tổ chức các hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia. Trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị như thế nào? Quy luật giá trị tại sao lại đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế quốc gia? Và việc vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng x ã hội chủ nghĩa ở nước ta có những ưu điểm, nhược điểm gì? Để nghiên cứu rõ hơn về tác động của quy luật giá trị, từ đó có thể áp dụng quy luật giá trị một cách khoa học hiệu quả tận dụng một cách tối ưu nhất những ưu điểm của nó khi tham gia vào nền kinh tế đất nước nên em đã chọn đề tài: “Quy luật giá trị, Sự vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam”. N ền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế non trẻ, được xây dựng trên nền tảng xã hội chủ nghĩa nên tất cả các khía cạnh đều mang những đặc điểm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dù được thể hiện trực tiếp hay gián tiếp. Từ thực trạng vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta, qua đó có thể thấy rõ hơn những ưu khuyết điểm của nó và từ đó tìm cách khắc phục những mặt hạn chế, nhằm đạt được những hiệu quả tốt hơn trong quá trình phát triển đất nước. Nội dung của đề tài nghiên cứu này bao gồm hai phần: 1. Quy luật giá trị, vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa mà đỉnh cao là kinh tế thị trường. 2. Vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam. H i vọng đề tài này sẽ góp phần áp dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội của nước ta hiện nay. Vinh, ngày 20 tháng 12 năm 2010 4
  5. NỘI DUNG 1. Quy luật giá trị: Q uy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đ âu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Q uy luật giá trị quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa. 1.1. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị: Theo yêu cầu của quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. ▪ Trong sản xuất: - N ếu người sản xuất có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, thực hiện tốt yêu cầu của quy luật giá trị thì thu được lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trung bình. - Nếu người sản xuất có hao phí lao động cá biệt bằng hao phí lao động xã hội cần thiết, thực hiện đúng yêu cầu của quy luật giá trị thì thu được lợi nhuận trung bình. - N ếu người sản xuất có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động x ã hội cần thiết, vi phạm yêu cầu của quy luật giá trị thì bị thua lỗ. Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao phí lao động mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. V ì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được. ▪ Trong lưu thông: Trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Sự lên, xuống của giá cả phụ thuộc vào quan hệ cung – cầu của hàng hóa và dịch vụ: - K hi cung > cầu thì giá cả < giá trị ( Người sản xuất thua lỗ) - K hi cung = cầu thì giá cả = giá trị ( Người sản xuất chỉ thu lại vốn) - K hi cung > cầu thì giá cả > giá trị ( Người sản xuất thu lợi nhuận) Sự vận dụng của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó càng cao và ngược lại. Nói cách khác, giá trị như cái trục của giá cả, giá cả của hàng hóa có thể cao hoặc thấp nhưng luôn xoay quanh trục giá trị. 5
  6. 1.2. Tác động của quy luật giá trị: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau: ▪ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa: - Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất cũng được mở rộng. - Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đ ó buộc người sản xuất phải thu hẹp sản xuất mặt hàng này ho ặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên. Còn nếu như mặt hàng nào đó có giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này. N hư vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu x ã hội. Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. ▪ Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm: Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm… nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất. Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các qua trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nên người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống. ▪ Phân hóa người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo: N hững người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động x ã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức 6
  7. hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thạm chí thuê thêm lao động làm thuê. N gược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mưc hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa, sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê. Đ ây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản. N hư vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2. Vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: 2.1. Tính tất yếu của việc vân dụng quy lu ật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: a. Tính tất yếu của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: K inh tế chỉ huy là nền kinh tế trong đó chính phủ chỉ huy bằng cách quyết định các phương hướng phát triển, các cân đối lớn, các nhiệm vụ sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu thụ. Không giống như trong nền kinh tế có kế hoạch, nhà nước không định ra những chỉ tiêu cụ thể cho nền kinh tế về sản xuất và phân phối. Nền kinh tế ở các nước, bất luận là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, trong hoàn cảnh chiến tranh thường là kinh tế chỉ huy, do hoạt động trong những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh, do những yêu cầu tối cấp thiết phải động viên cao độ để đảm bảo cho chiến tranh. Trong điều kiện đó, không thể để thị trường tự do điều tiết một cách tự phát toàn bộ hay một phần lớn nền kinh tế cũng như chưa thể quản lí nền kinh tế theo kế hoạch. Trong điều kiện hoà bình, nhiều nước cũng theo nền kinh tế chỉ huy bằng cách hạn chế tác động của cơ chế thị trường, thực chất đó cũng là nền kinh tế chỉ huy. Một thời gian dài, Đ ảng và Nhà nước ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa x ã hội kiểu Xô – viết, mô hình kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. 7
  8. Đó là mô hình kinh tế chỉ huy cứng nhắc. Tuy thời gian đầu đã đ ạt được những thành quả nhất định, nhất là đáp ứng được nhu cầu của đất nước trong thời kỳ chiến tranh. Nhưng càng về sau, khi đất nước đã hòa bình, mô hình kinh tế này không còn phù hợp nữa, nó ngày càng bộc lộ những mặt trái và mặt hạn chế trong công tác chỉ đạo cũng như sai phạm trong công tác thực hiện mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là suy nghĩ và hành đ ộng đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam. Chính vì vậy, Đ ảng và Nhà nước ta đã có một bước đi đúng đắn trong việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế chỉ huy cứng nhắc sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một phần mang bản chất của nền kinh tế chỉ huy nhưng năng đ ộng và linh hoạt hơn vì tuy có sự điều tiết chủ động, tự giác của nhà nước, và tuy nó cũng là một loại hình kinh tế thị trường, nhưng không phải là một nền kinh tế tự do theo đúng nghĩa, mà nó có sự quản lí của nhà nước theo những mục tiêu và những quan hệ cân đối nhất định được định trước. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế – xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ b ản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới luôn vận động, luôn phát triển theo qúa trình định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "đ ộng lực" thúc đẩy sản xuất x ã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa x ã hội. Chính vì vậy, áp dụng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là tất yếu. Áp dụng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế nước ta chính là áp d ụng quy luật giá trị, buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm hàng hoá do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế nước trở nên sống động hơn, các thành phần kinh tế đa dạng hơn, để có được thu nhập, người sản xuất phải quan 8
  9. tâm đến sự tiêu thụ của hàng hoá trên thị trường sao cho sản phẩm của họ được xã hội thừa nhận. b. Bản chất kinh tế thị trường ở Việt Nam: N ền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hay nói xa hơn là nền kinh tế thị trường định hướng x ã hội chủ nghĩa. Đây là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh tế này dần xóa bỏ mô hình kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp của các nước x ã hội chủ nghĩa mà nước ta áp dụng vào nền kinh tế trước đây. N ền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt N am. “Bàn về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là bàn về bản chất của những thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Những thành phần kinh tế đó tạo thành cơ sở kinh tế của định h ướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”. (Tạp chí Cộng sản số 1(122), năm 2007) N hững thành phần kinh tế này chính là định hướng x ã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong thời kỳ quá độ, Chính trị đóng vai trò hàng đầu chi phối sự phát triển của đất nước, kể cả sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở nước ta không phải chỉ do Chính trị chi phối mà nó con được chi phối bởi cơ sở kinh tế bên trong, có sẵn, tự nó có xu hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nhân tố xã hội chủ nghĩa phát triển ngày càng mạnh lên ở nước ta.Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần. Theo lý luận của Mac – Lenin, đường lối chính trị và kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ, để thực hiện yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa, tại Đ ại hội IX, Đảng ta đã xác định: “Chế độ công hữu sẽ từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản” (Theo: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX(trang87), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia , năm 2001) K inh tế tư bản tư nhân là một bộ phận kinh tế năng động, tích cực trong nền kinh tế quốc dân của nước ta, tồn tại lâu d ài và phục vụ định hướng xã hội chủ nghĩa, song điều đó không có nghĩa là nó không còn là kinh tế tư bản chủ nghĩa nữa. Chính vì vậy, Đảng ta luôn tạo điều kiện cho nền kinh tế này phát triển, nhưng vẫn quản lý chặt chẽ và khắc phục những hạn chế của nó và đặc biệt, luôn lấy kinh tế nhà nước là chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Có thể khẳng định rằng, chỉ cần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo 9
  10. của Đảng thì việc phát triển mạnh mẽ các hình thức sở hữu tư nhân sẽ phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đi đúng định hướng x ã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay. N ền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn đơn giản, sơ khai trong khi nền kinh tế thị trường trên thế giới đa dạng và rất phát triển. Chính vì vậy, chúng ta phải nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thị trường thế giới, nhằm phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. H àng hóa Việt Nam hiện nay còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh…Chúng ta chủ yếu xuất thô hàng hóa nên thu lợi ít và nhập siêu các sản phẩm sau khi đ ã qua chế biến. Do nước ta là một nước giàu tài nguyên nên mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta là nông sản,ngoài ra còn có các m ặt hàng nổi trội như giày da, may mặc, đặc biệt là dầu mỏ. Do trình độ kỹ thuật còn hạn chế, phương tiện kỹ thuật còn thô sơ, lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường quốc tế khó tính đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm, mẫu mã sản phẩm. Mặt khác, một vài mặt hàng của nhiều doanh nghiệp tư nhân bán phá giá, xuất khẩu những mặt hàng kém chất lượng để thu lợi mà không nghĩ đến hậu quả về sau. Chính vì vậy, đ ể hội nhập nền kinh tế thị trường thế giới, Đảng và N hà nước ta cần đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình sản xuất. Đặc biệt, cần hạn chế xuất thô các mặt hàng nông sản, tài nguyên, cần xây dựng các nhà máy chế biến nông sản hiện đại, đầy đủ máy móc để tạo ra sản phẩm chất lượng tốt, xuất khẩu, thu lợi nhuận lớn. Bên cạnh đó, không chỉ củng cố kinh tế tập thể, Đảng và Nhà nước cũng cần khuyến khích mở rộng kinh tế tư nhân, kinh tế ngoài quốc doanh tham gia vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2. Thực trạng vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: a. Vận dụng quy luật giá trị vào những năm nền kinh tế bao cấp: (Giai đoạn 1976 – 1985) ▪ Kinh tế bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang đ ịa phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này đ ể phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi khi cũng được trả bằng hiện vật. 10
  11. ▪ Vận dụng quy luật giá trị: Mặc dù chế độ bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước ở giai đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986. Đây được coi như một giai đoạn thất bại và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XX. Mô hình kinh tế giai đoạn này áp dụng mô hình kinh tế của miền Bắc trước đó. Trong giai đoạn này, Đảng ta đã đưa ra kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1976 – 1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1981– 1985): - Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1976 – 1980): Đảng cộng sản Việt N am IV đề ra năm 1976 sau khi những kế hoạch 5 năm đã ngưng trệ từ năm 1965 do hoàn cảnh chiến tranh. V ới phương châm: “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, Đ ảng và Nhà nước đã đưa ra mục tiêu: “Theo kế hoạch, sản xuất xã hội sẽ tăng b ình quân hàng năm 14 – 15%, thu nhập bình quân quốc dân tăng 13 - 14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8 – 10%, năng suất lao động xã hội tăng 7,5 – 8%, lương thực quy thóc đạt ít nhất 21 triệu tấn vào năm 1980, thịt hơi các loại đạt 1 triệu tấn”. (Theo: Văn kiện Đảng toàn tập(trang 671 – 676), tập 3 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2007) Trong thời điểm khi mà nước nhà vừa giành độc lập, đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế và cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề, việc đưa ra những chỉ tiêu đó là quá cao, không thể đạt được khi m à chúng ta chưa có nền tảng vững vàng. Đặc biệt, hậu quả nghiêm trọng phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực thi "đánh tư sản mại bản", tiêu diệt tiết kiệm vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng. - Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1981 – 1985): Đảng cộng sản Việt N am V đề ra năm 1981 trong hoàn cảnh kinh tế đất nước sau 5 năm kháng chiến chống Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng. Đ ảng và Nhà nước đưa ồ ạt nông dân miền Nam, Tây Nguyên vào làm ăn tập thể. Năm 1985, sai lầm trong việc điều chỉnh tổng giá – lương – tiền đã đưa nền kinh tế nước ta vào những khó khăn mới. Nền kinh tế xã hội rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, siêu lạm phát kéo dài. 11
  12. Trong giai đoạn 1976 – 1985, Việt Nam đã gia nhập một số tổ chức thế giới. Năm 1976, tại hội nghị cao cấp V (Colombia, SriLanka), Việt N am gia nhập Phong trào không liên kết. Ngày 20/07/1977, nước ta gia nhập Liên hợp quốc. Từ năm 1979, Việt Nam chính thức là thành viên của ACCT- Cộng đồng Pháp ngữ. Mô hình kinh tế giai đoạn này có thể chia thành những điểm cơ bản: + Sản xuất xã hội chủ nghĩa dụa vào hai thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh (trong công và thương nghiệp ) và tập thể (trong nông nghiệp - với hợp tác xã cấp cao là nòng cốt). + Áp dụng mô hình của nền kinh tế chỉ huy: N hà nước kiểm soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng các yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. + Công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng trưởng và phát triển kinh tế. + N hà nước độc quyền về kinh tế đối ngoại. Do chưa hiểu rõ bản chất của tăng trưởng nền kinh tế đất nước nên chúng ta đ ã vận dụng sai lệch quy luật giá trị, dẫn đến triệt tiêu những nhâ n tố tích cực, năng động xã hội, kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăn cấm triệt để. Vì vậy, nền kinh tế nước ta rơi vào trì trệ, kém phát triển, thu nhập quốc dân thấp, đời sống nhân dân khó khăn. b. Vận dụng quy luật giá trị vào những năm chuyển sang nền kinh tế thị trường: - Từ sau năm 1986, Đ ảng và Nhà nước quyết định chính sách cải tổ, đưa nước ta b ước vào thời kỳ Đổi mới – quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong mọi hoạt động, và đặc biệt là trong hoạt động kinh tế. Để sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công b ằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, tích cực xóa đói giảm nghèo, nền kinh tế của nước ta đ ã và đang phát triển theo mô hình Kinh tế thị trường định hướng X ã hội chủ nghĩa – các chủ thể kinh tế có quyền độc lập, tự chủ trong quá trình sản xuất, kinh doanh; giá cả do thị trường quyết định; có sự điều tiết của Nhà nước thông qua pháp luật, chính sách kinh tế; được dẫn dắt và chi phối bởi nguyên tắc và b ản chất của chủ nghĩa xã hội. Mô hình kinh tế này mang b ản chất của quy luật giá trị. 12
  13. Thời kì 1986 – 1990, Nhà nước tập trung triển khai ba chương trình lớn. Đó là: Lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Các hình thức ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường dần được xóa bỏ, kế ho ạch nhà nước được thực hiện trên cơ sở hạch toán. Đặc biệt, Nhà nước đã mở cửa thị trường, kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân được phát triển và thừa nhận, bắt đầu được Nhà nước tạo điều kiện hoạt động. Nền kinh tế dần được thị trường hóa. Song, Nhà nước vẫn chủ trương và thực hiện nền kinh tế quốc doanh là chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác. Cơ chế quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh tập trung dần dần giảm đi, quan liêu, bao cấp dần được xóa bỏ. Kinh tế nước ta chuyển đổi theo hướng tích cực: giảm tỉ trọng nông - lâm - ngư nghiệp và tăng tỉ trọng công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. N ền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, nước ta đã sản xuất đủ cung cấp, dự trữ và xuất khẩu gạo. V à hiện nay, nước ta là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Hàng hóa, nhất là hàng hóa tiêu dùng, nhiều và đa dạng hơn. Xuất khẩu tăng mạnh, giảm thâm hụt thương mại. Từ năm 1989, nước ta bắt đầu xuất khẩu dầu mỏ (còn gọi là vàng đen) đem lại nguồn thu không nhỏ. Tuy nhiên, do xuất khẩu còn là dầu thô, chưa qua chế biến nên lợi nhuận thu được không cao và ta lại phải nhập khẩu các sản phẩm chế biến từ dầu với giá thành cao hơn hẳn nên Nhà nước ta đã đưa vào xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất, đến năm 2009, Nhà máy lọc dầu Dung Quất được đưa vào ho ạt động, đánh dấu bước chuyển mới, chúng ta đã cho ra đời những sản phẩm chế biến từ dầu mỏ thu một nguồn lớn, giảm nhập khẩu các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ. - Tháng 6 năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII diễn ra, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” ra đ ời. Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ trung tâm của xây dựng cơ sở vật chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đẩy mạnh “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước, gắn liền với phát triển “một nền nông nghiệp toàn diện”. Phương hướng hoạt động chính là “thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển 13
  14. nền kinh tế hàng hóa nhiều thành ph ần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành theo cơ ch ế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. - Thời kỳ 1993 – 1997, đây là thời kỳ nước ta kiềm chế thành công lạm phát, tăng trưởng nhanh chóng. Đặc biệt, ngày 28/07/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á) – đánh dấu bước phát triển trong quan hệ về mọi mặt của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là quan hệ kinh tế. N gày 01 – 02/03/1996, ngay từ ngày thành lập ASEM (Diễn đàn Á – Châu), Việt Nam đ ã gia nhập tổ chức này. - Ngày 14/11/1998, Việt Nam gia nhập APEC (Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương), đây là b ước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và thế giới. Thị trường APEC tạo điều kiện cho nước ta trong việc thu hut nguồn vốn FDI và gia tăng khối lượng thương mại với các nước trong APEC. Đăc biệt, Việt Nam có cơ hội hợp tác với các đối tác lớn như: Hoa Kỳ, Nhật, Trung Quốc, Liên bang Nga…Trong hai năm 1998 – 1999, nền kinh tế nước ta có xu hướng phát triển chậm lại và tuy tăng tốc dần từ năm 2000, nhưng nền kinh tế lại có lúc rơi vào tình trạng giảm phát, thiểu phát. Các năm 2007 – 2008, lạm phát tăng tốc và đều ở mức 2 chữ số. N gày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được phép gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau khi đ ã kết thúc đàm phán song phương với tất cả các nước có yêu cầu (trong đó có những nền kinh tế lớn như Hoa K ỳ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung Quốc). Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO ngày 11 tháng 1 năm 2007 Thập niên 1990 và 2000 là thời kỳ mà nước ta tích cực hội nhập kinh tế mà đỉnh cao là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và hiệp định đối tác song phương với Nhật Bản – Một trong ba con rồng Châu Á, một trong những nền kinh tế phát triển nhất hiện nay trên thế giới. N gày 31/7/2009, Bộ Chính trị đã ban hành văn bản số 264-TB/TW về việc tổ chức cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Sau thời điểm này, chương trình đã đ ược phát động trên toàn quốc. Dùng hàng Việt Nam nhằm kích cầu tiêu dùng trong nước, hạn chế dùng 14
  15. hàng nhập khẩu. Chất lượng hàng nội không thua kém chất lượng hàng ngoại nhập mà giá cả hàng nội lại rẻ hơn rất nhiều. Chính vì vậy, vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhằm thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường trong nước. Cuộc vận động này đã thu được những kết quả khả quan. Người tiêu dùng đã tin tưởng vào chất lượng hàng trong nước. Nhu cầu mua hàng trong nước tăng lên và giảm nhu cầu dùng hàng ngoại (trừ một vài mặt hàng trong nước không sản xuất). 2.3. Kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam: a. Mặt tích cực của việc vận dụng quy luật giá trị: Trước năm 1986, Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, tương tự nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ. Nhờ vận dụng quy luật giá trị, Đảng ta đã đưa ra Chính sách Đ ổi mới năm 1986 thiết lập mô hình kinh tế mà Việt Nam gọi là “Kinh tế thị trường định hướng x ã hội chủ nghĩa”. Các thành phần kinh tế được mở rộng nhưng các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước, kinh tế đối ngoại không còn chỉ là độc quyền của Nhà nước nữa. Thay vào đó, nền kinh tế tư nhân, cá thể, ngoài quốc doanh được mở rộng và phát triển ra khỏi quy mô đất nước. - Về tăng trưởng kinh tế: Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đ ạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình kho ảng 9% hàng năm từ 1993 – 1997, và đặc biệt, trong năm 1994, Hoa kỳ dỡ bỏ cấm vận Việt Nam. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của sự khủng ho ảng kinh tế Châu Á năm 1997, tăng trưởng GDP từ 8,5% (1997) giảm xuống còn 4% (1998). Và sau đó, năm 1999, tăng trưởng GDP đã tăng lên 4,8%. Giữa những năm 2000 – 2002, tăng trưởng GDP của nước ta vẫn đạt từ 6% - 7% mặc dù nền kinh tế thế giới đang trì trệ. - Về chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Kinh tế nước ta được chia thành 3 khu vực: Khu vực 1 (nông – lâm – ngư nghiệp), Khu vực 2 (công nghiệp – xây dựng), Khu vực 3 (du lịch – dịch vụ). Do nước ta là một nước nông nghiệp nên trước đây, Khu vực 1 luôn chiếm tỉ trọng cao nhất. Tuy nhiên, đến năm 2007, nền kinh tế của nước ta có bước chuyển tích cực từ Khu vực 1 sang Khu vực 2, Khu vực 3 của ta còn non trẻ, chưa phát triển. Cụ thể: 15
  16. vào năm 2007, Khu vực 1 là 20,29% GDP thực tế, Khu vực 2 là 41,48%, K hu vực 3 là1,81% GDP thực tế. - Về đầu tư nước ngoài: Đ ầu tư nước ngoài đóng vai trò không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế nước ta. Tính theo giá trị lũy kế từ năm 1988 đến hết năm 2007, công nghiệp và xây dựng là lĩnh vực thu hút được nhiều FDI nhất – 67% số dự án và 60% tổng giá trị FDI đăng ký. Sau đó đến khu vực dịch vụ - 2 2,3% về số dự án và 34,3% về giá trị. Trong 82 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, các nước đầu tư nhiều nhất tính theo giá trị FDI đăng ký lần lượt là Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản. Còn theo giá trị FDI thực hiện thì Nhật Bản giữ vị trí số một. Riêng năm 2008, số FDI mới đăng ký (nghĩa là không tính số xin phép tăng vốn phát sinh trong năm) đạt 32,62 tỷ dollar. N ăm 2009, Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 60 trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa và đứng thứ 133 xét theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đ ầu người. Từ chỗ chỉ hợp tác thương m ại thông thường, Việt Nam đã tiến tới hợp tác to àn diện, từ chỗ hợp tác song phương, Việt Nam đã tiến tới hợp tác kinh tế đa phương. Cho đ ến giữa năm 2007, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với 224 nước, đã ký hơn 350 hiệp định hợp tác phát triển song phương, 87 hiệp định thương mại, 51 hiệp định thúc đẩy bảo hộ và đầu tư, 40 hiệp định tránh đánh thuế hai lần, 81 thỏa thuận về đối xử huệ quốc. (Theo:Lưu Ngọc Trịnh – Trần Thị Lan Hương, “Hội nhập đa tuyến: Kinh nghiệm của Việt Nam”; Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới(trang 45 – 51), số 11(139) Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện kinh tế và chính trị thế giới, năm 2007 V ận dụng quy luật giá trị làm cho đời sống người dân được nâng cao, việc xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều thành tích. Trình độ nguồn lao động của nước ta được nâng cao, được đào tạo từ cơ bản đến chuyên sâu. Đ ặc biệt, cơ sở hạ tầng, máy móc kỹ thuật được đầu tư xây dựng, nhập khẩu mới, hiện đại nên chất lượng hàng hóa được nâng cao, cạnh tranh với hàng ngoại, thị trường tiêu thụ được mở rộng… 16
  17. b. Mặt hạn chế của việc vận dụng quy luật giá trị: Bên cạnh những mặt tích cực của việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn có những mặt hạn chế cần phải khác phục: - Sự mất giá của đồng tiền Việt Nam, lạm phát gia tăng: “Các nhà kinh tế đều tin rằng năm 2010 chỉ số giá tiêu dùng CPI (được coi là lạm phát) sẽ đạt hai con số. Đây là chỉ tiêu không đạt được kế hoạch đề ra. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) sáng 7 - 12 - 2010, đại biểu Ngân hàng Thế giới đã dự đoán lạm phát của Việt Nam trong năm 2010 ở mức 10,5%. Còn Ngân hàng HSBC, trong bản báo cáo mới nhất về châu Á dự báo, Việt Nam sẽ có thay đổi về biên độ tỷ giá vào quý I năm 2011 và áp lực mất giá lên tiền đồng đang tăng lên”. (Theo: Tạp chí cộng sản số 23(215), năm 2010) N ăm 2008, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam ước khoảng 22,97 %, cao hơn nhiều mức Quốc hội đề ra là dưới 8,5-9% trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2008. Lạm phát tăng, tiền Việt Nam mất giá, tình trạng “Đô la hoá” diễn ra gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế tính theo đ ơn vị tiền tệ quốc gia của Việt Nam năm này là 6,18%, thấp hơn mức Quốc hội đề ra là trên 7,5-8%. Chính phủ quyết định thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ và tài chính cũng như do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến kinh tế tăng trưởng chậm hơn dự kiến. - Chính sách tiền lương: Mức tiền lương hiện nay của người lao động hiện nay chỉ bằng 40% sức lao động bỏ ra. Chế độ tiền lương hiện nay kéo dài ở mức thấp là do một bộ phận lớn cán bộ tha hóa, có chức quyền tham ô công quỹ, hối lộ và nhận hối lộ khiến công quỹ thâm hụt, ảnh hưởng đến nguồn quỹ lương để trả lương cho lao động. Người lao động được trả công không tương xứng với sức lao động mình bỏ ra, một bộ phận những người không phải sử dụng sức lao động chân tay hay trí óc nhưng vẫn được nhận lương như thường gây mâu thuẫn cho những người lao động với những người trả lương càng sâu sắc, dẫn đến biểu tình, đ ình công đòi tăng lương… 17
  18. 2.4. Những giải pháp nhằm vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay: a. Tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định h ướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần : N ền kinh tế thị trường định hướng xã hội ở nước ta nhất thiết phải có sự điều tiết của Nhà nước. K inh tế Nhà nước, kinh tế tập thể vẫn nắm vai trò chủ đạo trong việc phát triển đất nước. Cùng với sự đổi mới, củng cố kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, việc thừa nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế ngoài q uốc doanh phát triển là bước đi đúng đắn trong quá trình xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Cần thiết lập sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật, bởi vì chúng là nội lực góp phần phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. b. Chính sách phân công lao động, tiền lương hợp lý, giảm bất bình đẳng xã hội: Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển hàng hóa,cần phải mở rộng phân công lao động xã hội. Tùy theo từng địa phương, từng vùng phát triển mà có sự phân bố lại lao động là khác nhau nhằm khai thác triệt để mọi nguồn lực, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm thu lại hiệu quả cao nhất. Cùng với việc mở rộng phân công lao động chính là m ở cửa thị trường, mở rộng mối quan hệ hợp tác với các nước phát triển trên thế giới, gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Từ đó khai thác có hiệu quả mọi nguồn tài nguyên. Mỗi doanh nghiệp cần lập nên một công đoàn đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, Nhà nước cần tăng cường quản lý công tác về định mức lao động, Chính phủ phải công bố mức lương tối thiểu phù hợp với nhu cầu thực tế. Đặc biệt, mỗi doanh nghiệp cần lập một quỹ lương, dựa vào tình hình quỹ lương để xem xét việc tăng lương cho lao động, trả đúng mức lương cho người lao động, tăng lương cho những nhân tài có đóng góp lớn cho doanh nghiệp, có biên bản ghi rõ việc tăng lương 18
  19. trước khi thông báo tăng lương, không cho người không có phận sự biết về quỹ lương của doanh nghiệp. Chính sách an sinh xã hội cần đ ược nâng cao, đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho người lao động. c. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh thì phải thường xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, cần phải đầu tư nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới vào công cuộc sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trình độ công nghệ sản xuất của ta hiện nay so với trên thế giới còn ở mức thấp do nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn còn hạn chế, không đồng bộ, nền kinh tế còn non trẻ và chưa thực sự phát triển. Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng của ta còn lạc hậu, dịch vụ còn kém phát triển, mất cân đối giữa các vùng nên dẫn đến cản trở nguồn đầu tư trong và ngoài nước, cản trở phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trên cả nước. Chính vì vậy, Nhà nước cần tập trung ưu tiên các công trình đ iện – đường – trường – trạm nhằm phục vụ lợi ích quốc gia. Đẩy mạnh xây dựng các công trình phục vụ việc đi lại, lưu thông hàng hóa như: đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, nhà ga…, xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng, d ịch vụ bảo hiểm… đảm bảo thông suốt các vùng. d. Phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực từ cơ bản đến chuyên sâu phục vụ cho việc phát triển đất nước: N ước ta là một nước đông dân, cơ cấu dân số trẻ. Vì vậy, nguồn nhân nhân lực rất dồi dào, trẻ và năng đ ộng. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực còn rất thấp, đại đa số đều chưa qua đào tạo, chưa có kiến thức cụ thể, thiếu kinh nghiệm làm việc. Đảng ta đã nhận định: “Nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên”. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định cho việc phát triển đất nước. Thế hệ trẻ hôm nay chính là tương lai của đất nước. N hà nước cần tạo mọi điều kiện, mở thêm các trường, các trung tâm dạy nghề đào tạo từ cơ bản đến chuyên sâu cho lao động; cử cán bộ ra nước ngoài học tập. Cần nâng cao chất lượng giáo dục, tiếp thu nền 19
  20. giáo dục tiên tiến trên thế giới, đổi mới phương pháp, đầu tư các máy móc kỹ thuật, phương tiện giảng dạy nhằm phục vụ tốt hơn cho nền giáo dục nước nhà. e. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả: H ệ thống pháp luật của nước đang ngày càng được củng cố. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận người dân, doanh nghiệp dựa vào luật để lách luật. Đây là một điều đáng báo động trong tình hình nước ta mở của hội nhập phát triển. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải có những chủ trương, biện pháp tích cực để giảm thiểu tình hình trên. H ệ thống pháp luật là hành lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Dựa vào mô hình pháp luật kinh tế của thế giới, nước ta đã và đang dần hoàn thiện mô hình pháp luật của mình, từ đó, các doanh nghiệp có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Đ ơn vị tiền tệ của nước ta hiện nay là đồng. Cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế, tình trạng lạm phát của nước ta đang ở mức báo động đỏ, tiền mất giá. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng “Đô la hóa”. Chính vì vậy, Nhà nước cần đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. f. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết nền kinh tế vĩ mô: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điều tiết nền kinh tế vĩ mô phải được kiện to àn phù hợp với nhu cầu kinh tế thị trường. Mọi sự điều tiết phải thông qua bộ máy quản lý của Nhà nước. Để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, chúng ta cần có các kế hoạch và chiến lược kinh tế làm đòn bẩy cho sự phát triển nền kinh tế thị trường, cải cách bộ máy hành chính, nâng cao giáo dục, ban hành luật pháp nhằm răn đe, ngăn ngừa các tác nhân cản trở quá trình phát triển kinh tế. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2