intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam”

Chia sẻ: Phan Qui | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:112

968
lượt xem
115
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các hoạt động kinh tế luôn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi những hoạt động này diễn ra sẽ không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh do nhiều nguyên nhân. Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, số lượng các tranh chấp trong kinh doanh ngày càng tăng với mức độ ngày càng phức tạp. Vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là điều cần thiết để đảm bảo một môi...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam”

  1. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Các hoạt động kinh tế luôn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi những hoạt động này diễn ra sẽ không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh do nhiều nguyên nhân. Cùng với sự phát tri ển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, số lượng các tranh chấp trong kinh doanh ngày càng tăng với mức độ ngày càng phức tạp. Vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là điều cần thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh. Để thực hiện chức năng kinh tế của mình, nhà nước ta đã ban hành Hệ thống quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng hoặc các tổ chức được pháp luật thừa nhận để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn. Hiện nay, có thể nói, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp quan trọng và phổ biến nhất ở Việt Nam. Trong hệ thống Tòa án nhân dân thì giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc chức năng của Tòa kinh tế, là một Toà chuyên trách thành lập theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân đ ược Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 và có hiệu lực ngày 01/07/1994. Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được thực hiện đúng đắn, kịp thời; góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia. Đây là mối quan tâm của nhiều người trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay. Chính từ thực tiễn này, trong quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, tôi lựa chọn vấn đề “Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Các hoạt động kinh doanh, thương mại trong thời kỳ hội nhập quá phong phú, đa dạng làm cho số lượng tranh chấp phát sinh trong hoạt động này ngày càng nhiều và ngày càng phức tạp. Nếu trước đây, các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường là tranh chấp về mua bán hàng hóa và một phần về cung ứng dịch vụ; thì hiện nay, nhiều loại tranh chấp mới đã phát sinh như tranh chấp về mua bán licence, nhượng quyền thương mại, …Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển, cùng với mục tiêu lợi nhuận được đặt lên hàng đầu, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thu hút rất nhiều các chủ thể; và cũng chính trong mối quan hệ kinh tế này luôn tìm ẩn các nguy cơ phát sinh tranh chấp nhằm tranh giành lợi ích giữa các bên tham gia. Do đó, hiện nay các vấn đề liên quan đến tranh chấp kinh doanh, thương mại được rất nhiều người quan tâm, bao gồm cả các phương thức giải quyết tranh chấp khi nó phát sinh. Trước tình hình chung đó, sự phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Nam trong những năm trở lại đây đã kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các mô hình doanh nghiệp với
  2. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam quy mô khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh lực kinh tế. Và điều này cũng làm cho các tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn Tỉnh gia tăng trong những năm v ừa qua về cả số lượng và mức độ phức tạp. Chính vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh là yêu cầu cấp thiết đối với tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Ở nước ta hiện nay, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phổ biến nhất và việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại được quy định trong khá nhiều văn bản pháp lý. Theo điều 29, BLTTDS thì các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế; và văn bản pháp lý giải quyết các tranh chấp trên có thể là Bộ luật dân sự hay Luật chuyên ngành như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doạnh nghiệp,... 3. Phạm vi nghiên cứu Tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là vấn đề rộng lớn, có thể nhìn nhận đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi của chuyên đề tốt nghiệp, tôi chỉ giới hạn nghiên cứu về thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. 4. Mục đích nghiên cứu Thông qua chuyên đề, tôi muốn mô tả một “bức tranh” cụ thể về thực trạng cũng như việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Và với tình hình thực tiễn cùng với những kinh nghiệm, hiểu biết có được trong quá trình thực tập, tôi xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. 5. Bố cục của chuyên đề Chuyên đề trình bày các nội dung chính sau: ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung được trình bày theo 3 chương: Chương I: Pháp luật về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án Chương II: Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam Chương III: Giải pháp và kiến nghị
  3. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam CHƯƠNG I PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN 1. Tranh chấp kinh doanh, thương mại Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là những thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc trong cơ chế kinh doanh kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam. Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật thương mại ngày 10/5/1997; theo văn bản này thì tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do do việc không thực hiện hoặc thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Nhưng thực tế, cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường và sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, thì thuật ngữ tranh chấp kinh doanh, thương mại không chỉ bó hẹp là những tranh chấp như Luật thương mại 1997 đã xác định mà nó còn bao hàm nhiều loại tranh chấp khác phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thị tr ường cùng với thời kỳ hội nhập như hiện nay. Nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có chế đ ộ sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa nước ta phát triển. Tìm kiếm lợi nhuận trong kinh doanh không những là động lực phát triển mà còn là lý do tồn tại của hầu hết các chủ thể tham gia. Nhưng cũng chính sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh, đầu tư cùng với quy luật cạnh tranh mà các quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp hơn; những mâu thuẫn phát sinh ngày càng nhiều, cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn. Biểu hiện cụ thể đó là các tranh chấp kinh doanh, thương mại mà các bên không thể tự thỏa thuận được với nhau. Do đó, việc có một tổ chức giúp các bên giải quyết các mâu thuẫn phát sinh là điều quan trọng và cần thiết, để đảm bảo tâm lý và sự công bằng cho các chủ thể khi tham gia kinh doanh. Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái s ản xuất xã hội. Dù tồn tại dưới hình thức nào và bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan hay ch ủ quan thì đặc trưng chung của tranh chấp kinh doanh, thương mại là luôn gắn với hoạt động kinh doanh và chủ thể tham gia chủ yếu là các cá nhân, đơn vị kinh doanh. Về bản chất, mỗi tranh chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia vào quan hệ kinh tế đó. Khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004 quy định rõ rằng những tranh chấp về kinh doanh thương mại là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương
  4. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đ ều có mục đích l ợi nhuận. Những tranh chấp đó bao gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội đ ịa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên c ủa công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Trong nền kinh tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp được thành lập với hình thức khác nhau, trong những ngành nghề, lĩnh vực khác nhau thì việc liên kết, hợp tác thậm chí cạnh tranh với nhau cũng là điều dễ hiểu. Xung đột về quyền và l ợi ích gi ữa các chủ thể khi tham gia kinh doanh là không thể tránh khỏi. Một số loại hình tranh chấp phổ biến hiện nay có thể kể đến là tranh chấp về hợp đồng kinh doanh, thương mại; tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty hay giữa các thành viên công ty v ới nhau liên quan đến thiết lập, giải thể công ty … Trong điều kiện kinh tế thị trường với sự đa dạng về đối tượng làm phát sinh nhiều tranh chấp mới như tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, mua bán cổ phiếu, … Một khi các tranh chấp xảy ra, có nghĩa là lợi ích kinh tế của một bên chủ thể kinh doanh đã bị vi phạm. Điều này không chỉ ảnh hưởng tr ực tiếp đến hoạt động kinh doanh của chính chủ thể đó mà còn gián tiếp tác động tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Đối với một số tranh chấp xảy ra trong nội bộ đơn vị, chẳng hạn tranh chấp về quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chung của đơn vị đó. Trong một số trường hợp, các bên hoặc một số bên tranh chấp không quan tâm quan tâm đến lợi ích và sự phát triển của doanh nghiệp, mà vì lợi ích của mình một cách thái quá dẫn đến đình trệ sản xuất. Các bên đều cố ý can thiệp, ngăn cản hoạt đ ộng bình thường của doanh nghiệp dưới các hình thức khác nhau, gây thiệt hại thêm cho chính họ và các bên liên quan. Tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh là điều tất yếu, vấn đề là phải có biện pháp giải quyết hợp lý những tranh chấp đó để giúp cho các chủ thể kinh doanh có được sự tin tưởng trong cơ chế điều hành, quản lý kinh tế của Nhà nước. Chính vì thế, việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phù hợp với cơ chế thị trường không chỉ là đòi hỏi bức thiết của xã hội mà còn là yêu cầu để đảm bảo thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta. 2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án 2.1. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án
  5. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam Tranh chấp kinh doanh, thương mại là một hệ quả tất yếu của quá trình vận động các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động kinh doanh, thương mại. Khi tranh chấp xảy ra, các bên cần có cơ chế giải quyết tranh chấp đ ể mở đ ường cho sự hợp tác và phát triển. Tòa án là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp như thế. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo nghĩa chung nhất có thể hiểu là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột, nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác, bảo vệ trật tự kỷ cương của xã hội. Mọi công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57, Hiến pháp 1992). Đó là quyền tự do trong lựa chọn hình thức tổ chức kinh tế, lựa chọn ngành nghề, quy mô và cả lựa chọn phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tùy vào điều kiện kinh doanh cũng như mong muốn khác nhau của các chủ thể, họ sẽ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất với mình. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì các hình thức giải quyết tranh chấp trong thương mại gồm: thương lượng, hòa giải, giải quyết tại Tr ọng tài hoặc Tòa án (Điều 317, Luật Thương mại 2005). Ở Việt Nam hiện nay, các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết bằng con đường Tòa án chiếm tỷ lệ lớn. Mặc dù giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài đã có từ khá lâu, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều cá nhân và doanh nghiệp chưa quan tâm đến cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng như sự hiện diện của Trung tâm trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại không phải là điều quá mới mẻ nhưng vẫn còn mờ nhạt và khá xa lạ trong vấn đề giải quyết tranh chấp ở môi trường kinh doanh của nước ta. Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực của Nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Ở Việt Nam, tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa kinh tế - Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân. 2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại Tòa án là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi quyền lực này lại ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc, thủ tục do luật pháp quy định để đảm bảo hiệu
  6. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam quả xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, đ ảm bảo vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý xã hội. Xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế bằng pháp luật của nhà nước ta, tòa kinh tế ra đời thực hiện chức năng xét xử các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Cũng như Tòa án nhân dân nói chung, Tòa kinh tế cũng áp dụng và tuân theo các nguyên tắc đã được pháp luật quy định trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Với mục đích giải quyết các tranh chấp nhanh chóng, có hiệu quả và hợp pháp, tạo điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia; hoạt động của Tòa kinh tế cần dựa trên các nguyên tắc, thủ tục tố tụng trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Tất cả các hoạt động trong quá trình tố tụng như khởi kiện, xét xử, ra quyết định hay bản án, …phải được thực hiện theo đúng các nguyên tắc đã được quy định. Nếu có sự vi phạm các nguyên tắc này trong quá trình thực hiện giải quyết các tranh chấp thì đều bị coi là bất hợp pháp và phải loại bỏ. Là một bộ phận của Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế phải tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan tòa án nói chung được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Bên cạnh đó, với t ư cách là một Tòa chuyên trách độc lập trong hệ thống Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên tắc riêng khi tiến hành giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quy ền của mình. Một số các nguyên tắc chung được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 như: nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án đảm bảo cho đương sự đ ược dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa; … Trên cơ sở các nguyên tắc chung này, thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại được xây dựng với nh ững đặc thù riêng của mình. Các nguyên tắc riêng mà Tòa kinh tế phải tuân thủ trong hoạt động giải quy ết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đó là: nguyên tắc tôn trọng quy ền tự đ ịnh đoạt của các đương sự; nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ; nguyên tắc hòa giải; nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng kịp thời; nguyên tắc xét xử công khai. 3.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự Trong pháp luật tố tụng, quyền tự định đoạt của đương sự biểu hiện ở khả năng khi tham gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 5, BLTTDS 2004. Theo đó, các đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đ ơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đ ương s ự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền định đoạt của đương sự đ ược thể hiện qua nội dung của một số quyền khác như: quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút
  7. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam các yêu cầu; quyền hòa giải, thương lượng; quyền đưa ra chứng cứ và chứng minh; quyền kháng cáo. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ bản nhất trong tố tụng vụ án kinh doanh thương mại. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Quyền tự do kinh doanh không có nghĩa là các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh doanh có thể làm bất cứ điều gì cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của mình; mà khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các bên đều phải tuân theo những quy tắc nhất định của pháp luật. Và khi có tranh chấp xảy ra, trình tự cũng như thủ tục giải quyết phải tuân theo pháp luật. Với nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình tố tụng, pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc lựa chọn cách giải quyết tranh chấp cho các bên, tạo ra sự chủ động của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ kinh doanh với các đối tác của mình, không ai mong muốn tranh chấp xảy ra, gây thiệt hại cho lợi ích kinh tế c ủa các bên. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, khi xảy ra tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp một cách thấu tình đạt lý nhưng vẫn đảm bảo uy tín kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến quan hệ “bạn hàng” là điều mà các bên đều mong muốn. Chính vì vậy, trong nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, quyền khởi kiện có thể coi là quan trọng nhất. Bởi lẽ, theo quy định thì Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết các tranh chấp này nếu có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của các đương sự; nếu đương sự không khởi kiện ra tòa thì tòa án không có thẩm quyền giải quyết. Có thể thấy rằng, việc tranh chấp có được đưa ra tòa án giải quyết hau không là sự lựa chọn của các chủ th ể. Trên thực tế, khi phát sinh các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thì các bên sẽ cố gắng tự giải quyết vì như vậy sẽ tiết kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí, đ ặc biệt là không ảnh hưởng đến quan hệ làm ăn cũng như uy tín của họ được bảo đảm; việc nhờ đến cơ quan luật pháp là sự lựa chọn cuối cùng nếu các bên không thống nhất được với nhau. 3.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc pháp lý cơ bản của luật pháp nước ta. Điều 52, Hiến pháp 1992 có ghi rõ mọi công dân đ ều bình đẳng trước pháp luật; còn quy định cụ thể đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế thì được ghi nhận tại Điều 22, Hiến pháp 1992. Các chủ thể khi tham gia quan hệ sản xuất kinh doanh đều được pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng. Bình đẳng trong kinh doanh nghĩa là mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, từ việc lựa chọn ngành nghề, địa điểm kinh doanh, lựa chọn hình thức kinh doanh cho đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quá trình sản xuất kinh doanh đều bình đẳng theo quy định của pháp luật. Quyền bình đẳng không chỉ thể hiện khi các bên tham gia vào quan hệ kinh doanh mà còn thể hiện khi họ tham gia vào quan hệ tố tụng tại Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng (Điều 8, BLTTDS 2004).
  8. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam Có thể nói nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng vì nó không chỉ thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi có tranh chấp xảy ra thì trước tòa án sẽ không phân biệt các bên thuộc loại hình doanh nghiệp nào, thuộc thành phần kinh tế gì; các bên đ ều có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Với nguyên tắc này, các tổ chức, các nhân sẽ yên tâm và mạnh dạn hơn trong đầu tư, sản xuất kinh doanh; từ đó khuyến khích, tạo động lực thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; góp phần không nhỏ tạo sự tăng trưởng kinh tế - xã hội. 3.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ Chứng minh và chứng cứ là yếu tố cốt lõi của pháp luật tố tụng; mọi hoạt động tố tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật được cơ thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn các vụ án, tranh chấp. Nếu trong Tố tụng hình sự, khi có tội phạm xảy ra, việc thu thập chứng c ứ thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra hoặc các cơ quan, đơn vị khác có liên quan theo quy định của pháp luật; thì trong Tố tụng dân sự nói chung và trong Tố tụng án kinh doanh thương mại nói riêng thì khi cần khởi kiện ra Tòa để giải quyết tranh chấp, các đương sự phải tự mình thu thập và cung cấp chứng cứ, chuyển gia chứng cứ, tài liệu cho Tòa kinh tế. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng mình cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp (Điều 6, BLTTDS). Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức khởi kiện, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác thì cũng có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh như đương sự. Quyền và nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ của đương sự được pháp luật quy định cụ thể và rõ ràng trong Bộ luật dân sự 2004 (Điều 58, 79, 80, 81). Trong trường hợp đương sự không cung cấp được chứng cứ hoặc không đưa ra đầy đủ chứng cứ thì đương sự phải chịu hậu quả về việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đ ủ. Cụ thể, khi giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại, Tòa án chủ yếu chỉ căn cứ vào những chứng cứ mà đương sự đưa ra; Tòa sẽ nghe các bên trình bày và xác minh chứng cứ; các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là đúng và cần thiết. Nếu các chứng cứ cung cấp chưa đầy đủ hoặc chưa chính xác, thì Tòa án sẽ yêu cầu đương sự thu thập thêm chứng cứ hoặc xác minh sự chính xác đó. Tòa án không nhất thiết phải thu thập thêm chứng cứ mà chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ khi thấy cần thiết để là rõ thên yêu cầu của các bên, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Như vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xảy ra tranh chấp, các đương sự cần tự mình thu thập đầy đủ các chứng cứ để xác nhận và chứng minh cho yêu cầu của mình, phản đối yêu cầu của người khác là có căn cứ hợp pháp.
  9. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam Việc chứng minh và cung cấp đầy đủ chứng cứ của các đương sự góp phần giúp cho hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án được nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên, trong các vụ án kinh doanh, thương mại thì các đương sự là những người tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, chính vì thế thời gian, có thể nói là một “vấn đề” của họ. Do đó, khi “vướng” vào một vụ tranh chấp, liệu các đương sự có thời gian thu thập đầy đủ các bằng chứng hay không là một điều cần quan tâm. Việc giải quyết án một cách nhanh chóng và đúng đắn là cấp thiết không chỉ đối với các đ ương sự mà còn đối với các cơ quan chức năng có liên quan. Nhận thấy rằng việc thu thập chứng cứ có thể mất nhiều thời gian, chi phí của các đương sự; đó là chưa kể đến việc có những chứng cứ mà đương sự không thể tự mình thu thập được, hoặc áp dụng mọi biện pháp để thu thập chứng cứ nhưng không có kết quả. Trong những trường hợp như vậy, đương sự phải làm đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, trong đơn phải ghi rõ vấn đề cần chứng minh, chứng cứ cần thu thập, lý do không thu thập được chứng cứ, tên cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ đó. Nguyên tắc này tạo cơ sở giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ tranh chấp, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự, cụ thể là trong tố tụng án kinh doanh, thương mại. Đây là một nguyên tắc đặc thù của tố tụng kinh doanh, thương mại, tạo điều kiện cho các đương sự tham gia trong việc bảo vệ lợi ích của chính mình trước các xâm hại. 3.4. Nguyên tắc hòa giải Trong hoạt động thương mại ngày nay, vấn đề xảy ra tranh chấp là điều không mong muốn của cả cá nhân, tổ chức tham gia kinh doanh và của cả xã hội. Việc kiện nhau ra tòa do không giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột một cách ổn thỏa s ẽ không đem lại sự thuận lợi cho quá trình hoạt động, kinh doanh của các bên, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế - xã hội. Tranh chấp gây ra sự căng thẳng, mất đoàn kết, làm giảm uy tín của các chủ thể trong môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, nguyên tắc hòa giải theo quy định của pháp luật nước ta là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật tố tụng, xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự và trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân; giúp các bên giải quyết mâu thuẫn một cách ổn thỏa; góp phần hạn chế thiệt hại không đáng có do hậu quả của các tranh chấp gây ra. Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự trong việc giải quyết vụ án. Việc các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong mọi giai đoạn tố tụng luôn đ ược Nhà nước khuyến khích; bởi vì, khi các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án không chỉ có nội dung tranh chấp mà mâu thuẫn của các đương sự cũng được giải quyết triệt để, nhanh chóng, tiết kiệm nhất và thường Nhà nước không phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế để thi hành thỏa thuận đó. Hòa giải là quy ền tố tụng c ủa đ ương sự và chỉ có đương sự mới có quyền hòa giải vì đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung nên có quyền tự mình quyết định những vấn đề của vụ tranh chấp. Do đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại là phản ánh về vấn đề lợi ích kinh tế của chủ thể kinh doanh nên hòa giải là biện pháp được ưu tiên áp dụng
  10. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam trước khi các bên tranh chấp phải nhờ tới cơ quan có thẩm quyền tài phán. Đây là nguyên tắc được xây dựng trước tiên do yêu cầu của chính đơn vị kinh doanh. Theo nguyên tắc này, khi có tranh chấp kinh doanh, thương mại xảy ra, trước hết các bên tự tiến hành hòa giải với nhau. Khi không tự hòa giải được, các bên mới yêu cầu cơ quan tòa án can thiệp. Nhưng khi đã yêu cầu cơ quan tòa án can thiệp, các đương sự vẫn có thể tiến hành hòa giải dưới sự hướng dẫn, công nhận của Tòa án. Ch ỉ khi hòa giải không thành, Tòa án mới đưa vụ việc ra xét xử. Hơn nữa, tại phiên tòa, thẩm phán cũng tạo điều kiện để cho các bên tranh chấp hòa giải được với nhau ( Điều 10, BLTTDS). Khi hòa giải, Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Ngoài ra, trong BLTTDS 2004 cũng quy đ ịnh những vụ án dân sự không được hòa giải và những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được (Điều 181, 182 BLTTDS). 3.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp không những phải đảm bảo đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng, dứt điểm, tránh dây dưa, kéo dài. Hoạt động kinh doanh, thương mại là một quá trình diễn ra liên tục với mục đích sinh lời của người tham gia kinh doanh. Đối với các chủ thể kinh doanh, dường như yếu tố thời gian có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công việc của họ; sự linh hoạt và năng động của môi trường kinh doanh không cho phép họ lãng phí thời gian. Nhưng khi những tranh chấp ngoài ý muốn phát sinh thì việc bỏ thời gian để giải quyết chúng đ ể bảo vệ lợi ích của mình là điều đương nhiên. Do đó, việc giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, nhanh chóng, kịp thời là mối quan tâm của hầu hết những người tham gia kinh doanh, đặc biệt là các đương sự trong các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời được thể hiện trong một số quy định của pháp luật. Chẳng hạn, trong tố tụng kinh doanh, thương mại quy định thời gian tố tụng ngắn hơn so với các tố tụng dân sự khác; các quy đ ịnh rút ngắn thời hi ệu, thời hạn; trong quá trình giải quyết vụ án, tòa không cần thực hiện việc chứng minh và thu thập chứng cứ; hạn chế việc giao vụ án cho tòa cấp dưới xét xử lại; hạn chế thấp nhất việc quay vòng vụ án để xét xử lại nhiều lần …Việc quy định như vậy nhằm rút ngắn thời gian cho việc giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ thể, phù hợp với tính chất của hoạt động kinh doanh. 3.6. Nguyên tắc xét xử công khai Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của hoạt động xét xử. Điều 131, Hiến pháp 1992 có ghi rõ “ Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định”. Công khai là thuộc tính quan trọng của xã hội dân chủ. Trong xã h ội dân chủ, công khai được coi là tư tưởng xuyên suốt quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, không phải vụ án nào đưa xét xử công khai cũng đ ểu đem l ại những tác động tích cực, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo đó,
  11. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam Điều 15, BLTTDS quy định “Trong trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự”. Trong kinh doanh, thương mại, bí mật kinh doanh có thể là những phát minh, sáng chế,… có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Những bí mật kinh doanh của doanh nghiệp là những điều không thể tiết lộ, không thể chia sẻ cho tất cả các doanh nghiệp khác biết; nếu không sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp, thậm chí là doanh nghiệp bị phá sản. Do đó, các cá nhân, tổ chức có thể yêu cầu Tòa án xét xử kín để cho các bí mật kinh doanh được đảm bảo. Ngoài ra, nguyên tắc này tạo điều kiện cho nhân dân có thể giám sát hoạt động của Tòa án, cơ quan điều tra; điều này sẽ làm cho các chủ thể tham gia tố tụng nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của mình; đồng thời nó mang ý nghĩa giáo dục mọi công dân trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. 2.3. Chức năng và nhiệm vụ của Tòa Kinh tế Tòa kinh tế là một tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân, được thành lập theo lập theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tòa án nhân dân ngày 28/12/1993. Tòa kinh tế được tổ chức ở hai cấp. Ở trung ương, Tòa kinh tế được thành lập trong Tòa án nhân dân tối cao; ở địa phương, Tòa kinh tế chỉ được tổ chức ở cấp tỉnh. 2.3.1. Chức năng của Tòa Kinh tế Tòa kinh tế thuộc cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án nhân dân ra đời đáp ứng yêu cầu xây dựng thiết chế tài phán kinh tế trong nền kinh tế thị trường và yêu cầu giải quyết nhiều loại tranh chấp khác nhau. Tòa kinh tế nói riêng và Tòa án nhân dân nói chung đều là cơ quan xét xử của nhà nước, nằm trong hệ thống cấu trúc, hoạt động từ nguồn kinh phí được cung cấp từ ngân sách nhà nước. Tòa kinh tế nhân danh nhà nước giải quyết các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia kinh doanh. Theo quy định của pháp luật thì Tòa kinh tế có hai chức năng cơ bản là chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại và chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp. • Chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại Đây là chức năng cơ bản của tòa án nói chung được quy định tại Điều 127, Hiến pháp năm 1992 “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo đó, pháp luật nước ta khẳng định, Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định về chức năng của Tòa án được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 4 năm 2002. Theo đó, Tòa kinh tế được gắn với chức năng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Theo BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2005, Tòa kinh tế không chỉ giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế mà còn giải quyết các tranh chấp
  12. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty, tranh chấp liên quan đến cổ phiếu, trái phiếu, tranh chấp trong hoạt động đầu tư... Phạm vi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại mở rộng hơn nhiều so với quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Tòa kinh tế dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp. Các quy định được áp dụng tuân thủ cả về mặt nội dung và mặt tố tụng đ ể đ ảm bảo tính hợp pháp và hợp lý cho quá trình xét xử. Kết thúc việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại sau các phiên tòa xét xử, Tòa kinh tế sẽ ra bản án hoặc quy ết đ ịnh đ ể gi ải quyết tranh chấp đó. Bản án hay quyết định của Tòa kinh tế có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên chủ thể có liên quan. • Chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản không chỉ là xung đột lợi ích giữa doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích tập thể của người lao động làm việc cho doanh nghiệp, hợp tác xã, đến lợi ích chung của xã hội. Phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh tế thị trường, để giải quyết hiện tượng này, cần có sự can thiệp của nhà nước để hạn chế tác động tiêu cực của nó đến môi trường hoạt động kinh doanh lành mạnh. Ngoài chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại thì Tòa kinh tế còn có chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chức năng này được được thừa nhận với sự ra đời của Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1994. Hiện nay, đ ể thực hiện ch ức năng này, Tòa kinh tế dựa vào các quy định của Luật phá sản 2004 là chủ yếu và một số quy định khác liên quan của pháp luật. 2.3.2. Nhiệm vụ của Tòa Kinh tế Điều 1, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 4 năm 2002 có quy định cụ thể về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa kinh tế nói riêng. Theo đó, “ trong phạm vi chức năng của mình, tòa án có nhiệm vụ bảo v ệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo về tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”. Ngoài ra, Tòa án nói chung có nhiệm vụ trong việc góp phần giáo dục, củng cố việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của xã hội; nâng cao ý thức đấu tranh chống các vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp cũng như các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại.
  13. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam 2.4. Thẩm quyền của Tòa kinh tế trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại Việc xác định đúng thẩm quyền của cơ quan giải quyết là điều cần thiết trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng kinh doanh, thương mại nói riêng. Khi có tranh chấp phát sinh, cần xác định rõ cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật để đảm bảo việc giải quyết được đúng đắn, chính xác và hợp pháp. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa kinh tế là quyền hạn và nghĩa vụ của Tòa kinh tế trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị hồ sơ và giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại, cũng như thi hành quyết định, bản án của Tòa kinh tế. Tòa cần phải cẩn trọng xem xét cáo trạng, yêu cầu khởi kiện hoặc nội dung kháng cáo, kháng nghị, cân nhắc thật kỹ các yêu cầu mới phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Pháp luật đã quy đ ịnh khá rõ phạm vi, giới hạn xét xử của Tòa; vì vậy khi tham gia giải quyết các tranh chấp, Tòa cần phải thực hiện đầy đủ và đúng thẩm quyền của mình, tránh trường hợp Tòa trốn tránh nhiệm vụ hay Tòa xử “quá dài tay” dẫn đến hậu quả phải hủy bản án; gây tốn kém, lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc của cả cơ quan chức năng lân người tham gia tố tụng. Đối với các vụ án mà sau khi thụ lý thì Tòa phát hiện không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa phải chuyển vụ việc đó cho tòa án có thẩm quy ền và xóa s ổ th ụ lý (Điều 37, BLTTDS 2004). Theo quy định tại BLTTDS 2004 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa kinh tế được thể hiện với các nội dung: thẩm quyền theo vụ việc; thẩm quyền theo cấp xét xử; thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn. 2.4.1. Thẩm quyền theo vụ việc Thẩm quyền theo vụ việc là việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc cơ quan nào: cơ quan quản lý cấp trên, tòa dân sự hay tòa kinh tế. Theo quy định của bộ luật dân sự có hiệu lực từ ngày 1/1/2005 thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại bao gồm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại và những yêu cầu về kinh doanh, thương mại.  Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (Điều 29, BLTTDS 2004) - Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đ ường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác. - Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
  14. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam - Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. - Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định  Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (Điều 30, BLTTDS 2004) - Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại. - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quy ết đ ịnh kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết đ ịnh kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Vi ệt Nam. - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài. - Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định 2.4.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử  Tòa án nhân dân cấp huyện Đối với những tranh chấp kinh doanh, thương mại; Tòa kinh tế có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp sau: Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa. Nếu những tranh chấp trên có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Đối với những yêu cầu về kinh doanh, thương mại; Tòa án nhân dân cấp huy ện cũng không có thẩm quyền giải quyết  Tòa án nhân dân cấp tỉnh Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm tất cả những tranh chấp kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS 2004, tr ừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Trường hợp cần thiết là những trường hợp: - Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. - Vụ án có nhiều đương sựở trên địa bàn thuộc các huyện khác nhau và xa nhau.
  15. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam - Tòa án cấp huyện chưa có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại, hoặc tuy có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại, nhưng thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi Thẩm phán mà không có Thẩm phán khác để thay thế. Cũng theo sự phân cấp, tòa án cấp tỉnh phúc thẩm những vụ án kinh doanh, thương mại mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án c ấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quyđịnh của pháp luật tố tụng. Đối với những bản án hoặc quyết định của tòa án nhân dân cấp huy ện bị kháng nghị thìỦy ban Thẩm phán của tòa án cấp tỉnh xem xét và giải quy ết theo trình t ự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.  Tòa án nhân dân tối cao - Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tiến hành phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm của tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị. - Tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quyđịnh của pháp luật tố tụng. - Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao xem xét theo trình tự giám đốc thẩm và tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp dưới 2.4.3. Thẩm quyền theo lãnh thổ Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án theo lãnh thổ được xác định là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại điều 29, BLTTDS. Tuy nhiên, Luật cũng cho phép các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đ ơn, nếu nguyên đ ơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy đ ịnh tại Điều 29 của BLTTDS. Trong trường hợp tranh chấp chỉ liên quan đến bất động sản, thì Tòa án nơi có bất động sản giải quyết. Đối với giải quyết việc kinh doanh, thương mại của Tòa án theo lãnh thổ đ ược xác định như sau: - Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là các cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là c ơ quan, t ổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài.
  16. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam - Tòa án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. - Tòa án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tàu nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có tr ụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đ ến vi ệc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc yêu cầu Trọng tài thương mại Việc Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại. 2.4.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp trong các trường hợp sau đây: - Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đ ơn giải quyết tranh chấp. - Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết tranh chấp. - Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết tranh chấp. - Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết tranh chấp. - Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất đ ộng s ản gi ải quyết. - Như vậy theo quy định tại Điều 36 của BLTTDS thì trong một số trường hợp nhất định, có nhiều Tòa án có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp kinh doanh, thương mại cụ thể và nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong các Tòa án đó. Để tránh việc có tranh chấp về thẩm quyền thì Tòa án nào thuộc một trong các Tòa có thẩm quyền mà nhận được đơn khởi kiện trước tiên của nguyên đơn, đã dự tính tiền tạm ứng án phí, có thẩm quyền thụ lý vụ án theo đúng quy định. Sau khi thụ lý tranh chấp kinh doanh, thương mại, nếu phát hiện việc giải quyết tranh chấp không thuộc thẩm quyền của mình, thì Tòa án đã thụ lý phải ra quyết định chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết, trong đó c ần nêu rõ lý do chuyển hồi sơ vụ án, đồng thời phải thông báo ngay cho nguyên đơn biết.
  17. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền thì những Tòa án có tranh chấp đó phải báo cáo ngay lên Tòa án cấp trên trực tiếp để Tòa án đó quyết đ ịnh việc giao cho Tòa án nào giải quyết tranh chấp, cụ thể như sau: - Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. - Tranh chấp về thẩm quyền giải giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết. 2.5. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Đây là các bước trong hoạt động tố tụng của Tòa án đối với việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. 2.5.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại  Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại Theo tinh thần của Hiến pháp 1992, Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khi các quyền và lợi ích bị xâm hại, các công dân đ ều có quy ền yêu cầu nhà nước bảo vệ. Một trong những phương thức yêu cầu nhà nước bảo vệ quyền đó là quyền khởi kiện. Khởi kiện là thủ tục đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. Theo Điều 161, BLTTDS, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền đ ể yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc trưng của phương thức khởi kiện này là trao cho đương sự quyền tự do hành động, xuất phát từ quyền tự đ ịnh đoạt c ủa các chủ thể khởi kiện làm cơ sở tố tụng. Với hành vi khởi kiện kịp thời, các cơ quan tố tụng sẽ có hành động can thiệp giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp c ủa đ ương s ự; các thiệt hại trong tranh chấp sẽ sớm được ngăn chặn và khắc phục; tạo các mối quan hệ tốt đẹp, cởi mở giữa các bên trong môi trường hoạt động kinh doanh. Ngoài việc các cá nhân, tổ chức có quyền tự khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; pháp luật còn cho phép một số tổ chức có quy ền khởi ki ện đ ể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng như lợi ích công cộng và lợi ích nhà nước. Tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều có văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Ví dụ, hợp đồng xây dựng chịu sự điều chỉnh của Luật xây dựng, hợp đồng bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng trong lĩnh vực hàng hải chịu sự điều chỉnh của Bộ luật hàng hải, hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tài chính, ngân hàng… Thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực này, cũng có thể được văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh, nếu không được văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh thì sẽ áp dụng quy định của Luật thương mại 2005 v ề
  18. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam thời hiệu khởi kiện, theo đó, thời hiệu khởi kiện các tranh chấp trong hoạt động thương mại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại. Để đảm bảo tính pháp lý về nội dung của đơn khởi kiện và cung cấp đầy đủ các thông tin ban đầu về các yêu cầu khởi kiện, thì đơn khởi kiện phải có đầy đ ủ các nội dung chính sau: - Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; - Tên Toà án nhận đơn khởi kiện; - Tên, địa chỉ của người khởi kiện; - Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có; - Tên, địa chỉ của người bị kiện; - Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có; - Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; - Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có; - Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp; - Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án; - Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn. Việc khởi kiện được thể hiện bằng đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gởi qua đường bưu điện. Cùng với đơn khởi kiện thì người khởi kiện phải gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ để chứng minh những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Yêu cầu này xuất phát từ nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ của pháp luật tố tụng.  Thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại Thụ lý vụ án là việc Tòa án chấp nhận đơn của người khởi kiện và ghi vào sổ thụ lý của Tòa án. Thụ lý vụ án là công việc đầu tiên của Tòa án trong quá trình tố tụng. Đây là khâu có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt ra trách nhiệm của Tòa án phải gi ải quy ết các tranh chấp trong thời hạn luật định. Cũng giống như khởi kiện, nếu không có vi ệc thụ lý của Tòa án thì không có các bước tiếp theo của hoạt động tố tụng. Khác với các vụ án hình sự, việc thụ lý vụ án được thực hiện sau khi có quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; trong vụ án kinh doanh, thương mại thì việc thụ lý vụ án được thực hiện khi có đơn kiện của đương sự, yêu cầu của cơ quan tổ chức. Khi nhận được đơn khởi kiện, tòa án nghiên cứu kỹ đơn kiện, xem xét tư cách pháp lý của người gửi đơn kiện, xác định thẩm quyền của Tòa án mình với việc giải quyết vụ án, để quyết định thụ lý hay trả lại đơn kiện. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Tòa án phải thông báo ngay cho người khởi kiện đến làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đ ược giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.
  19. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam Nếu người khởi kiện được miễn, hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì Tòa án phải thụ lý ngay vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. 2.5.2. Chuẩn bị xét xử Chuẩn bị xét xử là bước tiếp theo trong trình tự giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án. Đối với các vụ án tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì thời hạn chuẩn bị xét xử là hai tháng kể từ ngày thụ lý v ụ án. Đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử nhưng không quá một tháng. Nếu trong trường hợp trên mà phiên tòa không được mở trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính đáng thì thời h ạn chuẩn b ị xét xử được cộng thêm tối đa là một tháng nữa. Những vụ án có tính chất phức tạp là những vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau nên cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước ngoài cần phải có thời gian ủy thác cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài,….Tuy nhiên, đối với trường hợp cần phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, c ần ph ải chờ kết quả giám định kỹ thuật phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả ủy thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán ra quy ết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời hạn ba ngày (không tính ngày nghỉ), kể từ ngày thụ lý, Chánh án tòa án phải phân công một thẩm phán giải quyết vụ án. Trong quá trình giải quyết, nếu thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được, thì Chánh án phải phân công thẩm phán khác đảm nhiệm. Trường hợp đang xét xử mà không có thẩm phán dự khuyết thì vụ án được xét xử lại từ đầu. Trong thời hạn ba ngày (không tính ngày nghỉ) kể từ ngày thụ lý, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết việc thụ lý vụ án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện. Nếu muốn gia hạn, thì người được thông báo phải có đơn gửi Tòa án, nêu rõ lý do. Việc gia hạn, nếu được chấp nhận thì cũng không quá mười lăm ngày. Người được thông báo có quyền yêu cầu Tòa án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn kiện. Sau đó, Thẩm phán phụ trách cần tiến hành việc xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu để chuẩn bị cho việc xét xử, lấy lời khai của những người có liên quan. Trong công tác chuẩn bị xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại; Tòa kinh tế phải tiến hành hòa giải để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các tranh chấp. Hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với Tòa án. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án thì Tòa án tiến hành hòa
  20. Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam giải để các đương sự thỏa thuận với nau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 181, 182, BLTTDS. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, Tòa án kiên trì hòa giải, giáo dục, thuyết phục để các bên đương sự có thể hòa giải và thỏa thuận với nhau về những vấn đề tranh chấp.. Việc hòa giải rất quan trọng vì nó giúp cho vụ án sớm được giải quyết, đảm bảo sự đoàn kết, ổn định trong nội bộ chủ thể kinh doanh; tiết kiệm và hạn chế tối đa chi phí về thời gian và tiền bạc cho các bên tranh chấp. Qua hòa giải nếu các đương sự tự nguyện thỏa thuận được mọi vấn đề tranh chấp cần giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành nêu rõ n ội dung sự việc tranh chấp và những vấn đề mà các bên đương sự đã thỏa thuận. Hết thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được, hoặc chỉ thỏa thuận được một phần những vấn đề có tranh chấp thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải không thành và quyết đ ịnh đưa vụ án ra xét xử. Nội dung biên bản phải thể hiện rõ nguyện vọng của các đ ương sự tham gia hòa giải; từ đó Thẩm phán có kế hoạch hòa giải tiếp tục hay đ ưa vụ án ra xét xử. 2.5.3. Phiên tòa sơ thẩm Xét xử tại phiên tòa sơ thẩm là giai đoạn tố tụng quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định nhất; bởi vì, tại phiên tòa sơ thẩm, tòa án sẽ xem xét và giải quy ết tất c ả những vấn đề của vụ án; đồng thời, các đương sự sẽ được công khai bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án. Với những chứng cứ và tài liệu mà các đ ương sự cung cấp thì chưa đủ điều kiện cho Tòa dựa vào đó để giải quyết vụ tranh chấp, vì vậy tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử xác định lại chúng để đảm bảo tính chính xác. Tòa sẽ làm rõ thêm các tình tiết của vụ tranh chấp thông qua việc lắng nghe ý kiến trình bày của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác, xem xét các tài liệu, bằng chứng. Chỉ sau khi nghe ý kiến của người tham gia tố tụng và kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ tại phiên tòa, hội đồng xét xử mới nghị án để ra các quyết định về việc giải quyết vụ án. Thời hạn mở phiên tòa là không quá một tháng (đối với trường hợp có lý do chính đáng là hai tháng) kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thành phần c ủa hội đồng xét xử gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Xuất phát từ tính chất quan trọng đối với sự tham gia tố tụng tại phiên tòa của các chủ thể tham gia pháp luật tố tụng dân sự, BLTTDS quy định các trường hợp Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Theo đó, phiên tòa sơ thẩm có thể bị hoãn do thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án, Kiểm sát viê, người giám định, người phiên dịch hoặc do sự vắng mặt của các bên đương sự, những người tham gia t ố t ụng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2