intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Tình hình kinh tế-chính trị năm 2010

Chia sẻ: Phan Ngoc Toan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:55

86
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mặc dù giai đoạn tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế đã trôi qua nhưng ảnh hưởng của nó vẫn khá nghiêm trọng, khiến nền kinh tế toàn cầu năm qua phải trải qua nhiều biến cố. Trong năm 2010, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi chậm chạp. Năm 2010 cũng đánh dấu những diễn biến khác thường về tỷ giá của USD, EUR, JPY – những đồng tiền quan trọng trên thế giới. Khu vực đồng Euro lâm vào cuộc khủng hoảng nợ nần....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Tình hình kinh tế-chính trị năm 2010

  1. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương CHƯƠNG I: PHÂN TÍCH TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ - CHÍNH TRỊ A. Tình hình thế giới I/ Tổng quan kinh tế thế giới năm 2010 Mặc dù giai đoạn tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế đã trôi qua nhưng ảnh hưởng của nó vẫn khá nghiêm trọng, khiến nền kinh tế toàn cầu năm qua phải trải qua nhiều biến cố. Trong năm 2010, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi chậm chạp. Năm 2010 cũng đánh dấu những diễn biến khác thường về tỷ giá của USD, EUR, JPY – những đồng tiền quan trọng trên thế giới. Khu vực đồng Euro lâm vào cuộc khủng hoảng nợ nần. Có thể điểm lại những nét nổi bật của bức tranh kinh tế thế giới năm 2010 qua những mặt sau: 1/ Kinh tế phục hồi sau khủng hoảng: Năm 2010 khép lại với một loạt những biến động bất ngờ, mà trong đó nổi bật là tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng của một loạt nền kinh tế: Kinh tế toàn cầu năm 2010 có sự phục hồi sau khủng hoảng với mức tăng tr ưởng ước đạt 3,9%, trong đó các nước đang phát triển tiếp tục là nhóm có mức tăng trưởng cao nhất trong năm 2010 (7,1%) gấp hơn 2 lần so với khối các nước phát triển (2,8%). Trong bức tranh kinh tế thế giới năm 2010, Đông Á vẫn là điểm sáng khi tiếp nối năm 2009 với mức tăng trưởng cao nhất (tới 9,3%); tiếp theo sau là khu vực Nam Á và Mỹ Latinh và Caribe với mức tăng trưởng lần lượt là 8,7% và 5,7%. Khu vực cận Sahara châu Phi, Đông Âu và Trung Á cũng có sự phục hồi ở mức tăng trưởng là 4,7%. Như vậy, các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi tiếp tục dẫn dắt sự phục hồi kinh tế toàn cầu trong năm 2010. Điều này là do các nước này thu hút được luồng đầu tư quốc tế lớn và có sự gia tăng mạnh của tiêu dùng nội địa. Bên cạnh đó nhu cầu cao về nhiên liệu và hàng hóa của các nền kinh tế quy mô lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia là động lực thúc đẩy sự phục hồi sản xuất cho các nước phát triển và đóng vai trò s ức b ật thương mại cho toàn khu vực. 1
  2. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương 2/ Thương mại khởi sắc: Cùng với tốc độ tăng trưởng của GDP, thương mại toàn cầu cũng đã có nhiều biến động rất tích cực. Trong 10 tháng đầu năm 2010, thương mại toàn cầu có mức tăng trưởng khoảng 11,9%. Mặc dù xuất khẩu của thế giới đã trở lại mức bắt đầu khủng hoảng (tháng 8/2008) nhưng vẫn còn thấp hơn so với mức đỉnh trước khủng hoảng và thấp hơn khoảng 13,6% so với mức xuất khẩu thế giới trong trường hợp không có khủng hoảng xảy ra. Mặc dù khối l ượng thương mại đã tăng lên nhưng do sự giảm sút của giá cả hàng hóa nên giá tr ị thương mại hàng hóa vẫn thấp hơn 8% so với trước khủng hoảng. So với các nước phát triển, thương mại có sự phục hồi nhanh hơn ở các nước đang phát triển. Trong 10 tháng đầu năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của các nước phát triển tăng 10,4%, thấp hơn con số 15,5% của các nước đang phát triển. Tính đến cuối năm 2010, trong khi kim ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triển đã vượt 16% thời điểm trước khủng hoảng thì con số này đối với các nước phát triển vẫn thấp hơn 2%. Sự gia tăng nhanh nhu cầu từ các nước đang phát triển đã thúc đẩy phục hồi thương mại toàn cầu. Thực tế, trong nửa đầu năm 2010, 58% sự gia tăng trong xuất khẩu của thế giới là xuất phát từ sự tăng mạnh nhập khẩu từ các nước đang phát triển. 3/ Thị trường tại chính – tiền tệ phục hồi sau “ bão tố”: Hệ thống tài chính - ngân hàng thế giới từng bước phục hồi, đa số các ngân hàng châu Âu đã vượt qua đợt kiểm tra của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Kết quả kiểm tra các ngân hàng châu Âu khá tích cực (84 trên tổng số 91 ngân hàng châu Âu đã vượt qua đợt kiểm tra này) cho thấy hệ thống ngân hàng châu Âu trước khủng hoảng nợ công vẫn được duy trì khá ổn định. Nhiều ngân hàng đạt mức lợi nhuận tích cực trong những tháng đầu năm 2010 và đang trong quá trình trả lại tiền cứu trợ của chính phủ. Hệ thống tài chính tại các nền kinh tế lớn vẫn khá ổn định, làm động lực cho sự tăng trưởng trở lại của kinh tế thế giới. Thị trường chứng khoán cũng có sự tăng trưởng mạnh mẽ (các chỉ số chứng khoán của Mỹ, EU, Nhật Bản đều tăng 30% - 60% so với mức thấp nhất 2
  3. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương khi khủng hoảng nổ ra, trong đó, tăng trưởng mạnh nhất là nhóm các c ổ phiếu ngành ngân hàng - tài chính). Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường tài chính, tiền tệ thế giới vẫn biến động phức tạp, khó lường. Thị trường tài chính - tiền tệ thế giới vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất ổn. Trong 7 tháng đầu năm có khoảng 40 ngân hàng tại Mỹ đã phá sản, có những ngày có tới 4 ngân hàng đồng loạt phá sản. Tỷ giá giữa một số ngoại tệ mạnh trên thế giới biến động mạnh (đồng Euro giảm giá tới gần 20% trong vòng 2 tháng, đồng Yên Nhật lại tăng lên mức cao nhất trong vòng 15 năm qua so với đồng USD) đã tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, dòng chảy vốn và thương mại quốc tế, đe dọa sự ổn đ ịnh của hệ thống tài chính toàn cầu. Trong khi đó, nguy cơ lạm phát đang tăng tại một số nước chủ yếu do việc tăng giá năng lượng (chỉ số giá tiêu dùng tại Trung Quốc tháng 7-2010 tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất kể từ tháng 10- 2008; bên cạnh đó bong bóng thị trường bất động sản tại một số nước, như Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin cũng đang đe dọa sự ổn định và phục hồi kinh tế của các nước này nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung. II. Tình hình chính trị thế giới năm 2010 Không hơn kém gì so với tình hình kinh tế, thế giới năm 2010 vừa qua cũng đã chứng kiến đầy áp những sự kiện chính trị với những sự thay đổi l ớn, trong đó nổi bật hơn cả là: 1/ Mỹ thất bại cả về quân sự lẫn chính trị tại Áp-ga-ni-xtan. Năm 2010, mục tiêu mà Mỹ theo đuổi là loại trừ sự đe dọa của chủ nghĩa khủng bố tại Áp-ga-ni-xtan chứ không phải là xây dựng một chế độ dân chủ ở nước này. Tháng 12-2009, việc Mỹ tăng 30.000 quân, các nước NATO bổ sung khoảng 7.000 quân, nâng tổng số quân của Mỹ và NATO tại Áp-ga-ni-xtan lên tới 150.000 quân, chính là bước đi ban đầu để Mỹ thực hiện mục tiêu trên. Có thêm quân trong tay, Mỹ muốn tăng sức mạnh để chống lại những phần tử nổi dậy, bảo vệ các trung tâm mấu chốt, sau đó “chuyển giao quyền lực cho chính quyền Áp-ga-ni-xtan”. Song toan tính của Mỹ đã vấp phải sự đáp trả quyết liệt của các phần tử Ta-li-ban. Ngay từ tháng 1-2010, bất chấp các cuộc tiến công của liên quân, quân Ta-li-ban vẫn đánh chiếm trung tâm thủ đô Ca- 3
  4. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương bun, kết hợp tiến công ở nhiều khu vực, trong đó có vụ tiến công gần phủ Tổng thống Ca-dai. Trước tình hình đó, ngày 13-2, Mỹ và NATO phối hợp với quân đội Áp-ga-ni-xtan phát động Chiến dịch Ma-giát, tiến công các phần tử nổi dậy. Nhưng chiến dịch quân sự quy mô lớn này cũng không giúp Mỹ thực hiện được cái gọi là “làm cho các phần tử Ta-li-ban không còn chỗ ẩn náu”, mà còn tiếp tục làm thương vong nhiều người dân vô tội. Thế rồi, từ chỗ cứng rắn, thiên về giải pháp quân sự, Mỹ chuyển sang chiến lược “mềm” bằng cách thuyết phục Ta-li-ban đàm phán và tham gia cơ cấu quyền lực ở Ca-bun. Song rốt cuộc, chiến lược mới - chiến lược vừa đánh, vừa đàm - cũng thất bại nốt. Quốc hội Mỹ đánh giá chi phí của Mỹ có thể lên tới 65 tỷ USD cho cuộc chiến tại Áp-ga-ni-xtan trong năm 2010. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh hao tiền, tốn của của Mỹ đã bước sang năm thứ mười mà chưa thấy đâu là hồi kết. 2/ Tiến trình hòa bình Trung Đông chẳng những chưa có dấu hiệu vãn hồi, mà thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ khôn lường. Cuộc xung đột I-xra-en và Pa-le-xtin trong vòng 43 năm qua đã trở thành một kỷ lục của lịch sử đương đại. Sau nhiều năm “nói chuyện” với nhau bằng súng đạn, mãi đến năm 2000, I-xra-en và Pa-le-xtin mới nối lại các cuộc đàm phán, nhưng mỗi lần gặp nhau lại là một lần thất bại. Năm 2010, hai bên tiến hành đàm phán (sau một năm đóng băng) dưới sự bảo trợ của Mỹ, tiếp tục là một thất bại nữa. Phía I-xra-en đòi Pa-le-xtin công nhận “nhà nước Do Thái”, ủng hộ quy định tuyên thệ trung thành với nhà nước Do Thái; nối lại việc xây dựng ở Đông Giê-ru-xa-lem. Người Pa-le-xtin thì đe dọa thực hiện các biện pháp đơn phương và tuyên bố “xây dựng các khu định cư là bước đi đơn phương của I-xra-en”. Nhưng cuộc hòa đàm giữa hai bên không đạt được một kết quả đáng kể nào. Và sự việc thì có thể sẽ không dừng ở đó. Theo mạng tin Thời báo châu Á,ra ngày 28-10, nếu cuộc hòa đàm I-xra-en - Pa-le-xtin tới đây chấm dứt trong hỗn loạn, thì chính quyền B.Ô-ba-ma có thể cần một “thắng lợi ngoại giao” bằng cách can dự vào I-ran để nâng cao vị thế của mình. Đây là một nhận định không ai dám bỏ qua. Mạng tin này cũng dẫn lời ông M. In-đích, cựu quan chức cấp cao và là nhà thương thuyết của Mỹ rằng, “Nếu ông B.Ô-ba-ma thành công trong vấn đề Pa-le-xtin, nó sẽ góp phần thuyết phục I-ran rằng: theo 4
  5. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương đuổi vũ khí hạt nhân là không phù hợp với lợi ích của Tê-hê-ran. Tuy nhiên nếu thất bại, Mỹ có thể phải tiến hành cuộc chiến tranh thứ ba ở Trung Đông và lần này với I-ran”. Với những gì diễn ra như vậy, người ta hiểu vì sao Trung Đông lại dường như đang chuẩn bị cho tình huống chiến tranh. Các tiểu vương quốc Arập Thống nhất vừa khai trương căn cứ hải quân mới. Ai Cập và Arập Xê-út (theo mạng phân tích tình báo Debka File của I-xra-en) đã tiến hành tập trận chung với quy mô chưa từng có nhằm chống lại “mối đe dọa từ I-ran”. Mới đây, không quân I-xra-en tập trận trên bầu trời Hy Lạp, mô phỏng một cuộc tiến công vào I-ran, v.v. Vậy là, trong vai người bảo trợ, cũng như các lần trước, năm nay Mỹ chẳng những không vãn hồi được hòa bình Trung Đông, mà còn là tác nhân khiến cho khu vực vốn bất ổn này có thể còn bất ổn hơn, thậm chí dẫn đ ến nguy cơ khôn lường. Nói cách khác, cuộc hòa đàm I-xra-en - Pa-le-xtin bị “chết lâm sàng” ngay từ cuối tháng 9-2010 một lần nữa chứng tỏ, khả năng của Mỹ, quyền lực của Mỹ đã bị giới hạn tại khu vực này. 3/ Châu Âu trong cơn khủng hoảng nợ công Cơn bão nợ của Hy Lạp lan rộng ra khắp châu Âu. Pháp, Đức, Anh đặt trong báo động nợ, hai nước trên bờ khủng hoảng là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Ý và Ireland nghiêng ngả… Hàng loạt nền kinh tế châu lục đưa ra khẩu hiệu “thắt lưng buộc bụng”, cắt giảm mạnh chi tiêu công. Những cuộc biểu tình, đình công bùng nổ phản đối chính sách tiết kiệm của chính phủ. Bất ổn kinh tế đã trở thành bất ổn chính trị. Các nước châu Âu lún sâu vào nợ nần lại càng thêm chất chồng khó khăn, vì những tổn thất hàng triệu USD từ biểu tình, đình công, bãi công của người lao động. 4/ Động đất Haiti Trận động đất Haiti hồi tháng 1 đầu năm khiến hơn 200 nghìn người chết được ví như sóng thần Châu Á. Haiti là quốc gia nghèo nhất ở phía tây bán cầu nên trận động đất tồi tệ này khiến cuộc sống của người dân nơi đây trở nên cơ cực hơn bao giờ hết. 5/ Bán đảo Triều Tiên bên bờ vực chiến tranh 5
  6. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương Theo đánh giá của giới phân tích, nhìn vào mức độ chung, căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên năm nay đã ở mức độ cao hơn hẳn, đặt ra yêu cầu cấp bách tìm giải pháp ngăn chặn để đụng độ không trở thành một cuộc xung đột đẫm máu. Quan hệ hai miền Triều Tiên được hy vọng sẽ tốt đẹp khi năm 2010 bắt đầu. Trong bài phát biểu nhân dịp năm mới, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung- bak đã làm dịu đi quan điểm cứng rắn của mình, khi tuyên bố sẵn sàng cho nỗ lực đối thoại hai bên. Về phần mình, Bình Nhưỡng cũng tái khẳng định cam kết một bán đảo phi hạt nhân. Tuy nhiên, những cam kết ấy có sức sống quá ngắn ngủi. Ngày 26/3, tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc có trọng tải 1200 tấn với 104 thủy thủ đoàn đã bị chìm ở khu vực biển phía tây bán đảo Triều Tiên, 46 thủy thủ thiệt mạng. Một tổ điều tra quốc tế do Seoul dẫn đầu đưa ra kết luận ngư lôi Triều Tiên là thủ phạm làm tàu chìm. Bình Nhưỡng phủ nhận mạnh mẽ cáo buộc này. Đáp trả vụ chìm tàu, Hàn Quốc và Mỹ áp dụng hàng loạt biện pháp chống lại Triều Tiên, điển hình là những cuộc tập trận quân sự phô trương sức mạnh, để ngăn chặn “hành động gây hấn” từ phía Bình Nhưỡng. Căng thẳng chưa được xoa dịu thì ngày 23/11, trong khi quân đội Seoul diễn tập ở gần biên giới biển tranh chấp, Triều Tiên đã nã pháo vào hòn đảo biên giới Yeonpyeong làm 4 người thiệt mạng, lực lượng Hàn Quốc sau đó đã bắn trả. Sau hơn một thập niên, quan hệ hai miền được đánh giá là ở mức tồi tệ nhất. Hàn Quốc thay thế hàng loạt quan chức quân sự cao cấp bằng các nhân vật cứng rắn hơn; tiến hành một cuộc tập trận bắn đạn thật chưa từng có ngay gần biên giới, cùng hàng loạt cuộc tập trận không quân, hải quân khác. Tổng thống Lee tuyên bố “đáp trả không nao núng” bất kỳ hành động gây hấn nào từ Triều Tiên. Còn Bình Nhưỡng cho hay không ngại ngần tiến hành “cuộc chiến tranh thần thánh” sử dụng hạt nhân nếu bị Seoul tấn công. Hơn bao giờ hết, hòa bình trở nên mong manh trên bán đảo cho dù người dân cả hai miền vẫn luôn nguyện cầu chiến tranh sẽ không xảy ra. Ngoài những vấn đề trên, năm 2010 khép lại cũng là năm đáng nhớ khi Nga và Mỹ ký Hiệp ước START mới về cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược. 6
  7. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương Đó là một sự kiện quốc tế quan trọng trong tiến trình hướng tới một thế giới phi hạt nhân. Cùng với sự kiện này, có thể nói, năm 2010 là năm quan hệ Nga - NATO đang phát ra những tín hiệu tích cực chưa từng có, đặc biệt là, lần đầu tiên trong lịch sử, hai bên đã đồng ý cùng nhau hợp tác về vấn đ ề hệ th ống tên lửa phòng thủ. Sẽ còn quá sớm để lạc quan về bước đột phá mang tính chiến lược giữa hai thực thể, song rõ ràng là cả Nga và NATO đang muốn và cần s ự hợp tác thiết thực vì lợi ích của nhau và vì lợi ích toàn c ầu. Năm 2010 còn là năm biểu hiện rõ ràng hơn về xu thế hình thành cấu trúc khu vực. Đó là, Cộng đồng các nhà nước Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê (không bao gồm Mỹ và Ca-na-đa) được thành lập vào tháng 2-2010. Ở khu vực Đông Nam Á, ASEAN đang trở thành một trong những trung tâm mới của thế giới, với mục tiêu xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. ... Như vậy, bên cạnh xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn chiếm vị trí chủ đạo của thế giới, năm 2010, thế giới còn hiện hữu nhiều bất ổn và nguy cơ bất ổn. B. Tình hình trong nước Trước những biến động lớn của thế giới, tình hình trong nước cũng đã có những biến động khá mạnh mẽ cả về mặt kinh tế lẫn chính trị - xã hội, trong đó nổi lên một số điểm đáng chú ý sau. I/ Kinh tế Nhìn lại kinh tế Việt Nam năm 2010: Dấu ấn xen lẫn những khó khăn Năm 2010 là một năm đáng nhớ đối với nền kinh tế Việt Nam, đan xen giữa những thành công trong điềi kiện khó khăn là những vấn đề bộc lộ đòi hỏi phải giải quyết. Nhìn lại một năm đầy biến động của nền kinh tế và điểm qua một số sự kiện lớn của nền kinh tế để thấy rõ hơn bức tranh này. 1/ Tốc độ tăng trưởng GDP Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III tăng lên 7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. Uớc tính GDP cả năm 2010 có thể tăng 6,7%, cao hơn nhiệm vụ kế hoạch (6,5%). Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và trong nước 7
  8. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như trên là một thành công. Với kết quả này tốc độ tăng trưởng GDP cả giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 7%/năm và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 1.160 USD. Chính kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã đạt đ ược những kết quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đ ạt 800 nghìn tỷ đồng, tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng 41% GDP. Trong đó, nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư dẫn đầu bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) bằng 22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy động tích cực hơn. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết tháng 11, cả nước thu hút được 833 dự án mới với tổng số vốn đăng ký đạt 13,3 tỷ USD, bằng 60% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ USD, tăng 9,9%. Mặc dù vốn FDI đăng ký có thấp hơn nhiều so với năm 2009 nhưng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký lại cao hơn nhiều. Đây có thể được coi là điểm sáng trong thu hút FDI năm 2010. Điều này cũng cho thấy s ự cam kết lâu dài các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam. 8
  9. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh một mặt thể hiện quan hệ tích lũy – tiêu dùng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhưng mặt khác lại cho thấy những hạn chế trong hiệu quả đầu tư. Nếu như năm 1997, chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2010, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 41% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 6,7%. Bên cạnh đó còn xảy ra tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo động về cả trước mắt cũng như lâu dài. 2/ Lạm phát và giá cả. Năm 2010 lạm phát có những diễn biến phức tạp. Từ đầu năm đến cuối tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức tương đối thấp, trừ hai tháng đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng bởi những tháng Tết. Tuy nhiên, lạm phát đã thực sự trở thành mối lo ngại từ tháng 9 khi CPI tăng bắt đầu xu hướng tăng cao. Đến hết tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới 9,58% và mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm dưới 8% mà Quốc hội đ ề ra sẽ không thực hiện được. 9
  10. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, sự phục hồi của nền kinh tế làm cho nhu cầu các loại hàng hóa dịch vụ đều tăng cao, cộng với thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung l ại càng làm tăng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng… Thứ hai, giá của một số mặt hàng nhập khẩu của nước ta trên thị trường thế giới tăng lên do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu làm tăng chi phí sản xuất của nhiều doanh nhiệp. Thứ ba, việc điều chỉnh tỷ giá làm đồng tiền nội tệ mất giá làm cho chi phí nhập khẩu tăng lên đẩy mặt bằng giá nhiều hàng hóa tăng theo. Bên cạnh đó những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam những năm trước vẫn còn. Đó là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt đ ộng của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua nới lỏng tín dụng cho các DNNN và tập đoàn cùng với thiếu s ự thẩm định và giám sát thận trọng cũng góp phần kích hoạt cho lạm phát trở lại. Sự điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước và sự gia tăng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại ở những tháng cuối năm 2010 s ẽ tiếp tục gây sức ép làm tăng lạm phát không chỉ những tháng cuối nă m mà có thể cả trong năm 2011. 3/ Lãi suất Năm 2010 cũng là năm đầy biến động với việc bùng nổ c ơn sốt lãi suất huy động với việc chạy đua tăng lãi suất của các ngân hàng: Trong những tháng đầu năm, lãi suất cho vay chỉ phổ biến 14 - 17%, lãi suất huy động khoảng 12%. Nhưng tính đến thời điểm cuối năm, cuộc đua lãi suất lại bùng phát tr ở lại trước áp lực lạm phát và các quy định của Thông tư 13, lãi suất huy động đã lên tới 14 - 16%, thậm chí có ngân hàng đã huy động với lãi suất lên đến 17 - 18%. Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 19 - 20%. Trước hiện trạng này, NHNN đã đồng thuận với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) về mức lãi suất huy động VND, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm. Như vậy, mặc dù đã cho phép các ngân hàng được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc chạy đua lãi suất, NHNN đã phải can thiệp bằng biện 10
  11. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương pháp hành chính. ... Năm 2010 cũng là năm thị trường vàng có những cơn sốt kinh ngạc. Mặc dù tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào vàng năm qua đạt khoảng 38%. Tuy nhiên, điều này về tổng thể không có lợi cho nền kinh tế, bởi nó không những không tạo ra việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nó còn góp phần làm méo mó dây chuyền sang các thị trường khác như USD, nhà đất và chứng khoán. Nguyên nhân của việc lãi suất tăng cao: Lạm phát cao vượt dự kiến: Lạm phát cao đã khiến người o dân không còn muốn cất giữ tiền mặt, thay vào đó đầu tư các tài sản có tính thanh khoản tốt và thường tăng theo lạm phát là USD và vàng. Vì vậy, các ngân hàng không những khó huy động vốn mà tiền tiết kiệm được rút ra để đầu tư vào các tài sản có tính an toàn cao hơn. Chính sách tiền tệ thắt chặt: Ngày 5/11, NHNN quyết định o điều chỉnh các lãi suất thêm 1%, lãi suất cơ bản lên 9%, lãi suất tái cấp vốn lên 9%, lãi suất tái chiết khấu lên 7%. Động thái này cho thấy NHNN đang sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để phòng chống lạm phát. Trong thời gian qua, NHNN cũng đã hạn chế cung tiền qua thị trường mở. Đầu tư khu vực nhà nước tăng mạnh : Năm 2010, dù lãi o suất đứng ở mức rất cao nhưng đầu tư trong nền kinh tế vẫn lên tới 43% GDP. Điều này cho thấy thực tế là lãi suất cao không làm giảm tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế. Nguyên nhân là do đầu tư khu vực nhà nước tăng lên r ất mạnh và đã kéo mặt bằng lãi suất lên cao. Sức ép từ Thông tư 13: Thông tư 13 yêu cầu nâng hệ số an o toàn vốn tối thiểu CAR từ 8% lên 9% và quy định số tiền cho vay không quá 80% huy động được. Trước khi có quy định hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều có hệ số CAR chưa đạt đến 9% và dư nợ cho vay lớn hơn vốn huy động. Ngoài ra, quy định tại Thông tư 13 còn nâng hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán từ 100% lên 250%. Do vậy, các ngân hàng đã phải hạn chế cho vay và tăng cường huy động vốn để đáp ứng 11
  12. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương được quy định trên. Đây là một nguyên nhân khá quan trọng đ ẩy nhu c ầu huy động vốn lên cao và buộc các ngân hàng phải hạn chế cho vay. 12
  13. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương 4/Tỷ giá Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2010 là khá phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2 và tháng 10, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, t ỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD. Những bất ổn về tỷ giá nói trên có nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ mô đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư công thấp… làm cho cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng đầu cơ và tâm lý cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị tr ường tiền t ệ, đòi h ỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ. 13
  14. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương 5/Tỷ lệ thất nghiệp Tại cuộc họp báo ngày 31/12, Tổng cục thống kê cho biết, lực lượng lao động trong độ tuổi của nước ta năm 2010 khoảng 46,21 triệu người, tăng 2,12% so với năm 2009. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 là 2,88%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị năm 2010 là 4,43%, giảm 0,17%, tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn là 2,27%, tăng 0,02% so với năm ngoái. Bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 4,5%, giảm 1,11% so với 2009. Trong đó, khu vực thành thị là 2,04%, giảm 1,29%, khu vực nông thôn là 5,47%, giảm 1,04% so với 2009. Cũng theo Tổng cục thống kê, tỷ lệ dân số cả nước từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động tăng từ 76,5% lên 77,3% năm 2010. Trong đó, tỷ lệ lao động khu vực nông - lâm - thủy sản giảm từ 51,9% năm 2009 xuống 48,2% năm 2010. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 21,6% lên 22,4%. Khu vực dịch vụ tăng từ 26,5% lên 29,4%. 6/ Xuất nhập khẩu. Năm 2010, xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam có nhịp độ tăng trưởng đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế của những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU… vẫn phục hồi chậm chạp. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước đạt khoảng 70,8 tỷ USD, tăng 24,9% so với năm 2009. Xuất khẩu tăng là do sự đóng góp lớn của những mặt hàng công nghiệp chế biến cộng với sự phục hồi của kinh tế thế giới làm cho xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản được lợi về giá. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu đã bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, dệt may, da giầy… Hơn nữa, các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau đ ể hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 82,6 tỷ USD, tăng 19,8% so với năm 2009. Nguyên nhân chính của sự gia tăng nhập khẩu là do kinh tế có 14
  15. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương sự phục hồi làm gia tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất (chiếm khoảng 80% cơ cấu nhập khẩu). Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều tăng, nhưng do tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu năm 2010 giảm xuống chỉ còn khoảng 11,8 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, so với những năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết. Song mức nhập siêu vẫn còn cao cho thấy việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm. 7/ Cán cân thanh toán. Nếu như năm 2009, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 8,8 tỷ USD, thì năm 2010 đã có sự cải thiện đáng kể. Phần thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai năm 2010 trên thực tế có thể được bù đắp hoàn toàn bởi thặng dư trong cán cân tài khoản vốn. Tuy nhiên, dự báo cán cân thanh toán năm 2010 vẫn thâm hụt khoảng trên 2 tỷ USD do phần “lỗi và sai sót” trong cán cân tài khoản vốn gây ra. Thực tế, tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại hối và việc giá vàng liên tục leo thang khiến doanh nghiệp và người dân găm giữ đô la và vàng. Như vậy, việc bố trí lại danh mục đầu tư của doanh nghiệp và người dân sang các loại tài sản bằng ngoại tệ và vàng sẽ tiếp tục gây ra vấn đề “lỗi và sai sót” và thâm hụt trong cán cân thanh toán trong năm 2010. Bên cạnh đó, mặc dù cán cân thanh toán được cải thiện trong năm 2010, lượng dự trữ ngoại hối vẫn không tăng một mặt do Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường để giữ ổn định tỷ giá, mặt khác có một lượng ngoại tệ lớn đang lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng. 8/ Thu chi ngân sách Nhà nước Năm 2010, tình hình kinh tế trong nước chuyển biến tích cực đã tạo điều kiện để tăng thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước năm 2010 ước đạt 520.100 tỷ đồng, vượt 12,7% so với dự toán, tăng 17,6% so với năm 2009, và đạt tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước là 26,7%. Mặc dù tỷ trọng thu nội địa có tăng nhưng chiếm tỷ trọng không lớn (khoảng 60%). Việc chấp hành kỷ luật ngân sách không nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế 15
  16. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương nội địa và thuế xuất nhập khẩu còn lớn. Số nợ thuế chờ xử lý (chiếm hơn 20% tổng số nợ thuế) tăng khá nhiều. Đây là dư địa quan trọng để tăng thu ngân sách và giữ kỷ cương luật pháp về ngân sách nhà nước. Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán và tăng 9% so với thực hiện năm 2009. Bội chi ngân sách năm 2010 ước khoảng 117.100 tỷ đồng, bằng khoảng 5,95% GDP, giảm so với năm 2009 (6,9%) và cũng giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm. Tuy nhiên, bội chi ngân sách vẫn còn cao (chưa về mức dưới 5% như đã duy trì trong nhiều năm) và là một trong những nhân tố góp phần làm gia tăng lạm phát. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách. II. Tình hình chính trị - xã hội . Trước những biến động của nền kinh tế, tình hình chính trị - xã hội nước ta trong năm 2010 vừa qua cũng đã có những biến động lớn. 1- Tổ chức thành công Đại hội (ĐH) đảng bộ các cấp, tiến tới ĐH toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Đây là đợt sinh hoạt chính trị hết sức quan trọng nhằm tổng kết toàn diện quá trình phát triển của đất nước, các bộ, ngành, đoàn thể TƯ và địa phương nhiệm kỳ qua và xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển giai đoạn 2011-2015, kiện toàn nhân sự đảng bộ các cấp trong nhiệm kỳ mới. Tại Hà Nội, cùng với ĐH lần thứ XV Đảng bộ TP, 2.942 chi bộ, đảng bộ cơ sở; 55 đảng bộ quận, huyện, thị xã và các đảng bộ trực thuộc tổ chức thành công ĐH, bảo đảm đúng tiến độ, đạt kết quả theo tinh thần đổi mới. Đặc biệt, tại nhiều ĐH Đảng bộ các cấp lần đầu tiên đã tiến hành bầu trực tiếp Ban Thường vụ và Bí thư cấp ủy. 2- Việt Nam hoàn thành xuất sắc Nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN. Với tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo, có trách nhiệm, trong vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã chủ trì thành công hơn 100 hội nghị và sự kiện chính trị quan trọng của ASEAN, hoàn thành tốt mục tiêu của Hiệp hội. Trong đó có Hội 16
  17. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương nghị cấp cao ASEAN, lần đầu tiên có Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMMT) tạo ấn tượng sâu sắc. Qua nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN, Việt Nam vừa góp phần nâng cao vị thế trên trường quốc tế, vừa tăng cường đoàn kết nội khối và các đối tác chủ yếu, thúc đẩy tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN và nâng cao vị thế của ASEAN ở châu lục và thế giới. 3- Tổ chức thành công nhiều lễ kỷ niệm trọng đại của Thủ đô và đ ất nước. Ngoài sự kiện nghìn năm có một là Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, với cuộc diễu binh, diễu hành lớn nhất từ trước đến nay có khoảng 3 vạn người tham gia; kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 65 năm Ngày thành lập nước, 120 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 35 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước... 4- Tổng kết 4 năm Cuộc vận động (CVĐ) "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Qua 4 năm thực hiện, CVĐ đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động trong vi ệc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; xuất hiện ngày càng nhiều điển hình tập thể, cá nhân tiên tiến trong học và làm theo tấm gương của Bác. 5- Tổng kết 15 năm thực hiện CVĐ: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư (KDC)" và 10 năm "Ngày vì người nghèo". Trong 15 năm (1995-2010), đã có hơn 98% KDC trên cả nước (104/106 nghìn) tích cực hưởng ứng tham gia cuộc vận động này. Đã có trên 61,4% KDC (65 nghìn) được công nhận danh hiệu tiên tiến; hơn 50% KDC (53 nghìn) được công nhận là KDC văn hóa và gần 70% (15/22,6 triệu hộ) số hộ dân được công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa. 6- Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ VIII tổng kết 5 năm thực hiện phong trào thi đua yêu nước 2006-2010 và đề ra nhiệm vụ, giải pháp c ủa phong trào 5 năm tới 2011-2015. Với 1.500 đại biểu tham dự, đây là một trong những đại hội thi đua yêu nước có nhiều đại biểu tham dự nhất và cũng là lần đầu tiên có các tấm gương điển hình tiên tiến trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng được tham dự. Các đại biểu đã có nhiều hoạt động giao lưu sôi nổi. 7- Hoàn thành chương trình cải cách hành chính (CCHC) nhà nước giai đoạn 2001-2010. Sau 10 năm thực hiện CCHC trên bốn nội dung: cải cách thể 17
  18. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách nền tài chính công, đã đạt kết quả bước đầu rất quan trọng. Đây cũng là năm hoàn thành Đề án 30 của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) nhà nước giai đoạn 2007-2010. Kết quả, đã có trên 5.500 TTHC được rà soát, có 453 TTHC được kiến nghị bãi bỏ, hủy bỏ; có 3.749 TTHC được kiến nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp, ước tính kinh phí tiết kiệm được gần 30.000 tỷ đồng/năm. 8- Liên hợp quốc ghi nhận Việt Nam đi đầu trong thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG). Tại Hội nghị cấp cao Liên hợp quốc kiểm điểm 10 năm thực hiện MDG ở New York tháng 9-2010, Việt Nam được đánh giá là một điển hình, hoàn thành sớm 5/8 MDG và về cơ bản có thể hoàn thành hết các mục tiêu vào năm 2015. Hai mục tiêu được thực hiện thành công nhất là xóa đói giảm nghèo và phổ cập giáo dục. 9- Mưa lớn, lũ lụt chưa từng có trong hơn 100 năm qua ở miền Trung . Lũ lụt dồn dập, kéo dài trong các tháng 10 và 11 tàn phá nhiều tỉnh miền Trung, gây thiệt hại lớn về người và của, làm 198 người chết, 35 người mất tích, 197 người bị thương, gây thiệt hại về vật chất trên 13.500 tỷ đồng. Trong thời gian này, đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, UB MTTQ các cấp, cùng với các cấp, các ngành, đ ịa phương… quyên góp của cải vật chất, lương thực, thuốc mem cứu trợ kịp thời cho nhân dân vùng lũ vượt qua khó khăn. 10- Dịch sốt xuất huyết bùng phát. Năm 2010 là năm dịch sốt xuất huyết (SXH) diễn biến phức tạp với hơn 120.000 trường hợp mắc, trong đó 84 ca t ử vong. So với năm 2009, số mắc tăng 31%. Đáng lưu ý, tại các cơ sở y tế đã ghi nhận nhiều bệnh nhân bị xuất huyết nặng, nên tỷ lệ tử vong cũng gia tăng (50% bệnh nhân người lớn bị ở thể nặng). Ngoài loại virus Dengue gây SXH thường gặp lâu nay, trong năm còn có sự quay trở lại của chủng loại virus Chikungunya (ghi nhận ca bệnh đầu tiên ở TP.Hồ Chí Minh). Đây là loại virus đã từng xuất hiện ở Việt Nam hơn 40 năm về trước. Mặc dù virus Chikungunya không nguy hiểm như virus Dengue, nhưng lại có nhiều triệu chứng nặng. 18
  19. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương C. Biến động thị trường chứng khoán năm 2010 I. Thế giới 1/ Thị trường chứng khoán Cũng tương tự như thị trường tiền tệ thế giới, trong năm qua, quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu, diễn biến kinh tế của các quốc gia đầu tàu, động thái điều hành CSTT của NHTW các nước, những chuyển biến trong vấn đề giải quyết nợ công ở châu Âu là những nhân tố chính dẫn dắt sự vận động của TTCK thế giới, khiến cho diễn biến trên TTCK thế giới diễn ra không được “trơn tru” theo một xu thế nào, mặc dù tính chung các chỉ số chứng khoán chính vẫn tăng điểm. Thị trường cũng có lúc thăng hoa qua ba đợt lập đỉnh trong năm (trong tháng 4, tháng 11 và tháng 12). Tuy nhiên, nếu so sánh với thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng thì nỗ lực vượt qua khó khăn của hầu hết các TTCK vẫn chưa trở về trạng thái của đầu năm 2008. Riêng trong 6 tháng đầu năm, trên các sàn giao dịch chứng khoán quốc tế, giá cổ phiếu và các chỉ số thị trường đã phải gánh chịu hai đ ợt suy giảm mạnh mẽ mà nguyên nhân chính xuất phát từ cuộc khủng hoảng nợ công từ Hy Lạp. Xét về mức độ, cả hai đợt suy giảm này đều được đánh giá là rất nặng nề kể từ tháng 2/2009 và phản ứng của thị trường có phần thái quá. Trong đó, đợt suy giảm thứ 2 diễn ra nghiêm trọng hơn do những biến động xấu đi nhanh chóng của cuộc khủng hoảng ở Hy Lạp có nguy cơ lan rộng ra các nước châu Âu khác, lo ngại về thâm hụt ngân sách ở các quốc gia lớn, động thái sẵn sàng thắt chặt CSTT ở nhiều quốc gia, đạo luật cải cách tài chính ở Mỹ, xu hướng lãi suất cho vay tăng cao trên thế giới… Kết thúc năm (29/12/2010), các chỉ số chứng khoán đều chốt với điểm số cao so với phiên cuối năm 2009, DowJones tăng 11% (1147.49 điểm) lên 11575.54, S&P500 tăng 13% (143.41 điểm) lên 1115.10, Nasdaq tăng 17% (393.73 điểm) lên 2662.88, FTSE100 tăng 9% (508.6 điểm) lên 6008.9, Hangseng 19
  20. Bài tập nhóm TCDN 2 Lê Thị Mỹ Phương tăng nhẹ 3% (749.23 điểm) lên 22621.73 và ngược lại Nikkei 225 lại giảm nhẹ 2% (253.81 điểm) còn 10292.63 điểm. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2