intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài tốt nghiệp cử nhân hệ VLVH: Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân loét dạ dày tá tràng tại bệnh viện E năm 2014

Chia sẻ: An Nhiên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:58

286
lượt xem
68
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này được nghiên cứu nhằm 2 mục tiêu: Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân loét dạ dày- tá tràng được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện E năm 2014; mô tả một số yếu tố liên quan về nhân khẩu học đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân loét dạ dày tá tràng được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện E năm 2014.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài tốt nghiệp cử nhân hệ VLVH: Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân loét dạ dày tá tràng tại bệnh viện E năm 2014

ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> <br /> Loét dạ dày- tá tràng (LDDTT) là bệnh khá phổ biến và thường gặp trên thế<br /> giới cũng như ở Việt Nam. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), số<br /> người mắc bệnh LDDTT chiếm khoảng 5-10% dân số [6]. Ở Việt Nam, số người<br /> mắc bệnh này chiếm tỷ lệ 5-7% dân số cả nước, trong đó 26-30% bệnh nhân vào<br /> viện vì LDDTT [3],[4]<br /> LDDTT là bệnh mạn tính, diễn biến kéo dài, dễ tái phát và thường gây ra một số<br /> biến chứng nguy hiểm: xuất huyết tiêu hóa, hẹp môn vị, thủng ổ loét…[2],[3],[6].<br /> Quan điểm về sinh bệnh học của LDDTT là do mất cân bằng giữa các yếu tố<br /> tấn công và các yếu tố bảo vệ niêm mạc dạ dày, với vai trò gây bệnh của rất nhiều<br /> nguyên nhân khác nhau như rượu, thuốc lá, yếu tố thần kinh, thuốc kháng viêm<br /> không steroid, corticoid..., đặc biệt do nhiễm vi khuẩn Helicobacter Pylori (HP) [3],<br /> [4], [6]. Vi khuẩn này hiện đang được coi là nguyên nhân số một gây LDDTT [3].<br /> Hiện nay, mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong điều trị, nhưng loét dạ dày tá<br /> tràng đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống của người bệnh. Đã có<br /> nhiều nghiên cứu trước đây về bệnh LDDTT, nhưng chủ yếu tập trung vào dịch tễ<br /> học, chẩn đoán, điều trị hay kiến thức của bệnh nhân về bệnh, nhưng nghiên cứu về<br /> chất lượng cuộc sống của bệnh nhân LDDTT còn hạn chế, đặc biệt tại bệnh viện E<br /> chưa có nghiên cứu nào về chất lượng cuộc sống người bệnh loét dạ dày, vì vậy<br /> chúng tôi làm nghiên cứu: Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân<br /> LDDTT tại bệnh viện E năm 2014, nhằm 2 mục tiêu:<br /> 1. Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân loét dạ dày- tá tràng được<br /> chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện E năm 2014<br /> 2. Mô tả một số yếu tố liên quan về nhân khẩu học đến chất lượng cuộc sống của<br /> bệnh nhân loét dạ dày tá tràng được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện E<br /> năm 2014<br /> <br /> 1<br /> <br /> CHƯƠNG 1<br /> TỔNG QUAN<br /> <br /> 1.1. Bệnh loét dạ dày tá tràng<br /> 1.1.1.Dịch tễ học loét DDTT<br /> Bệnh LDDTT khá phổ biến, theo Bommelaer G (1996) ước tính có khoảng 510% dân số toàn Thế giới bị mắc bệnh này, trong đó LTT chiếm khoảng 3/4 [2], [7].<br /> Bệnh LDDTT thường gặp ở nam nhiều hơn nữ. Ở Nhật, tỷ lệ LTT giữa nam<br /> và nữ là 2/1, và đối với LDD là 3/1. Ở Mỹ, tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ là 3/1<br /> [2]. Ở Tây Ban Nha, tỉ lệ LDD giữa nam và nữ là 6/1 [8].<br /> Tuổi hay gặp LDDTT là ở tuổi trung niên mà đỉnh cao là lứa tuổi 45-46, tuy<br /> nhiên cũng có thể gặp ở tuổi trẻ. Trong thực tế hiện nay, tỷ lệ mắc bệnh hàng năm<br /> đang có xu hướng tăng theo tuổi, với cả nam và nữ [2], [8].<br /> Ở Việt Nam số người mắc bệnh này chiếm tỷ lệ 5-7% dân số cả nước [2],<br /> [8], [9]. Ngày nay, LTT có xu hướng tăng, LTT/LDD là 2/1và đa số gặp ở nam giới<br /> [8]. Sự khác biệt giữa LDD và LTT theo bảng dưới [8]:<br /> Bảng 1.1: Sự khác biệt giữa loét dạ dày và loét tá tràng<br /> Dạ dày<br /> <br /> Tá tràng<br /> <br /> 2%<br /> <br /> 8%<br /> <br /> 0,03%<br /> <br /> 0,12%<br /> <br /> Nam /nữ<br /> <br /> 1/1<br /> <br /> 2/1<br /> <br /> Nhóm máu<br /> <br /> A<br /> <br /> O<br /> <br /> Pepsinogen I<br /> <br /> Bình thường hoặc giảm<br /> <br /> Bình thường hoặc tăng<br /> <br /> Acid dịch vị<br /> <br /> Bình thường hoặc giảm<br /> <br /> Bình thường hoặc tăng<br /> <br /> Biến chứng<br /> <br /> Ung thư<br /> <br /> Rất hiếm<br /> <br /> Tần suất bệnh<br /> Số ca mới mắc hằng năm<br /> <br /> (Nguồn: Bệnh tiêu hóa Gan-Mật, Trường Đại học Y Huế (2006) [8])<br /> 1.1.2. Định nghĩa loét DDTT<br /> Ổ loét là sự phá hủy tại niêm mạc dạ dày hoặc tá tràng, đã tổn thương qua<br /> lớp cơ niêm mạc xuống tới hạ niêm mạc hoặc sâu hơn.<br /> 2<br /> <br /> Thang Long University Library<br /> <br /> LDD là khi có ổ loét khu trú từ tâm vị đến môn vị. Loét tá tràng là khi có ổ<br /> loét dưới môn vị, ở tá tràng.<br /> Loét có thể đơn độc hoặc nhiều ổ với hình dạng kích thước khác nhau, khi<br /> điều trị có khả năng liền sẹo và sau điều trị có khả năng tái phát. Đa số ổ LDD gặp ở<br /> hang vị, bờ cong nhỏ, góc bờ cong nhỏ, còn ở thân vị, bờ cong lớn và mặt sau dạ<br /> dày ít gặp hơn [2], [5], [6], [8].<br /> 1.1.3. Lịch sử quá trình nghiên cứu về loét DDTT<br /> Bệnh LDDTT đã được biết đến từ hàng chục thế kỷ nay, bắt đầu bằng những<br /> phát hiện của Celse và Galien (thế kỷ I) qua các trường hợp tử vong do thủng<br /> LDDTT. Sau đó qua nhiều thế hệ, các nhà khoa học đã dày công nghiên cứu bệnh<br /> loét. Năm 1892 Cruveilheir (Pháp) trong công trình nghiên cứu của mình về bệnh<br /> LDD mạn tính đã mô tả ổ loét một cách khá chi tiết và cho rằng có lẽ LDD khởi đầu<br /> bằng viêm. Từ đó, bệnh loét được mang tên ông - loét Cruveilhier [2], [8]. Những<br /> khám phá vĩ đại của Páplôp về hoạt động thần kinh cao cấp và sinh lý học tiêu hóa<br /> giúp cho sự hiểu biết về bệnh loét đầy đủ hơn. Người ta không còn quan niệm bệnh<br /> LDDTT là một bệnh cục bộ, mà thay bằng quan niệm: bệnh loét DDTT là một bệnh<br /> toàn thân.<br /> Năm 1965, bằng sự phát minh ra ống soi mềm thì lịch sử bệnh loét đã có một<br /> bước ngoặt vĩ đại. Công tác khám bệnh, thăm dò chẩn đoán và điều trị thuận lợi và<br /> chính xác hơn, trên cơ sở đó người ta càng hiểu biết hơn về căn bệnh này. Đa số cho<br /> rằng: LDDTT là một bệnh mạn tính tiến triển lâu dài, hay tái phát thành chu kỳ, thường<br /> xảy ra ở người trung niên, chiếm một tỷ lệ lớn trong các bệnh đường tiêu hóa. Bệnh có<br /> thể gây ra nhiều biến chứng nặng nề: hẹp môn vị, chảy máu đường tiêu hóa, thủng ổ<br /> loét, ung thư hóa (đối với LDD)…đe dọa đến tính mạng người bệnh.<br /> Sau những phát hiện của Marshall và Warren (1983) về vai trò quan trọng<br /> của HP trong các bệnh DDTT, đặc biệt là LDDTT thì quan điểm về bệnh sinh của<br /> LDDTT đã có nhiều thay đổi[5], [6]. Hàng loạt các nghiên cứu được công bố, tuy<br /> nhiên, nghiên cứu vẫn tiếp tục được tiến hành [12]<br /> 1.1.4. Đặc điểm của loét DDTT<br /> - Loét dạ dày tá tràng cấp tính:<br /> Các nguyên nhân gây LDDTT cấp tính bao gồm:<br /> 3<br /> <br /> + Stress toàn thân nặng (bỏng, chấn thương,…), các stress thường gây ra nhiều<br /> ổ loét.<br /> + Sử dụng các thuốc chống viêm không Steroid (NSAID).<br /> + Uống nhiều rượu…<br /> Những tổn thương trong LDDTT cấp tính thường gọi là vết loét, các tổn<br /> thương này thường nhỏ và nông, ranh giới rõ nhưng không có bờ, xu hướng hay<br /> chảy máu, nền vết loét có thể có giả mạc màu trắng đục hoặc vàng nâu do hồng cầu<br /> thoái hóa nhưng cũng có khi sạch hoặc đang chảy máu [8], niêm mạc xung quanh<br /> vết loét phù nề và xung huyết mạnh [2].<br /> Các vết loét có thể gặp cả ở thực quản, dạ dày và tá tràng. Nói chung, các vết<br /> loét cấp tính thường nông nên chỉ có nội soi DDTT mới có thể chẩn đoán một cách<br /> chính xác và không bỏ sót tổn thương [9].<br /> - Loét dạ dày mạn tính:<br /> Bệnh LDDTT là mạn tính, thường chỉ là một ổ đơn độc, nhưng theo Rosai có<br /> khoảng 5% số bệnh nhân có nhiều ổ loét.<br /> + Vị trí ổ loét có thể xảy ra ở bất kỳ vị trí nào của DDTT nhưng thấy nhiều<br /> hơn ở những vùng chịu sự tác động mạnh của acid-pepsin. LDD thường ở hang vị<br /> và góc bờ cong nhỏ. Góc BCN là ranh giới giữa niêm mạc thân vị (tiết acid-pepsin)<br /> và niêm mạc hang vị (tiết nhầy). Đôi khi gặp ổ loét sát ngay lỗ môn vị, loét ở thành<br /> sau và bờ cong lớn ít gặp [8]<br /> + Kích thước ổ loét: phần lớn các tác giả đều cho rằng các tổn thương có<br /> đường kính < 0,3cm hầu hết chỉ là vết trợt, các ổ loét thực sự thường có kích thước<br /> ≥ 0,5cm. Trên 50% số ổ loét LDDTT có đường kính < 2cm, nhưng cũng có khoảng<br /> 10% loét lành tính có đường kính > 4cm.<br /> + Hình dạng ổ loét: kinh điển, các ổ loét DDTT mạn tính thường có hình tròn<br /> hoặc bầu dục, bờ ổ loét thường gọn, ranh giới rõ. Bờ ổ loét có thể hơi nhô cao,<br /> niêm mạc xung quanh phẳng hoặc hơi cao hơn các vùng khác [2], [6], [8].<br /> + Hình ảnh vi thể: đối với các ổ loét đang hoạt động, người ta thấy có 4 vùng:<br />  Ở bề mặt của thành và nền ổ loét có một lớp mỏng chất dịch rỉ giống như<br /> mủ, vi khuẩn và các mảnh mô hoại tử, đôi khi có nhiễm cả nấm.<br /> 4<br /> <br /> Thang Long University Library<br /> <br />  Lớp hoại tử dạng tơ huyết: Có nhiều tế bào viêm xâm nhiễm, chủ yếu là bạch<br /> cầu đa nhân trung tính.<br />  Lớp sâu hơn là mô hạt hoạt động.<br />  Dưới cùng là mô xơ phát triển (giàu chất tạo keo, các mạch máu thành dày,<br /> có khi thấy huyết khối, tăng sinh-thoái hóa thần kinh…).<br /> - Đặc điểm loét tá tràng [8]:<br /> Loét tá tràng xảy ra ở người lớn với mọi lứa tuổi, thường trước tuổi 60, nam<br /> gặp nhiều hơn nữ và thường có yếu tố gia đình. Trên 90% loét nằm ở mặt trước<br /> hoặc mặt sau của hành tá tràng cách môn vị 2 cm. Đôi khi 2 ổ loét đối diện gọi là<br /> “Kissing ulcers”. Trên hình ảnh nội soi, người ta chia ra loét tròn (hay gặp nhất),<br /> loét không đều, loét dọc và loét hình mặt cắt khúc dồi Ý “salami”.<br /> Sự tiết axit dạ dày thường cao bất thường, vì vậy, theo quan điểm sinh lý bệnh, loét<br /> tá tràng là do yếu tố bảo vệ không chịu được trước sự tấn công của axit HCL và Pepsin.<br /> Cường toan có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau: Sự gia tăng tế bào viền,<br /> tăng tiết gastrin, quá nhạy cảm của các thụ thể tế bào viền với các chất kích thích<br /> tiết, suy giảm các cơ chế ức chế.<br /> Trong LTT mạn, gastrin lúc đói không tăng. Sự phối hợp với một số bệnh<br /> khác thường gặp là: Bệnh phổi mạn, xơ gan, suy thận, sỏi tiết niệu, cường phó giáp,<br /> viêm tủy mạn, bệnh đa hồng cầu.<br /> Triệu chứng lâm sàng của LTT: Đau là đặc trưng của LTT thường rõ hơn<br /> LDD vì ở đây không có viêm phối hợp. Các đợt bột phát rất rõ ràng, giữa các kỳ<br /> đau thường không có triệu chứng nào cả. Đau xuất hiện 4-6 giờ sau khi ăn, hoặc đau<br /> về đêm khuya, hoặc nửa đêm về sáng. Đau kiểu đau quặn thắt nhiều hơn là đau<br /> nóng rát. Đau ở thượng vị lan ra sau lưng về phía bên phải. Cũng có 10% trường<br /> hợp không đau, được phát hiện qua nội soi hoặc do biến chứng.<br /> Chẩn đoán: Để chẩn đoán loét dạ dày- tá tràng, người ta có thể dùng phương pháp:<br /> + Nội soi dạ dày tá tràng<br /> + Chụp XQ dạ dày (hiện nay ít dùng)<br /> 1.1.5. Nguyên nhân bệnh sinh<br /> Loét DDTT do nhiều nguyên nhân gây ra:<br /> - Các yếu tố về ăn uống: ăn thất thường, ăn nhiều chất kích thích, hút thuốc lá,<br /> uống nhiều bia rượu, cà phê…[2], [5], [6], [14].<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2