intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Tư duy mới của Đảng về Kinh tế thị trường trong 20 năm đổi mới ở nước ta

Chia sẻ: Le Nam | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

562
lượt xem
218
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ, mặc dù quan niệm về tính tất yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã hình thành nhưng đến thời kỳ năm 1954- 1975 mô hình chủ nghĩa xã hội mới được xác lập trên thực tế ở miền Bắc. Đó là mô hình chủ nghĩa xã hội chịu sự chi phối của quy luật chiến tranh khi miền Bắc giữ vai trò là hậu phương lớn của miền Nam và đối với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ. Nền kinh tế chỉ hủy với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Tư duy mới của Đảng về Kinh tế thị trường trong 20 năm đổi mới ở nước ta

  1. Tiểu luận Tư duy mới của Đảng về Kinh tế thị trường trong 20 năm đổi mới ở nước ta
  2. MỤC LỤC Trang A.Mở đầu…………………………………………………….…….2 B.Nội dung………………………………………………………....4 I.Bối cảnh thế giới và trong nước khi Đảng đổi mới tư duy……………………………………………...…….4 II.Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới………………………..…………...….8 III.Những thay đổi về tư duy của Đảng ta..…………………….….11 IV.Những thành tựu của đất nước sau 20 năm đổi mới…………………………...………….……….....16 V.Phương hướng và giải pháp của Đảng về tư duy kinh tế thị trường trong những năm tiếp.......…..………………...20 C.Kết luận…………………...……………………..…………...…….26 1
  3. A. Mở Đầu Qua hơn 20 năm đổi mới Việt Nam đạt được những thành tựu như ngày hôm nay là nhờ c ó Đảng lãnh đạo và đặc biệt Đảng đã luôn luôn chủ động, sáng tạo trong đổi mới tư duy về kinh tế . Đường lối và chính sách đổi mới từ Đại hộ i VI (1986) của Đảng đã đặt cơ sở, nền tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra đường lối đổi mớ i toàn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh tế, đây là bước đột phá cho công cuộc đổi mới các lĩnh vực tiếp theo. Bước ngoặt trong đổi mớ i tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hộ i chủ nghĩa. Thành tựu nổ i bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế là Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế th ị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hộ i chủ nghĩa không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Việt Nam đang dần khẳng định vai trò của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên nước ta vẫn còn là một nước nghèo, kinh tế nông nghiệp chiế m tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tệ nạn xã hội tham ô tham nhũng vẫn tồn tạ i và phát triển. Đảng và Nhà nước đã khẳng định quyết tâm dẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, định hướng XHCN, sớm đưa nước ta ra khỏ i tình trạng nghèo 2
  4. nàn, lạc hậu, kém phát triển để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Và trong xu thế hộ i nhậ p kinh tế, Việt Nam đang trên đường phát triển công nghiệp hoá- hiện đạ i hoá đất nước. Bên cạnh việc đặt nhiệ m vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước là tiêu chí hàng đầu thì một vấn đề không kém phần quan trọng và cần thiết đó là phát triển nền kinh tế . Bở i vì khi một đất nước nghèo nàn, lạc hậu thì cũng đồng ngh ĩa với đất nước đó sẽ trở thnàh thuộc địa về kinh tế của nh ững nuớc phát triển. Vì thế , để phát triển kinh tế thì ngoài việc chúng ta cần phải phát huy và tận dụng rất nhiều ngu ồn lực như: nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học... thì Đảng ta cần có một đường lối tư duy đúng đắn để phát triển nền Kinh tế thị trường ở n ước ta. Sự thay đổ i tư duy về kinh tế th ị trường trong hơn 20 đổi mới ở n ước ta- một sự thay đổi mang tính quyết định của cả nền kinh tế và nó đã góp phần giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu, đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh tế vững mạnh. Với mong muốn học hỏi và chia sẻ nh ững hiểu biết nhỏ bé của mình về đường lối chính sách của Đảng về công cuộc đổ i mới tư duy nền kinh tế thị trường, em đã quyết định chọn đề tài : “Tư duy mới của Đảng về Kinh tế thị trường trong 20 năm đổi mới ở nước ta”. Đề tài tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích bối cảnh đẩt nước trước đổi mới, các giai đoạn phát triển tư duy của Đảng ta, khẳng đ ịnh tính đúng đắn và cần thiết của nền kinh tế th ị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đ ồng thời trình bày những thành tựu và thách thức của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 3
  5. B.Nội dung I.Bối cảnh trong nước và thế giới khi Đảng đổi mới tư duy về kinh tế thị trường. T rong tiến trình cách mạ ng dân tộ c dân ch ủ , mặ c dù quan niệ m về t ính t ấ t yế u quá đ ộ l ên ch ủ n gh ĩa x ã h ộ i đ ã hình thành nh ưng đ ế n th ờ i k ỳ n ăm 1954 - 1 975 mô hình ch ủ n gh ĩa x ã h ộ i m ớ i đượ c xác lậ p trên th ực tế ở m i ề n Bắ c. Đó là mô h ình ch ủ n gh ĩa x ã h ộ i ch ịu s ự c hi ph ố i c ủ a quy lu ậ t c hiế n tranh khi miề n Bắ c gi ữ v ai trò là h ậ u phương l ớ n c ủ a miề n Nam và đ ố i v ớ i chiế n tranh phá ho ạ i c ủ a đ ế q u ố c M ĩ. Nề n kinh t ế c h ỉ h ủ y v ớ i cơ c h ế q u ả n lý kinh tế kế h o ạ ch hóa, t ậ p trung bao c ấ p d ự a trên hình th ứ c s ở h ữu công c ộ ng về t ư liệ u s ả n xu ấ t đượ c xác lậ p ở m iề n Bắ c trong su ố t c u ộ c kháng chiế n ch ố ng M ỹ c ứu nướ c. Sau n ăm 1975 c ả n ướ c ta đi lên x ây d ựng ch ủ n gh ĩa x ã h ộ i nhưng b ức tranh mớ i v ề h iệ n tượ ng kinh t ế x ã h ộ i đ ã thay đ ổ i. 1 .B ố i c ả nh th ế g iới Những năm 70 – 80 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới và của các nước khối chủ n ghĩa xã hội có ảnh hưởng to lớn đến tình hình kinh tế Việt Nam ,thể hiện cụ thể: Xu thế hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu và xung đột. Trước tình hình đó, các quốc gia đều phả i thay đổi về tư duy, chính sách phát triển kinh tế đặc biệt là đường lối đố i ngoạ i giữa các nước với nhau. Chính vì vậy, mở c ửa và hội nhập kinh tế q uốc tế là yêu cầu bắt buộc, là đòi hỏi của chính yêu cầu phát triển đối vớ i nền kinh tế Việt Nam. Tổ ch ức “các nước công nghiệp mới” ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý 4
  6. về cách thức và giải pháp phát triển đối với nh ững nước vốn xuất phát từ nông nghiệp, có quan hệ xã hội theo kiểu giá tr ị văn hóa phương Đông. Đó là những thành công của chiến lược phát triể n: phát huy sức mạnh nội lực, th ị trường – mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Sự thất bại của công cuộc cải tổ dẫn đến sự sụp đ ổ của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là một bài học đắt giá. Đó là kết quả của con đường cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, sử dụng “liệu pháp sốc”, giải quyết không đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình cải tổ. Công cuộc cải cách kinh tế c ủa Trung Quốc – một nước xã hội chủ n ghĩa láng giềng với nh ững đặc điểm tương đồng về kinh tế - xã hội với Việt Nam – theo đ ịnh hướng th ị trường - mở cửa bắt đầ u diễn ra từ năm 1978 đã đạt được những thành tựu nổi bật. Đó chính là nhưng kinh nghiệm quý báu trong quá trình xây dựng chủ n ghĩa xã hội ở nước ta. Như vậy, bối cảnh thế giới vào những năm 70 – 80 của thế kỷ XX có nh ững ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây d ựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để đáp ứng được yêu cầu phát triển và phù hợp với xu hướng thờ i đại, chúng ta buộc phải đổi mới về tư duy, tận dụng những cơ hội do thời đại mang lại nhưng đồng thời, nh ững bài học quan trọng trong s ự thành công và thất bại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hộ i chủ nghĩa là những kinh nghiệm quý báu cho việc hoạch đ ịnh đường lố i của Đảng cộng sản Việt Nam. 2 . B ối c ảnh trong nước . Nế u như trướ c đây n ề n kinh tế kế h o ạ ch hóa trong th ờ i gian đ ầ u th ực h iệ n đ ã t ỏ r a phù h ợ p tạ o bướ c chuyể n biế n quan tr ọ ng về mặ t kinh tế - x ã h ộ i, đ ồ n g th ờ i nó thích h ợ p vớ i n ề n kinh tế th ờ i chi ế n và đóng vai tr ò q uan tr ọ ng trong việ c tạ o ra chiế n th ắ ng c ủ a c ả d ân t ộ c. Nó cho phép Đả ng và Nhà nướ c huy đ ộ ng ở m ứ c cao nh ấ t s ức ngư ờ i s ức c ủ a cho tiề n 5
  7. t uyế n thì hi ệ n nay việ c duy trì quá lâu c ơ ch ế k ế h o ạ ch hóa t ậ p trung quan l iêu bao c ấ p đ ã tr ở t hành nguyên nhân đ ẩ y n ề n kinh t ế lâm vào tình tr ạ ng k h ủ ng ho ả ng tr ầ m tr ọ ng kéo dài. T rong mộ t n ề n kinh tế t ồ n t ạ i ba lo ạ i hình kinh t ế t ự c ấ p tự t úc, n ề n k inh t ế k ế h o ạ ch hóa t ậ p trung và kinh t ế h àng hóa. Chúng ta có t h ể k hái q uát mô hình kinh t ế n ướ c ta trướ c năm 1979 là “công h ữu, k ế h o ạ ch hóa, p hi th ị trườ ng”, nhà nướ c tr ở t hành cơ quan quyề n lự c kinh tế t r ực tiế p m ọ i khâu, mọ i l ĩnh v ực c ủ a n ề n kinh t ế , t ừ s ả n xu ấ t v ậ t ch ấ t đ ế n lưu t hông, phân ph ố i s ả n ph ẩ m. Trong qu an h ệ vớ i các đơn v ị k inh tế c ơ s ở t hì n hà nướ c ch ịu trách nhiệ m c ấ p phát vậ t tư, các đơn v ị k inh t ế c h ị u trách n hiệ m s ả n xu ấ t và giao n ộ p s ả n ph ẩ m theo ch ỉ t iêu giá tr ị h iệ n vậ t mang t ính pháp lệ nh. Trong l ĩnh vự c thương nghiệ p, nhà nướ c t ổ c h ức thu mua, t ậ p trung n gu ồ n hàng và th ực hiệ n phân ph ố i s ả n ph ẩ m thông qua h ệ t h ố ng mậ u d ịch qu ố c doanh và h ợ p tác xã mua bán. Nề n kinh tế vậ n hành t heo k ế h o ạ ch pháp lệ nh mang tính hành chính n ên n hiề u quy lu ậ t kinh t ế k hách quan b ị lãng quên. Cộng thêm xuất phát điể m của nền kinh tế thấp kém lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cùng với những vấp váp và sai lầ m trong chính sách kinh tế nên đến năm 1985, kinh tế nước ta đã rơi vào khủng hoảng và vòng xoáy của lạ m phát, thể hiện trên những mặt chủ yế u sau: Kinh tế tăng trưởng thấp: Từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩ m xã hộ i tăng 50%, tức là bình quân mỗi năm trong giai đọan 1976 -1985 chỉ tăng 4,6%. Đã thế, sản xuất kinh doanh lạ i kém hiệu quả nên chi phí sản xuất cao và không ngừng tăng lên. Năm 1980, chi phí vật chất chiế m 41,95% tổ ng sản phẩm xã hội, năm 1985 tăng lên chiếm 44,1%. Do vậy, thu nhập quốc dân qua hai kế họach 5 năm tăng 38,85%, bình quân mỗi năm tăng 3,7%. 6
  8. Làm không đủ ăn và d ựa vào ngu ồn bên ngoài ngày càng lớn: Năm 1985, dân số cả nước gần 59,9 triệu người, tăng 25,7% so với năm 1975. Như vậ y, trong 10 năm, bình quân mỗ i năm dân số tăng 2,3%. Để đảm bảo đủ việc làm và thu nhập của dân cư không giả m thì ít nhất nền kinh tế phải tăng 7% mỗi năm. Nhưng thực tế nền kinh tế không đạt được mức tăng đó nên sản xuất trong nước luôn luôn không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tối thiểu. Thu nhập quốc dân chỉ bằng 80-90% nhu cầu sử dụng. Tích lũy nh ỏ bé nhưng toàn bộ qu ỹ tích lũy và một phần qu ỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. Trong những năm 1981-1985, thu vay nợ và viện trợ nước ngoài bằng ngân sách và bằng 28,9% tổng số thu trong nước. Nếu so với tổng số chi ngân sách thì bằng 18,6%. Đến năm 1985, nợ nước ngoài đã lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Tuy nguồn thu từ nước ngoài lớn như vậy nhưng ngân sách vẫn trong tình trạng thâm hụt và phả i bù đắp bằng phát hành trái phiếu. Bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6%. Tr ị giá xuất khẩu hàng năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với giá trị nhập khẩu. Tr ị giá xuất khẩu chỉ bằn g 20-40% nhập khẩu: Năm 1976 bằng 21,7%, năm 1981 bằng 19%, năm 1985 bằng 37,5%. Hầu hết các loạ i hàng hóa thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống đều phả i nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất không đảm bảo được tiêu dùng. Kể cả những mặt hàng trong nước có thế mạnh như sản xuất gạo, vải. Quan hệ kinh tế quốc tế hầu như chỉ gói gọ n với các nước xã hộ i chủ nghĩa. Sau mười năm thống nhất, việc xây dựng và phát triển kinh tế cơ bản trong bối cảnh hòa bình mà cái gì cũng thiếu nên cái gì cũng quý. Siêu lạm phát hoành hành và giá cả tăng theo cấp số nhân: Từ năm 1976, tình trạng lạm phát ngày càng trầm trọng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước ta. Năm 1985, cuộc cải cách giá - lương - tiền theo giải pháp sốc đã thất 7
  9. bại làm cho cơn sốt lạm phát tăng nhanh, hoành hành trên mọi lĩnh vực của đờ i sống kinh tế - xã hội. Giá cả leo thang từng ngày đã vô hiệu hóa tác dụng đổi tiền chỉ mới tiến hành vài tháng trước đó, làm rối loạn điều hành kinh tế vĩ mô. Giá cả không chỉ tăng trên thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh trong thị trường có tổ chức. Về cơ bản, giá cả đã tuột khỏi tầ m tay bao cấp của Nhà nước. Siêu lạm phát đạt đỉnh cao vào năm 1986, với tốc độ tăng giá cả năm lên tớ i 774,4%. Như vậy, những năm đầu thập niên 80 c ủa thế kỷ XX, nền kinh tế của nước ta đã lâm vào khủng hoảng mà đỉnh cao là năm 1986.Trước tình hình đó yêu cầu đổi mới nền kinh tế là yêu cầu sống còn, là vận mệnh của đất nước. II.Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới: 1.Tư duy của Đảng về Kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII: Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. So với thời kì trước đổi mớ i, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc. Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ ngh ĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loạ i. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất và trao đổ i hàng hoá là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển c ủa kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hộ i nô lệ, hình thành trong xã hộ i phong kiến và phát triển cao trong chủ n ghĩa Tư bản. Chủ n ghĩa Tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hoá. Do đó, kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hoá ở trình độ cao không phải là sản phẩ m riêng của chủ nghĩa Tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loạ i. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất hoá cao. 8
  10. Kinh tế thị trường còn tồn tạ i khách quan trong thờ i kì quá độ lên chủ nghĩa Xã hộ i. Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết nền kinh tế lấy cơ chế th ị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn nhân lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ đ ối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Kinh tế thị trường tồn tạ i và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trườ ng để xây dựng chủ ngh ĩa xã hội ở nước ta. Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, lỗ , lãi tự c hịu. Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo. Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo qui luật vốn có của kinh tế thị trường: qui luật giá tr ị, cung cầu, cạnh tranh, qui luật lưu thông tiền thị trường…….. Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. 2.Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đạ i hội IX đế n Đại hội X: Đảng xác định: Nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ ngh ĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “Mộ t kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo qui luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất cùa chủ nghĩa xã hội”. Nội dung cơ bản của đ ịnh hướng Xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện ở 4 tiêu chí: 9
  11. Về mục đích phát triển: mục tiêu kinh tế th ị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” giả i phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế vớ i nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giả i phóng mọ i tiềm năng trong mọ i thành phần kinh tế , trong mọi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tố i đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yế u để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hộ i ngay trong từng bước phát triển và chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giả i quyết vấn đề xã hộ i vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa đ ược thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phố i theo mức đóng góp và các nguồn lực khác. Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hộ i của nhân dân. Bảo đả m vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hộ i chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị 10
  12. trường tư bản chủ ngh ĩa vớ i kinh tế thị trường đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích c ực, hạn chế mặt tiêu cực của thị trường, bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọ i ngườ i. III.Những thay đổi về tư duy của Đảng ta . Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ ngh ĩa và kinh tế tư bản chủ nghĩa (hay kinh tế th ị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy luật của chủ nghĩa xã hộ i, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động theo các quy luật của chủ nghĩa tư bản (tất nhiên trong khi nói đến kinh tế kế hoạch chúng ta cũng đã từng nói đến hạch toán và kinh doanh xã hội chủ ngh ĩa, vận dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi lợi ích vật chất và khuyến khích vật chất là một động lực của sự phát triển). Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so vớ i trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau: Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhấ t là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồ m sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế đ ộ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hộ i chủ nghĩa phải nhanh chóng hoàn thành việc cả i tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế 11
  13. cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ ngh ĩa, đã đến quan niệ m rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phả i ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất. Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế phi xã hội chủ ngh ĩa, ngay từ đầu đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế ấ y ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải qua một quá trình dài xây dựng, đổ i mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó, vẫ n khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành phần này là động lực quan trọng của phát triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất. Từ quan niệm nhà nước phải ch ỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đố i hóa vai trò của kế hoạch, phủ nhận vai trò của th ị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng d ẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh. Từ chỗ chỉ thừa nhận mộ t hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo lao động đã đi đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu qu ả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân 12
  14. phối d ựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hộ i thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là ở chỗ phân phố i hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọ i người đến có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấ m mọi sự làm giàu mà trái lạ i khuyến khích mọ i ngườ i làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực quá đáng hai đầu. Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta cũng được đổi mới qua nhiều bước. Bước I : Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế th ị trường. Nói cơ chế thị trường là ch ỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đạ i hội VI khẳng định: “thực chấ t của cơ chế mới về qu ản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vậ n hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”. Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, không đố i lập với chủ n ghĩa xã hội. 13
  15. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế n hiều thành phầ đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hộ i chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ ngh ĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường có s ự q uản lý của Nhà nước. Gần cuối nhiệ m kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường đã từng tồ n tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản ch ủ nghĩa, nó đạ t tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận động theo các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội hay không? Câu trả lời là không. Quan điể m này cũng chính là quan điểm của Đại hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”. 14
  16. Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự q uản lý của nhà nước theo định hướng xã hộ i chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ n ghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hộ i, nâng cao đời số ng nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đạ i hội IX, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ n ghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta vớ i nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế n gày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiệ n quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự 15
  17. vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạ nh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh. Điều quan trọng hơn nữa là với chủ đề: “Tích cực và ch ủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại hộ i đã quyết định đẩ y mạnh hoạt động kinh tế đ ối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vớ i các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm th ực hiện hội nhập kinh tế qu ốc tế của nước ta. IV.Thành tựu nước ta sau 20 năm đổi m ới: 1.Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh. Thực hiện đường lối đổ i mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ i chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thờ i kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đạ i hoá. 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc th ực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung Công nghiệp hóa – Hiện đạ i hóa trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế xã hội và giả i phóng sức sản xuất. 1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm 16
  18. tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩ y mạnh Công nghiệp hóa – Hiên đại hóa đất nước. Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thờ i kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạ n này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổ ng sản phẩm trong nước 7%/năm. Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiệ n hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD/người/năm. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩ u gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đ ứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu. 2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP đạt hơn 100 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 1.168 USD. 17
  19. 2.Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiệ n đại hoá, gắn sản xuất với thị trường. Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giả m dần, năm 1988 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩ m có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩ m có giá tr ị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đạ i. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển vớ i tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. 3.Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổ i mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệ p trong kinh doanh. 18
  20. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả n ước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giớ i về chuyển giao công nghệ , giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều ngườ i dân. 4.Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế v ĩ mô c ơ bản ổn định. Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồ ng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ ch ức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực mậu d ịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)… Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mớ i rất quan trọng về kinh tế đố i ngoạ i. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2