intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Vận dụng phương pháp mô hình hóa vào dạy học phần điện học trong chương trình Vật lý trung học phổ thông

Chia sẻ: Hoàng Tuyết Thanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:83

135
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Vận dụng phương pháp mô hình hóa vào dạy học phần điện học trong chương trình Vật lý trung học phổ thông" giới thiệu đến các bạn về mô hình và phương pháp mô hình hóa nói chung, phương pháp mô hình hóa trong vật lý và dạy học vật lý, cấu trúc, nội dung phần điện học trong chương trình vật lý trung học phổ thông và nhận diện một số dạng mô hình được sử dụng trong phần điện học. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Vận dụng phương pháp mô hình hóa vào dạy học phần điện học trong chương trình Vật lý trung học phổ thông

  1. MỞ ĐẦU 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài Phương pháp mô hình hóa là một trong những phương pháp nhận thức  khoa học đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và ứng dụng từ lâu, trong rất   nhiều lĩnh vực như toán học, tin học, giáo dục, quản lí giáo dục,… Trong vật lý  và dạy học vật lý cũng vậy. Phương pháp mô hình hóa trong vật lý nói chung và  dạy học vật lý nói riêng có được đề cập trong một số giáo trình, bài giảng như:   “Các kiểu tổ  chức dạy học hiện đại trong dạy học vật lý ở  trường phổ  thông ”  của tác giả  Đỗ  Hương Trà, “Lí luận dạy học Vật lí 1” của tác giả  Phạm Hữu  Tòng, "Bài giảng Phương pháp dạy học vật lý  ở  trường THPT"  của tác giả  Phạm Kim Chung, … Tuy nhiên trong những tài liệu đó các bài viết về phương  pháp mô hình hóa chủ yếu vẫn mang tính rất khái quát và không có nhiều thông  tin. Trong cuốn “Các kiểu tổ  chức dạy học hiện đại trong dạy học vật lý  ở   trường phổ  thông” của tác giả  Đỗ  Hương Trà, phương pháp mô hình hóa trong  vật lý và dạy học vật lý có được đề  cập sâu hơn so với những tài liệu còn lại  nhưng cũng không có nội dung nào nói về việc việc vận dụng phương pháp mô  hình hóa trong từng phần kiến thức thuộc chương trình vật lý  ở  trường phổ  thông.  Ngoài ra, hầu như  chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào của  sinh viên nghiên cứu vận dụng phương pháp mô hình hóa vào trong dạy học   bằng việc vạch rõ các mô hình được sử dụng, mức độ áp dụng của phương pháp  mô hình trong một bài dạy, một tiết dạy cùng những chú ý của phương pháp mô  hình trong quá trình giảng dạy tiết học đó.  2. Tính cấp thiết của đề tài Vật lý là một môn học có tính  ứng dụng cao  trong đời sống và trong kĩ  thuật nên môn học này thường đem lại nhiều hứng thú cho HS đặc biệt cho HS  1
  2. thích tìm tòi sáng tạo. Tuy nhiên vật lý mang nhiều lý thuyết mới phức tạp. Để  học tốt môn học này người HS cần nắm chắc những kiến thức cũ và điều này  không phải HS nào cũng thực hiện được. Để  giúp HS có thể  dễ  dàng tiếp cận  với kiến thức mới và củng cố  lại những kiến thức cũ thì người GV cần có  phương pháp dạy học phù hợp. Một thực trạng đang diễn ra hiện nay là nhiều  GV vật lý phổ  thông đang đứng trước những vấn đề  về  tổ  chức dạy học đáp   ứng các yêu cầu của mục tiêu giáo dục làm chỗ  dựa cho các đổi mới một cách  thực tế  việc dạy và học vật lý. Người GV ngày nay càng có nhiều cơ  hội tiếp   cận một cách tự nhiên và dễ dàng qua nhiều con đường trực tiếp và gián tiếp với   nhiều mô hình, nhiều phương pháp dạy học khác nhau đã và đang được áp dụng  phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Với mong muốn giúp cho người GV vật  lý có thể  truyền đạt kiến thức tốt nhất cho HS thì phương pháp dạy học bằng   mô hình là một trong những sự  lựa chọn có thể  đem lại hiệu quả  cao. Mô hình  vật lí sẽ  giúp cho HS có cái nhìn trực quan, bản chất về    đối tượng đang xét   đồng thời cụ  thể  hóa đối tượng vật lý. Ngoài ra, mô hình có tính sinh động sẽ  giúp tăng sức hấp dẫn cho tiết dạy, bài dạy. Các mô hình, dù là ở  cấp độ  trừu   tượng cao hay thấp cũng đều có giá trị to lớn trong nhận thức và tư duy. Phương   pháp mô hình là một trong những phương pháp nhận thức khoa học đã được vận   dụng vào trong dạy học. Phương pháp mô hình ngày càng trở  nên quan trọng  không chỉ  trong vật lý mà còn trong các ngành xã hội và khoa học khác. Phần  điện học là một trong những phần được cho là khó khăn đối với HS. Mô hình  giúp cho GV có những bài dạy phần điện học hiệu quả  hơn so với cách dạy   truyền thống, giúp HS có hứng thú học tập hơn. Vì vậy, với mong muốn vận dụng được nhiều phương pháp dạy học khác  nhau vào giảng dạy  vật lý  nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy và học ,  chúng tôi chọn đề tài “Vận dụng phương pháp mô hình hóa vào dạy học phần   2
  3. Điện học trong chương trình Vật lý THPT” để nghiên cứu. Nhóm thực hiện đề  tài hi vọng đây sẽ  là tài liệu tham khảo hữu ích cho nhiều sinh viên ngành sư  phạm Vật lí. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục tiêu của đề tài + Nhận diện được các mô hình có thể sử dụng trong dạy học phần Điện học. + Nêu rõ được các giai đoạn, các mức độ  của việc áp dụng phương pháp   mô hình hóa trong quá trình dạy học môn Vật lý. + Thiết kế được một số giáo án Vật lý phần điện học trong chương trình  Vật lý THPT chương trình chuẩn có áp dụng các giai đoạn của phương pháp mô   hình hóa trong quá trình dạy học. + Kiểm nghiệm và đánh giá được tính khả thi của việc vận dụng phương   pháp mô hình hóa vào quá trình dạy học phần Điện học trong chương trình Vật lý   THPT. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài + Tìm hiểu về phương pháp mô hình hóa. + Tìm hiểu chương trình vật lí THPT phần Điện học. + Thiết kế một số  giáo án phần điện học chương trình chuẩn có sử dụng  phương pháp mô hình. + Kiểm nghiệm và đánh giá tính khả thi của đề tài thông qua:  Nhờ giáo viên THPT giảng dạy theo các giáo án đã thiết kế, đánh giá ban  đầu kết quả học tập ở HS.  Trao đổi với các thầy cô chuyên môn, xin ý kiến đóng góp. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Việc vận dụng phương pháp mô hình hóa trong dạy học. 3
  4. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phần điện học trong chương trình Vật lý THPT. 5. Nội dung nghiên cứu ­ Nội dung 1: Tìm hiểu về mô hình và phương pháp mô hình hóa nói  chung.  ­ Nội dung 2: Tìm hiểu về phương pháp mô hình hóa trong vật lý và dạy  học vật lý. ­ Nội dung 3:  Tìm hiểu về cấu trúc, nội dung phần điện học trongchương  trình vật lý THPT và nhận diện một số  dạng mô hình được sử  dụng trong phần   điện học. ­ Nội dung 4: Thiết kế  một số giáo án có sử  dụng phương pháp mô hình  trong phần Điện học chương trình chuẩn. ­ Nội dung 5: Kiểm nghiệm, đánh giá. 6. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp nghiên cứu lí luận: Trên cơ sở những tài liệu sưu tầm  được, chúng tôi phân tích và tổng hợp thành những nội dung cơ sở lý luận của  đề tài. ­ Phương pháp chuyên gia: Soạn phiếu hỏi ý kiến các thầy cô giáo thuộc  bộ môn vật lí trường Đại học Hùng Vương và các thầy cô  ở  trường  THPT Vũ  Thê Lang về những nội dung của đề tài quan tâm. ­ Phương pháp thực nghiệm sư phạm:  + Lựa chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng là hai lớp 11 và hai lớp 12  trường THPT Vũ Thê Lang;  + Nhờ  một số giáo viên ở  trường THPT Vũ Thê Lang giảng  dạy các giáo  án mà nhóm tác giả đã thiết kế;  + Đánh giá ban đầu hiệu quả  của việc vận dụng phương pháp mô hình  4
  5. thông qua bài kiểm tra trên lớp đối chứng và thực nghiệm. 5
  6. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Mô hình 1.1.1. Khái niệm mô hình Khái niệm mô hình được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ thông dụnghàng  ngày với những  ý nghĩa rất khác nhau. Trong các môn khoa học tự  nhiên HS  thường gặp mô hình tế  bào, mô hình động cơ  đốt trong, tức là vật chất có cấu  tạo không gian giống như vật chất mà ta cần nghiên cứu. Mô hình nguyên tử, mô  hình phân tử  lại mô tả  những vật thể  mà ta chỉ  biết được những tính chất của   chúng chứ không quan sát trực tiếp được. Trong vật lí, mô hình được định nghĩa như  sau: “Mô hình là một hệ thống  được hình dung trong óc hay được thực hiện một cách vật chất. Hệ  thống đó   phản ánh những thuộc tính bản chất của đối tượng nghiên cứu (đối tượng gốc)  hoặc tái tạo nó, vì vậy nghiên cứu mô hình sẽ cho ta những thông tin về đối tượng   gốc” [7, tr.63]. Theo định nghĩa này, cần đặc biệt chú ý đến sự khác biệt giữa mô hình với   đối tượng vật chất. Một mô hình chỉ phản ánh một số tính chất của đối tượng vật   chất. Cùng một đối tượng vật chất nhưng có thể  có thể  có nhiều mô hình khác   nhau. Theo Halbwachs: “ Những dấu hiệu bao gồm trong các hình vẽ, các giản   đồ, các kí hiệu toán học hay đơn giản hơn, những mệnh đề được thành lập bởi   các từ, những hệ  thống sẽ  được dùng để  biểu diễn cảnh huống. Với một hệ   thống các dấu hiệu như trên, chúng ta gọi là một mô hình”. Khái niệm “mô hình”, theo định nghĩa chung nhất của nó thì là một cái gì  đó (một vật thể, một phương trình...) nó cho phép thay thế  cái nguyên gốc này  bởi sự trung gian giúp cho dễ hiểu hơn đối với nhận thức. Quan hệ giữa mô hình  6
  7. với thực tế có thể hoặc là sự tương tự về hình thức bề ngoài, hoặc là sự tương  tự cái cấu trúc bị che khuất, hoặc là sự tương tự chức năng, hiệu quả. 1.1.2. Tính chất và phân loại của mô hình a. Tính chất của mô hình Vì mô hình chỉ  phản ánh một số  thuộc tính bản chất của đối tượng vật   chất nên một đối tượng có thể  có nhiều mô hình đại diện cho nó. Sau khi tham  khảo chúng tôi thấy, mô hình có những tính chất sau: * Tính tương tự vật gốc: Một hệ thống chỉ có thể được coi là mô hình của vật gốc khi có thể chuyển  được những kết quả nghiên cứu trên mô hình sang vật gốc. Nghĩa là nó có sự tương   tự giữa mô hình và vật gốc. Sự tương tự đó có thể là đồng cấu hoặc đẳng cấu. Sự tương tự có thể  về  cấu trúc, khi đó sự  tương tự  chủ  yếu  ở mối quan   hệ giữa các phần tử của hai hệ thống. Cũng có thể là sự tương tự về chức năng,   nghĩa là các phần tử tương ứng của hai hệ thống có chức năng giống nhau nhưng  cấu trúc có thể khác nhau. Sự tương tự cũng có thể giống nhau hay không giống   nhau hoàn toàn ở kết quả các quá trình trong hai hệ thống. Các phần tử thuộc hai   hệ thống này không có điểm nào giống nhau nhưng kết quả thu được trong quá   trình biến đổi toán học lại phù hợp với kết quả thu được bằng thực nghiệm. Trong dạy học vật lí, tính chất tương tự  với vật gốc của mô hình có ý  nghĩa quan trọng. Sử  dụng tính chất này khi xây dựng mô hình, HS được rèn   luyện một loạt các thao tác tư duy, được phát triển niềm tin vào mối liên hệ  có  tính khái quát, có tính quy luật của các sự  vật, hiên tượng tự    nhiên đa dạng,   phong phú. Sử dụng tính chất này còn nâng cao hiệu quả giờ học, thể hiện trước  hết  ở  tính sâu sắc, tính hệ  thống của các kiến thức vì nó tạo điều kiện cho HS  liên hệ  cái chưa biết với cái đã biết, phát hiện các mối quan hệ  giữa các hệ  7
  8. thống khác nhau  ở  các phần khác nhau của vật lí cũng như  những dấu hiệu   giống và khác nhau của chúng. * Tính đơn giản:  Thực tế khách quan vô cùng đa dạng và phong phú. Mỗi mô hình chỉ phản  ánh một thuộc tính nào đó của thực tế. Trong khi xây dựng mô hình ta phải thực  hiện các thao tác trừu tượng hóa, khái quát hóa những thao tác  ấy bao giờ  cũng  dẫn đến một sự đơn giản hóa vì ta đã tước bỏ những chi tiết thứ yếu, chỉ còn lại  những thuộc tính và những mối liên hệ  bản chất. Như  vậy, tính đơn giản của  mô hình là một tất yếu khách quan, nó mang lại hiệu quả lớn lao trong việc sử  dụng mô hình. Nhờ  tính đơn giản này của mô hình mà nhà nghiên cứu có thể  nắm chắc những vấn đề cơ bản của thực tế khách quan, khái quát hóa chúng mà  rút ra những quy luật. Nếu không dùng những mô hình đơn giản để  nghiên cứu   mà nghiên cứu ngay những hiện tượng thực tế  phức tạp thì nhiều trường hợp   quy luật bị lu mờ và nhà nghiên cứu có thể bị nhầm lẫn. * Tính trực quan:  Trước hết tính trực quan của mô hình thể  hiện  ở  chỗ  dễ  dàng nhận biết  bằng các giác quan. Ta có thể  cảm giác tri giác, trực tiếp trên mô hình, nhưng  nhiều khi không làm được việc đó trên các hiện tượng thực tế. Tính trực quan cũng thể  hiện  ở  chỗ  ta đã vật chất hóa những tính chất,  những quan hệ không thể trực tiếp tri giác được. Khái niệm trực quan còn được   mở  rộng trong trường hợp mô hình không trực tiếp diễn tả  hiện tượng thực tế  mà so sánh với một hiện tượng thực tế khác mà ta có thể tri giác bằng giác quan  được. Rõ ràng mức độ  trực giác gián tiếp còn phụ  thuộc vào vốn hiểu biết của  chính chủ thể, do chủ thể đã tích lũy được từ trước. Một số  mô hình có thể  nhận biết trực tiếp bằng trực giác. Còn những mô  hình lí tưởng giúp ta “ vật chất hóa” các tính chất, các mối quan hệ không thể tri   8
  9. giác được. Mô hình lí tưởng giúp ta tưởng tượng ra các tính chất và các mối quan  hệ này. Ý nghĩa của tính trực quan của mô hình trong dạy học thể hiện  ở chỗ, làm cho  HS dễ  hình dung các hiện tượng vật lí không thể  quan sát trực tiếp được, dễ  hiểu hơn các khái niệm trừu tượng. * Tính quy luật riêng:  Khi xây dựng mô hình, người ta  một hệ thống để mô tả đặc tính của vật   gốc. Hệ  thống này tuân theo những quy luật riêng, nhiều khi không còn giống  quy luật biến đổi của vật hoặc hệ thống vật gốc. Từ sự vận động của các quy  luật riêng có thể rút ra kết luận thì kết luận mới có khả năng chuyển tải sang hệ  thống thực. Nhờ  tính chất này mà với mô hình ta không chỉ  dừng lại  ở  sự  mô tả, tìm  hiểu các tình huống vật lí mà còn phát hiện ra những tính chất mới, cung cấp   những thông tin mới. * Tính lí tưởng:  Mô hình xuất phát từ thực tiễn, được xây dựng dựa trên thực tiễn và phản   ánh thực tiễn. Nhưng khi ta mô hình hóa một vật, một mối quan hệ nào đó ta đã   thực hiện một sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, phản ánh các thuộc tính của vật  thể   ở  mức hoàn thiện cao. Như  vậy mô hình nào cũng có tính lí tưởng ít hay   nhiều. Một mô hình vật lí chỉ phản ánh đến một mức độ nhất định, một vài mặt   của một tình huống vật lí. Mô hình có chức năng đại diện tức là phản ánh thực tiễn nhưng sau sự trừu   tượng hóa và khái quát hóa cao thì mô hình trở nên lí tưởng. Có nghĩa là không có   mô hình nào mô tả hoặc giống hệt thực tiễn ở mọi khía cạnh, bởi vì nếu mô hình  giống hệt thực tiễn thì nó không còn tính đại diện nữa và nó mất đi tính ưu việt.  Mô hình có tính lí tưởng càng cao thì càng tổng quát, càng bao trùm được   nhiều đối tượng, càng giúp ta nhận thức được những nét chung nhất của hiện   9
  10. tượng nhưng khi đưa vào thực tế gặp nhiều khó khăn vì ta phải bổ sung vào cấu   trúc chung của mô hình rất nhiều yếu tố  cụ  thể  phù hợp với các tính chất đối   tượng nghiên cứu. b. Phân loại mô hình   Dựa vào đối tượng nghiên cứu, mô hình được chia làm 2 loại: *  Mô hình vĩ mô  Mô hình vĩ mô là những mô hình có được từ  sự  đơn giản hóa các đối  tượng vĩ mô cần nghiên cứu. Những mô hình này có tác dụng giúp đơn giản hóa  vật thực để nghiên cứu các đối tượng thực nhưng chúng có mức độ  trừu tượng  thấp, không có vai trò trong việc xây dựng lí thuyết mới. * Mô hình vi mô  Mô hình vi mô là những mô hình quan niệm về  những đối tượng, những   thực thể không thể quan sát trực tiếp. Các mô hình này mức độ trừu tượng cao, chúng có tác dụng lớn trong việc   xây dựng các lí thuyết vật lí, gồm có hai loại sau: + Mô hình lượng tử: là hình ảnh về  đối tượng vi mô theo lí thuyết lượng   tử, là mô hình biểu tượng có mức độ trừu tượng cao nhất. + Mô hình toán học (mô hình kí hiệu): biểu diễn cấu trúc bằng hệ  thống  các phương trình, các đường hình học…  Dựa vào vật liệu của mô hình, có thể chia làm 3 loại: * Mô hình vật chất: là mô hình vật thể trên đó phản ánh những tác động cơ  bản về  mặt hình học, Vật lý học, động lực học, chức năng học của đối tượng   nghiên cứu. Loại mô hình này chỉ  sử  dụng  ở giai đoạn thấp của quá trình nhận   thức, khi cần hình thành những biểu tượng hoặc thu thập những kiến thức có   tính chất kinh nghiệm. 10
  11. * Mô hình lí tưởng: Là những mô hình trừu tượng trên đó về  nguyên tắc  người ta chỉ  áp dụng những thao tác tư  duy lý thuyết. Các mô hình lý thuyết có  thể có nhiều loại, tuân theo mức độ trừu tượng khác nhau, gồm có: + Mô hình kí hiệu: là hệ  thống những lý luận được dùng để  mô tả, thay   thế những sự vật, hiện tượng Vật lý thực (mô hình công thức toán, mô hình đồ  thị, mô hình logic toán,…) + Mô hình biểu tượng: là dạng trừu tượng nhất của mô hình lý tưởng,  những mô hình trừu tượng không tồn tại trong không gian, trong thực tế  mà chỉ  có trong tư duy của ta. Ta chỉ nên algorit để tạo ra mô hình rồi hình dung nó trong   óc chứ không cần làm ra mô hình cụ thể. 1.2. Phương pháp mô hình hóa Cơ sở lí thuyết của phương pháp mô hình là lí thuyết tương tự. Theo một   số tài liệu mà chúng tôi tham khảo thì sự giống nhau một phần về tính chất hay  về  các mối quan hệ  có thể  chuyển những thông tin thu thập được từ  một đối  tượng này sang một đối tượng khác. Sự suy luận tương tự chỉ mang tính chất là   giả  thuyết, là nguồn gốc tri thức mới. Những nhận thức đó chỉ  trở  thành nhận   thức khoa học khi chúng được kiểm tra và xác nhận bằng thực nghiệm. Cùng với sự phát triển chung của khoa học, vật lí học lượng tử và cơ học   tương đối dẫn đến việc phải xem xét lại các nguyên tắc khoa học luận. Trước  đây các nhà thực nghiệm đã xem hoạt động khoa học như là công việc khám phá   các định luật của tự nhiên, cũng giống như hoạt động của các nhà thám hiểm tự  nhiên phát hiện được các miền đất lạ chưa ai biết. Họ chỉ tin tưởng những gì có  thể quan sát và đo lường trực tiếp. Ngày nay với vật lí lượng tử, khi mà các định  luật của cơ học cổ  điển không còn áp dụng cho các hạt vi mô thì phương cách   nhìn thực tại theo các quan điểm duy thực và thực chứng đã bị đảo lộn. Các quan   điểm này hạn chế  khả  năng của con người tiếp tục đi sâu nhận thức thế  giới.   Một đường lối tiếp cận cái mới được gợi lên từ  câu nói sau đây của Albert   11
  12. Einstein: “ Trong nỗ  lực để  thấu hiểu vũ trụ  của chúng ta, chúng ta phần nào   giống như một người cố gắng chiêm ngưỡng cái cơ cấu của một chiếc đồng hồ  được che kín. Anh ta nhìn mặt đồng hồ, xem các kim chuyển động, nghe tiếng   tích tắc, nhưng không có cách nào mở cái hộp đựng máy ra. Nếu anh ta là một kỹ  sư, anh ta có thể  hình dung một hình  ảnh nào đó của cái chi phối tất cả  cái mà  anh ta quan sát, nhưng anh ta không bao giờ  tin chắc rằng hình  ảnh  ấy là duy  nhất có thể  giải thích được các quan sát của mình. Anh ta sẽ  không bao giờ  có   điều kiện đối chiếu hình ảnh đó với cơ cấu thực, và thậm chí anh ta cũng không  thể hình dung được khả năng hay ý nghĩa của một sự đối chiếu như thế”. Nếu dựa trên việc xây dựng mô hình lí thuyết (mô hình trong tư duy) của   đối tượng gốc và nghiên cứu trên mô hình, tức là vận hành mô hình lí thuyết   (tiến hành thí nghiệm trong tư duy bằng các thao tác lí thuyết, thao tác logic) để  rút ra câu trả lời cần có, nó có tính chất là một điều tiên đoán về đối tượng gốc   (và sẽ  kiểm tra, đối chiếu với thực nghiệm) thì phương pháp nhận thức này  được gọi là phương pháp mô hình hóa (phương pháp mô hình hóa lí thuyết hoặc  phương pháp thực nghiệm trong tư duy) 1.3. Phương pháp mô hình hóa trong vật lí Trong phương pháp mô hình, người ta dựng lại những tính chất cơ bản của  vật thể, hiện tượng, quá trình và mối quan hệ  giữa chúng dưới dạng mô hình.   Việc nghiên cứu trên mô hình sẽ  thay thế  cho việc nghiên cứu trên chính đối  tượng thực tiễn, những kết quả  nghiên cứu trên mô hình sẽ  chuyển sang cho  những đối tượng gốc cho phép ta thu được những thông tin mới về  đối tượng   gốc. 1.3.1. Vị trí, vai trò của phương pháp mô hình hóa trong vật lí Trong lịch sử vật lí, phương pháp mô hình đóng vai trò rất quan trọng trong  việc xây dựng và hoàn chỉnh các thuyết. Không có mô hình về ête vũ trụ thì trong  12
  13. bối cảnh lịch sử  khoa học thế  kỉ  19 không thể  xây dựng được lí thuyết về  các  hiện tượng điện từ. Macxoen dùng mô hình ête vũ trụ  để  xây dựng các phương  trình Macxoen. Mặc dù được xây dựng từ mô hình cơ học là ête giả định nhưng  không mang trong chúng một hệ  số   đặc trưng nào cho môi trường đó, trong  những trường hợp này mô hình là phương tiện, công cụ nhận thức tương tự như  “bộ giàn giáo” để xây dựng tòa nhà, khi xây xong thì “bộ giàn giáo” bị dỡ bỏ. Những mô hình được sử  dụng đầu tiên trong vật lí học là mô hình vĩ mô.  Từ  giữa thế  kỉ  19 xuất hiện các mô hình vi mô. Thế  kỉ  20 xuất hiện mô hình  lượng tử. Ví dụ sự phát triển của các mô hình về cấu tạo nguyên tử. Đầu tiên là  mẫu cổ điển do Thômsơn đưa ra vào năm 1906: nguyên tử gồm các electron nằm   trong một môi trường điện tích dương, electron di chuyển trong môi trường điện   tích dương hình cầu và các electron phân bố thành từng lớp. Mẫu này giải thích  được định tính một số tính chất của các nguyên tử nhưng không được thành công  lắm. Mẫu Thômsơn không giải thích được sự  tán xạ  của chùm hạt  ở  trên lá   vàng. Năm 1915, Somefod cho rằng:   electron chuyển động theo quỹ    đạo hình   elip, mô men động lượng của electron trên quỹ  đạo cũng khác nhau. Mẫu này  không giải thích được sự  tách vạch quang phổ  trong từ  trường ngoài. Đến năm  1916, ông đưa thêm vào mẫu của mình: hình chiếu của mô men từ  lên phương   của từ trường ngoài cũng được lượng tử hóa. Năm 1925, Gao Smit và Ulnibec lại   bổ sung mỗi electron có mô men quay riêng gọi là Spin. Cuối cùng là mẫu nguyên  tử theo cơ học lượng tử.  Nhờ  áp dụng phương pháp mô hình mà trong nhiều trường hợp đã làm  xuất hiện những lí thuyết mới. Chẳng hạn mô hình sóng Đơbrơi đã dẫn đến cơ  học lượng tử.  Nhờ phương pháp mô hình hóa, thu được các kết luận với tư cách là các mô  hình hệ quả logic của thuyết hoặc giả thuyết khoa học. Những hệ quả này cho phép: 13
  14.   ­ Giải thích một cách lí thuyết những sự  kiện thực tế, những định luật   thực   nghiệm   (đã  thu   được   bằng  phương  pháp  thực  nghiệm),  nhờ   đó  có   thể  khẳng định giá trị khoa học của các tri thức mới đó. ­ Đối chiếu với các bằng chứng thực nghiệm đã được khẳng định để kiểm  tra khẳng định giá trị của các thuyết, hoặc giả thuyết khoa học được dùng làm cơ  sở xuất phát cho việc xây dựng và vận hành mô hình; hoặc để xem xét chỉnh lí, bổ  sung hoặc bác bỏ  thuyết hoặc giả thuyết đã được sử  dụng để  rút ra các hệ  quả  đó. ­ Tiên đoán những sự kiện, hiện tượng thực tế, các định luật của thực tế  khách quan mà tiếp đó sẽ  được kiểm tra, hợp thức hóa nhờ  phương pháp thực   nghiệm để xây dựng được tri thức mới. Một mô hình không phải chỉ dùng để mô  tả  và giải thích các hiện tượng vật lí mà nó còn dùng để  tiên đoán những hiện   tượng mới. Không có chức năng tiên đoán này, mô hình mất đi vai trò quan trọng   của nó trong khoa học. 1.3.2. Các giai đoạn của phương pháp mô hình hóa trong vật lí Cơ sở lí thuyết của phương pháp mô hình là lí thuyết tương tự, các kết  luận rút ra từ sự tương tự có tính giả thuyết, vì vậy mô hình cũng có tính giả  thuyết. Đây là hai phương pháp cơ bản để xây dựng giả thuyết khoa học. Các giai đoạn của phương pháp mô hình: * Giai đoạn 1: Lựa chọn, xây dựng mô hình, thay thế đối tượng gốc bằng “vật   đại diện” chỉ tồn tại trong tư duy nhà nghiên cứu, chỉ có những tính chất và mối  quan hệ chính của đối tượng gốc mà nhà nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu các tính chất của đối tượng gốc bằng quan sát thực nghiệm   xác định được một tập hợp tính chất của các đối tượng làm cơ sở xây dựng mô  hình. Giai đoạn này là cơ sở để xây dựng mô hình. 14
  15.   * Giai đoạn 2:   Dựa vào kết quả  của sự  tương tự, hình dung sơ  bộ  về  đối  tượng nghiên cứu.  Ở  giai đoạn này, trí tưởng tượng và trực giác nhạy bén giữ  vai trò quan  trọng mà nhờ  chúng người ta có thể suy ra những tính chất và các mối quan hệ  của đối tượng nghiên cứu và thay thế nó bằng mô hình chỉ mang tính chất và các  mối quan hệ mà ta quan tâm.     Lúc đầu mô hình chỉ tồn tại trong óc, nó có thể trở thành mô hình thật (khi   người nghiên cứu dùng phương pháp mô hình vật chất), còn trong trường hợp  mô hình là lí tưởng người ta đem đối chiếu biểu tượng với vật thật đã biết.    * Giai đoạn 3: Thao tác trên mô hình (vận hành mô hình để rút ra kết luận với  tính cách là một hệ quả lôgic). Sau khi xây dựng mô hình, người ta áp dụng những phương pháp lý thuyết  hoặc thực nghiệm khác nhau từ tư duy trên mô hình và thu được kết quả, những   thông tin mới.     Với các mô hình vật chất, người ta làm thí nghiệm thực trên đó để kiểm  chứng hiệu quả.     Với các mô hình lí tưởng người ta tiến hành suy luận lôgic (các thao tác tư  duy lí thuyết) trên nó kết hợp chặt chẽ với logic của ngôn ngữ toán học phù hợp.  Trong quá trình mô hình vận hành (trong óc, nhờ  tưởng tượng), người ta hình  dung ra các đại lượng vật lí đặc trưng cho tính chất của mô hình (các đại lượng   vật lí lí thuyết), hình dung ra sự biến đổi của chúng khi mô hình hoạt động, hình  dung ra mối quan hệ giữa chúng (biểu diễn bằng các công thức toán học mô tả  trong các phương trình vật lí lí thuyết). Sau đó người ta hình dung kiểm chứng  chúng bằng thí nghiệm tưởng tượng thuần túy. Hệ  quả  rút ra từ suy luận và thí  nghiệm tưởng tượng phải được chuyển về  từ  đối tượng nghiên cứu để  phân  định xem mô hình có phù hợp với đối tượng hay không. Thí nghiệm tưởng tượng  tuy không có thực nhưng có thể thực hiện được và có vai trò rất lớn trong khoa   15
  16. học. Trong phương pháp mô hình lí tưởng người ta đã biết trước hành vi của mô   hình trong những điều kiện xác định. Điều người ta muốn tìm hiểu thêm là hệ  quả  của những hành vi đó như  thế  nào. Thí nghiệm tưởng tượng thực chất là  một thao tác lôgic chứ  không phải là một phương pháp nghiên cứu khách quan,  những kết quả trên mô hình phải được chuyển về đối tượng nghiên cứu xem có  phù hợp hay không. * Giai đoạn 4: Xử lí kết quả ­ Nếu bản thân mô hình là một phần tử  cấu tạo của nhận thức thì cần   phải kiểm tra sự đúng đắn của nó bằng cách đối chiếu kết quả thu được từ  mô  hình với những kết quả thu được trực tiếp bằng đối tượng gốc. Nếu sai lệch thì   phải điều chỉnh ngay chính mô hình, có trường hợp phải bỏ  hẳn mô hình đó và  thay bằng một mô hình khác. ­ Nếu bản thân mô hình không phải là đối tượng của nhận thức mà chỉ là  phương tiện để nghiên cứu thì việc xử lí kết quả, hợp thức mô hình là phải phân  tích những kết quả  thu được trên mô hình thành những thông tin về  đối tượng  nghiên cứu, nếu những thông tin  ấy không phù hợp cũng phải chỉnh lí lại mô   hình. Trong nhiều trường hợp mô hình chỉ  phản ánh được một hay một số  mặt  của đối tượng nghiên cứu, còn nhiều mặt khác thì không phản ánh được, thậm   chí phản ánh sai lệch. Những mô hình đã được kiểm nghiệm trên thực tế  là   những mô hình hợp thức và dùng để  phản ánh một số  mặt của thực tế  khách   quan. Nó có thể  thay đổi, hoàn chỉnh thêm hoặc bị  bác bỏ  khi người ta có thêm   thông tin chính xác hơn về đối tượng gốc. ­   Kiểm   tra   khả   năng   có   thể   chấp   nhận   được   của   kết   quả   để   có   thể  chuyển kết quả  về  đối tượng gốc, hợp thức hóa mô hình bằng cách đối chiếu  với thực nghiệm, chỉnh lí, bổ sung kết quả hoặc mô hình nếu cần. Thực nghiệm   kiểm chứng tính đúng đắn của mô hình sẽ  được thẩm định nếu thực nghiệm  kiểm chứng phù hợp với hệ quả được tiên đoán, khi đó mô hình được chấp nhận   16
  17. (được hợp thức hóa), còn ngược lại thì phải điều chỉnh mô hình hoặc loại bỏ và   thay thế  bằng mô hình giả  thuyết khác và khi đó phải quay về  bước xây dựng   mô hình. Một đối tượng (hay một loại đối tượng cùng loại) có thể có nhiều mô hình   đại diện, các mô hình này có thể hoàn toàn khác nhau, không thể bằng bất cứ một  sự cố gắng nào để hợp nhất chúng. 1.4. Phương pháp mô hình hóa trong dạy học vật lí 1.4.1. Vai trò của mô hình trong dạy học vật lí Ở  nhà trường phổ  thông, chúng ta có thể  sử  dụng phương pháp mô hình  như một phương pháp độc lập trong việc dạy học một số kiến thức vật lí. Việc  dạy học vật lí không chỉ  giới hạn trong việc truyền thụ  cho HS những tri thức   của bộ  môn này, mà điều quan trọng hơn là qua đó hình thành cho HS năng lực  nhận thức sáng tạo đối với thế  giới tự  nhiên, năng lực phản ánh thế  giới hiện   thực. Do đó cần phải tạo điều kiện để cho hoạt động học tập ngày càng tốt đối  với tiến trình xây dựng tri thức của các nhà khoa học vật lí. Làm được như vậy,  HS sẽ  vừa tiếp nhận được tri thức, vừa tiếp nhận được con đường nhập cuộc   vào xây dựng tri thức vật lí. HS sẽ không mơ hồ trong việc phải vượt qua những   trở  ngại khoa học để  hiểu đúng đắn bản chất và vai trò của các lí thuyết khoa  học, biết kiến tạo lí thuyết đó, nhằm hiểu biết sâu rộng hơn về  tri thức khoa   học. Xuất phát từ  những quan niệm trên, các nhà khoa học cho rằng cần vận   dụng phương pháp mô hình đã và đang được dùng trong các lí thuyết bộ môn vật  lí vào việc giảng dạy bộ môn này trong nhà trường. Trong nghiên cứu khoa học vật lí, mô hình và phương pháp mô hình có   chức năng nhận thức, nó giúp ta phát hiện ra những đặc tính mới, hiện tượng   mới, quy luật mới. Nếu xem xét quá trình học tập của HS là một quá trình hoạt  17
  18. động nhận thức thì mô hình cũng có chức năng như  trong nghiên cứu khoa học  vật lí. Phương pháp mô hình là phương pháp quan trọng trong khoa học vật lí.  Học tập vật lí sử dụng phương pháp mô hình cùng với những phương pháp nhận  thức khác giúp cho hoạt động nhận thức của HS thuận lợi, hiệu quả và đảm bảo   tính khoa học hơn. Mặc dù HS nhiều khi không đủ  khả  năng để  xây dựng mô  hình, nhưng bằng cách  này hay cách  khác GV có thể  sử  dụng mô hình như  phương tiện để HS hoạt động nhận thức. Trong khoa học, mô hình vật chất có tác dụng hạn chế  nhưng trong dạy   học ở cấp độ phổ thông thì loại mô hình này lại có tác dụng quan trọng giúp HS   hiểu được những điều không quan sát được trực tiếp (hoặc phức tạp khó hiểu). Ví dụ  như trong nghiên cứu khoa học, những mô hình vật chất có vai trò  rất hạn chế  vì nó ít mang lại những thông tin mới khi thao tác trên mô hình.  Nhưng trong dạy học, nhiều mô hình lại có tác dụng quan trọng làm cho HS hiểu  được những cái không quan sát trực tiếp được. Mô hình lí tưởng có vai trò quan trọng trong khoa học nhưng để xây dựng  và sử  dụng nó đòi hỏi HS có tư  duy trừu tượng phát triển  ở  trình độ  khá cao,  phải có kiến thức, kinh nghiệm bản thân dồi dào, có cơ  sở  thực nghiệm phong   phú, nhưng với loại mô hình này, HS vẫn cần được biết, cần được trải qua   những giai đoạn quan trọng của những phát minh khoa học quan trọng khi xây  dựng mô hình để  hình dung được người ta đã xây dựng chúng như  thế  nào và  quan trọng hơn, đó là HS hiểu được bản chất giả  định và giá trị  to lớn của mô   hình trong nhận thức (giải thích và tiên đoán) thế giới khách quan. Bởi vậy, trong   dạy học  ở  trường phổ thông, trong khuân khổ  bài học không cho phép chúng ta   tổ chức quá trình học tập sao cho HS hoàn toàn “khám phá lại” các định luật vật   lí, xây dựng các mô hình nhưng cũng phải để  cho HS “trải nghiệm” những giai   đoạn của sự phát minh khoa học, hiểu được ý nghĩa của các sự  kiện xuất phát,   vai trò của mô hình, tầm quan trọng của sự  kiểm tra bằng thực nghiệm những   18
  19. hệ quả lí thuyết. Trong dạy học vật lí ở trường phổ thông, ta ít có điều kiện để  áp dụng đầy đủ các giai đoạn của phương pháp mô hình để giải quyết một vấn   đề  nhận thức. Tùy theo hoàn cảnh cụ  thể  về  trình độ  HS, nội dung vấn đề,   phương tiện thí nghiệm mà định ra mức độ tham gia của HS một cách hợp lí vào  các giai đoạn của phương pháp mô hình.  1.4.2. Những yêu cầu khi dạy về các mô hình lí tưởng trong vật lí Việc dạy học các mô hình vật lí dù là loại nào cũng cần thỏa mãn các yêu   cầu sau:   *  Làm rõ giá trị của mô hình: Các mô hình, dù là ở cấp độ trừu tượng cao hay thấp cũng đều có giá trị to  lớn trong nhận thức (chức năng giải thích) và tư duy (chức năng tiên đoán): ­ Các mô hình vật lí là công cụ để giải thích thực tại khách quan: Mô hình  có mức độ  trừu tượng càng cao thì giá trị  giải thích càng sâu sắc và giá trị  giải   thích trong phạm vi thực tại càng rộng lớn. ­ Các mô hình có giá trị tiên đoán, vì thế đó là công cụ mạnh mẽ để tư duy:  Các mô hình có trước có mức độ trừu tượng nhất định là cơ sở để nghiên cứu và   lĩnh hội các mô hình mức độ trừu tượng cao hơn.  * Làm rõ tính giả định (bản chất giả thuyết) của mô hình: Mặc dù mô hình có giá trị giải thích và tiên đoán thực tại nhưng bản chất  của nó là giả  định. Mô hình là kết quả  của sự xây dựng, óc sáng tạo khoa học,  nó sẽ  luôn còn giá trị  trong một phạm vi giải thích nhất định và  ở  mức độ  sâu  sắc nhất định nhưng nó có thể được thay bằng mô hình tốt hơn, có thể khác biệt  hoàn toàn với mô hình trước đó và mô hình mới có thể  có phạm vi giải thích  rộng hơn bao trùm các mô hình trước đó, mức độ giải thích có thể sâu sắc hơn…   Vì thế  khi dạy học mô hình không nên gieo vào đầu HS sự  tin tưởng tuyệt đối  vào bất cứ mô hình nào, nhất là các mô hình biểu tượng, mà nên chỉ  luôn cho họ  19
  20. thấy giá trị của nó song song với những giá trị mà nó có thể gặp phải và nhất định  sẽ có mô hình tốt hơn, phù hợp hơn để giúp người ta vượt qua khó khăn đó… Làm rõ bản chất giả định của mô hình là giúp cho HS không nhầm lẫn giữa  mô hình và thực tại khách quan mà nó đại diện, là dạy học tuân theo những quy  luật của nhận thức luận hiện đại, là góp phần trang bị nhận thức luận đúng đắn  cho HS. 1.4.3. Các mức độ sử dụng phương pháp mô hình hóa trong dạy học vật lí Phương  pháp mô  hình được  sử  dụng rộng rãi trong nghiên cứu  vật lí,  nhưng đồng thời cũng còn rất nhiều khó khăn đòi hỏi ở HS một trình độ  tư  duy   phát triển, một vốn hiểu biết rộng rãi. Khi đưa vào dạy học ở trường phổ thông, ta thường không áp dụng đầy đủ  các khâu của phương pháp mô hình để  giải quyết trọn vẹn một vấn đề. Trong   trường hợp này ta chỉ quan tâm đến việc xây dựng mô hình của một hiện tượng   và dừng lại  ở  việc sử  dụng mô hình để  giải thích hiện tượng đó. Trong trường   hợp khác ta lại chú ý đến việc giải thích một hiện tượng mới dựa vào một mô   hình đã có sẵn mà HS không có khả năng xây dựng được. Ta phải làm như vậy là  vì:    ­ Có sự khác nhau cơ bản giữa mục đích nghiên cứu của nhà vật lí và mục   đích dạy học của người GV. Mục đích nghiên cứu của nhà vật lí là phải tìm cho   được cái mới, còn mục đích dạy học là bước đầu tập luyện cho HS cách suy   nghĩ sáng tạo, rèn luyện kĩ năng...Cho nên có thể  làm từng bước từng phần tùy  theo hoàn cảnh cụ thể. ­ Do sự khống chế của thời gian, điều kiện trang thiết bị của nhà trường,   trình độ khoa học của GV và HS. Đối với học sinh có học lực trung bình thì hầu  hết sử dụng phương pháp mô hình đến mức độ 3, còn với học sinh học lực khá  trở  lên có thể  tham gia sử  dụng mô hình  ở  mức độ  4. Riêng đối với các em có  nhận thức tốt, các em có thể sử dụng mô hình ở cả 5 mức độ. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2