Ông A và Bà B có ba người con chung là C, D, E. Năm 2005 ông A, bà B chết không để lại di chúc. Ông bà A,B có một ngôi nhà trên mảnh đất diện tích 500m2 tại quận M thành phố H. Sau khi ông ông bà B chết, C chiếm cả nhà đất đó.
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Đề thi môn luật tố tụng dân sự (kèm lời giải) - Đề 7
- ĐỀ BÀI 07
Ông A và Bà B có ba người con chung là C, D, E. Năm 2005 ông A, bà B
chết không để lại di chúc. Ông bà A,B có một ngôi nhà trên mảnh đất di ện
tích 500m2 tại quận M thành phố H. Sau khi ông bà B chết, C chiếm cả nhà
đất đó. E, D đã khởi kiện C ra Toà án yêu cầu chia thừa kế. Do giấy tờ nhà
đất bị thất lạc nên để chứng minh cho yêu cầu của mình D, E yêu c ầu c ơ
quan quản lý nhà đất ở địa phương cung cấp bản sao trích l ục b ản đ ồ đ ịa
chính và các tài liệu liên quan đến nhà đất nói trên nh ưng c ơ quan này t ừ ch ối
không cung cấp vì cho rằng chỉ có nghĩa vụ cung cấp khi Toà án yêu c ầu. Sau
đó, D, E có đơn yêu cầu Toà án tiến hành thu th ập ch ứng c ứ t ại c ơ quan qu ản
lý nhà đất nhưng Toà án không chấp nhận với lý do Toà án không có nghĩa v ụ
thu thập chứng cứ. Hỏi:
a) Việc cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương từ chối không cung cấp tài
liệu xác định quyền sở hữu ngôi nhà là đúng hay sai? Tại sao?
b) Việc Toà án không chấp nhận yêu cầu của D, E về việc tiến hành thu
thập chứng cứ là đúng hay sai? Tại sao?
BÀI LÀM
Việc cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương từ chối không cung
1.
cấp tài liệu xác định quyền sở hữu ngôi nhà là Sai. Bởi vì:
Căn cứ Khoản 3 Điều 139 Luật Nhà ở năm 2005 quy định: “ Cơ quan
quản lý hồ sơ nhà ở có trách nhiệm cung cấp các thông tin về hồ sơ nhà ở
khi tổ chức cá nhân có yêu cầu…”
Căn cứ Khoản 3 Điều 71 Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/09/2006
do Chính phủ ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội
dung về phát triển nhà ở, quản lý việc sử dụng nhà ở, sở hữu nhà ở, giao dịch
về nhà ở và quản lý nhà nước về nhà ở quy định tại Luật Nhà ở ngày 29
tháng 11 năm 2005 có quy định: “ … 3. Cơ quan quản lý hồ sơ nhà ở có trách
nhiệm cung cấp các thông tin về nhà ở cho các cơ quan quy đ ịnh t ại kho ản 7
1
- Điều này và các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhà ở
đó khi họ có yêu cầu”.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 7 BLTTDS quy định về trách nhiệm cung cấp
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: “ Cá nhân, cơ quan,
tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung
cấp đầy đủ cho đương sự, Tòa án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan,
tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án. Trong
trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương
sự, Tòa án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ”.
Theo đó, việc cung cấp tài liệu xác định quyền sở hữu ngôi nhà trên cho
D,E là nghĩa vụ theo Luật định của cơ quan quản lý nhà đất ở địa ph ương.
Mặt khác, D,E đề nghị cung cấp thông tin về nhà ở phải có văn bản đề nghị
cung cấp thông tin. Văn bản đề nghị phải ghi rõ h ọ tên, đ ịa ch ỉ c ủa ng ười yêu
cầu cung cấp thông tin, nội dung các thông tin đề ngh ị cung c ấp và m ục đích
của việc đề nghị cung cấp thông tin (theo khoản 5 Điều 71 Nghị định
90/2006/NĐ-CP).
Như vậy, Vì Tình huống trên không nói rõ nên ta coi D, E tuân th ủ đ ầy
đủ các quy định trên khi yêu cầu cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương cung
cấp bản sao trích lục bản đồ địa chính và các tài liệu liên quan đến nhà đất
nói trên. Do đó, việc cơ quan này từ chối không cung cấp với lý do : “cho rằng
chỉ có nghĩa vụ cung cấp khi Toà án yêu cầu” là trái pháp lu ật - sai về mặt nội
dung do vi phạm nghĩa vụ luật đinh. Nhưng đúng về mặt th ủ tục do cơ quan
quản lý nhà đất ở địa phương ra văn bản nêu rõ lý do từ chối không cung cấp
chứng cứ. Từ đó, cho thấy sự thiếu hiểu biết pháp luật của một số cán b ộ
trong cơ quan quản lý nhà đất địa phương và cần khắc phục trong thời gian
tới.
Việc Toà án không chấp nhận yêu cầu của D, E về vi ệc tiến hành
2.
thu thập chứng cứ là Sai. Bởi vì:
Trong Tố tụng dân sự, khi cần khởi kiện để giải quyết tranh ch ấp và
khẳng định việc khởi kiện, phản tố việc kiện có căn cứ và đúng pháp luật, thì
các đương sự phải tự mình thu thập, cung cấp và chuyển giao chứng cứ, tài
liệu này cho Toà án dân sự.
2
- Căn cứ khoản 2 Điều 85 và khoản 1 Điều 94 của BLTTDS quy định,
chỉ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà
vẫn không thể tự mình thu thập được thì mới có quy ền yêu cầu Tòa án thu
thập. Trên cơ sở các quy định này, tại khoản 5 Nghị quyết số 04/2005/NQ-
HĐTP ngày 1.9.2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã h ướng dẫn c ụ
thể: “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án cần giải thích cho
đương sự biết quy định tại Điều 7 của BLTTDS về trách nhi ệm cung c ấp
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Khi biết chứng cứ
đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý, thì căn cứ vào quy định
tại điều này, đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan , tổ chức cung cấp
chứng cứ. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp được chứng cứ cho
đương sự, thì phải thông báo bằng văn bản có ghi rõ lý do của việc không
cung cấp được chứng cứ cho đương sự biết để họ chứng minh với Tòa án là
họ đã thu thập chứng cứ nhưng không có kết quả và yêu cầu Toà án thu th ập
chứng cứ”.
Xét trong tình huống trên ta thấy, D, E đã yêu cầu cơ quan quản lý nhà
đất ở địa phương cung cấp bản sao trích lục bản đồ địa chính và các tài li ệu
liên quan đến nhà đất nói trên. đ ể làm chứng cứ cho vụ tranh chấp, nhưng đã
bị cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương từ chối không cung cấp v ới lý do :
“cho rằng chỉ có nghĩa vụ cung cấp khi Toà án yêu cầu. Đi ều đó cho thấy D,
E đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể
tự mình thu thập được. Do đó, D,E có quy ền làm đơn yêu c ầu Tòa án ti ến
hành thu thập chứng cứ tại cơ quan quản lý nhà đất ở địa phương.Trong
trường hợp này, Toà án phải có trách nhiệm tiến hành thu th ập ch ứng c ứ theo
các quy định trên. Tuy nhiên, Toà án không chấp nhận với lý do Toà án không
có nghĩa vụ thu thập chứng cứ là Sai pháp lu ật, chưa làm đúng nghĩa vụ của
mình. Điều này đặt ra mối nghi ngờ rằng, một cơ quan chuyên b ảo v ệ s ự
đúng đắn của pháp luật lại làm trái pháp luật. Đây phải chăng là do s ự thiếu
hiểu biết về pháp luật hay do cố ý làm trái pháp luật vì một mục đích nào đó.
Trên đây là hai hành vi Sai pháp luật ph ổ biến nhất trong lĩnh v ực tranh
chấp về đất đai hiện nay. Điều này làm cản trở việc giải quy ết vụ án. Từ
thực tiễn trên cho thấy, Bộ luật TTDS cần quy định rõ h ơn v ề nghĩa v ụ cung
cấp chứng cứ của các tổ chức cá nhân cũng như nghĩa vụ tiến hành thu thập
chứng cứ của Toà án trong trường hợp cụ thế. Ngoài ra, các cấp có th ẩm
quyền cần tiến hành phổ biến, giải thích các quy định trên để các cơ quan liên
3
- quan có cách hiểu thống nhất, chính xác về các quy định này mới có thể áp
dụng đúng đắn.
DANH M ỤC T ÀI LI ỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự,
1.
Nxb.CAND, Hà Nội, 2009;
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
2.
Luật Nhà ở năm 2005;
3.
Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/09/2006 do Chính phủ ban hành
4.
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung về phát triển
nhà ở, quản lý việc sử dụng nhà ở, sở hữu nhà ở, giao dịch về nhà ở và
quản lý nhà nước về nhà ở quy định tại Luật Nhà ở ngày 29 tháng 11
năm 2005;
Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 1.9.2005 của Hội đồng thẩm
5.
phán TANDTC;
Phạm Thái Quy, Thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự còn gian nan,
6.
http://nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/7/ContentID/10
3984/Default.aspx
4