intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề xuất sửa đổi một số quy định liên quan đến nhượng quyền thương mại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

56
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết phân tích những nội dung cơ bản của nhượng quyền thương mại, như trợ giúp, kiểm soát và sự độc lập của các bên trong hợp đồng nhượng quyền thương mại; nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền; các đối tượng sở hữu công nghiệp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại; mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại và pháp luật cạnh tranh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề xuất sửa đổi một số quy định liên quan đến nhượng quyền thương mại

  1. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT ÀÏÌ XUÊËT SÛÃA ÀÖÍI MÖÅT SÖË QUY ÀÕNH LIÏN QUAN ÀÏËN NHÛÚÅNG QUYÏÌN THÛÚNG MAÅI Ngô Quốc Chiến* *TS. Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương, thành viên Trung tâm Nghiên cứu pháp luật châu Âu và Quốc tế (GERCIE), ĐH Tours, CH Pháp. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khoá: nhượng quyền Bài viết phân tích những nội dung cơ bản của nhượng quyền thương mại, thương mại, độc quyền. như trợ giúp, kiểm soát và sự độc lập của các bên trong hợp đồng nhượng quyền thương mại; nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền; các Lịch sử bài viết: đối tượng sở hữu công nghiệp trong hợp đồng nhượng quyền thương Nhận bài: 12/09/2016 mại; mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại và pháp luật cạnh tranh. Những nội dung này hiện đang được quy định trong nhiều văn bản khác Biên tập: 28/09/2016 nhau nên dẫn tới hiện tượng chồng chéo và đôi khi mâu thuẫn. Trên cơ sở Duyệt bài: 04/10/2016 phân tích các hạn chế của pháp luật Việt Nam và so sánh với các quy định của một số nước về cùng vấn đề, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm tái pháp điển hóa cả về nội dung và hình thức những quy định điều chỉnh nhượng quyền thương mại. Article Infomation: Abstract: Keywords: This paper provides analysis the essential of franchising, such as support, franchising, monopoly. control and independence of the parties to the franchise agreement; the franchisor’s obligation of information provision; subjects of industrial property in the franchise agreement; the relationship between franchising Article History: and competition law. These matters are currently being regulated in several Received: 12 Sep. 2016 different legal documents, which lead to overlaps and sometimes Edited: 28 Sep. 2016 contradictions. By analyzing the limitations of Vietnamese legislation and Approved: 04 Oct. 2016 comparing with the regulations of a number of countries on the same issue, the author gives out recommendations in order to re-codify both the contents and the form of the provisions governing franchising. N hượng quyền thương mại (NQTM) động NQTM (một số nội dung đã được sửa chịu sự điều chỉnh của nhiều văn đổi bởi Nghị định số 120/2011/NĐ-CP của bản khác nhau, trong đó, ba văn bản Chính phủ (Nghị định 120) và Thông tư số có liên quan trực tiếp là Luật Thương mại 09/2006/TT-BTM (Thông tư 09) ban hành năm 2005 (các điều từ Điều 284 đến Điều ngày 25/05/2006 của Bộ Thương mại về 291); Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày việc hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM; 31/03/2006 của Chính phủ (Nghị định 35) Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt 15/11/2013 của Chính phủ (Nghị định 185) NGHIÏN CÛÁU Söë 05(333) T3/2017 LÊÅP PHAÁP 15
  2. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT xử phạt hành chính trong hoạt động thương thống phân phối nói chung. Trong NQTM, mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm nếu như nhãn hiệu và bí quyết kinh doanh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên đóng vai trò cốt yếu, thì trợ giúp kỹ thuật và cạnh các văn bản này, hoạt động NQTM còn kiểm soát hệ thống để đảm bảo tính đồng chịu sự điều chỉnh của Luật Sở hữu trí tuệ nhất của hệ thống cũng là một tham số (SHTT), Luật Cạnh tranh và các luật chuyên không thể thiếu trong công thức NQTM: ngành khác (tùy thuộc vào loại hàng hóa, Nhãn hiệu + Bí quyết kinh doanh + Trợ giúp dịch vụ kinh doanh là đối tượng của hợp kỹ thuật = NQTM. đồng NQTM). Việc huy động nhân lực và vật lực Các văn bản này hiện đang có một số trong các hệ thống NQTM được thực hiện nội dung chồng chéo và các quy định còn theo logic khai thác hơn là sở hữu. Hợp mâu thuẫn nhau. Để các văn bản này phát đồng mua bán là chuyển quyền sở hữu, huy hiệu quả tốt hơn trong thực tế, cần tiến trong khi trong hợp đồng NQTM chỉ có sự hành song song việc tái pháp điển hóa về nội chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu và bí dung, sửa đổi những quy định không phù quyết kinh doanh. Trong NQTM có một sự hợp, loại bỏ chồng chéo, mâu thuẫn; và pháp cộng sinh phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế điển hóa hình thức, tập hợp các văn bản nhưng độc lập với nhau về pháp lý giữa các khác nhau vào trong một văn bản duy nhất. đối tác. Xu hướng phát triển NQTM tại một 1. Trợ giúp, kiểm soát và sự độc lập của số nước châu Âu và Mỹ1 cho thấy, bên các bên trong hợp đồng nhượng quyền nhượng quyền có xu hướng tìm cách thôn thương mại tính các đơn vị nhận quyền hoạt động hiệu NQTM là một trong những loại hệ quả nhất. Rất nhiều mạng lưới NQTM là sự thống kinh doanh được đơn giản hóa và quy pha trộn và kết hợp các chi nhánh (các đơn chuẩn hóa cả về tổ chức lẫn hoạt động. Nếu vị thuộc quyền sở hữu của bên nhượng như sự độc đáo của mô hình kinh doanh là quyền) và các đối tác độc lập (các đơn vị độc yếu tố đảm bảo sự thành công ban đầu của lập của các bên nhận quyền). Cấu trúc mạng hệ thống NQTM thì duy trì tính đồng nhất lưới này cho phép kết hợp hiệu ứng dây là yếu tố then chốt giúp hệ thống tồn tại lâu chuyền của các chi nhánh thuộc bên nhượng dài. Một trong những công cụ hữu hiệu nhất quyền và sức mạnh nhân lực và tài chính của để đảm bảo tính đồng nhất của hệ thống các bên nhận quyền độc lập. Việc khai thác NQTM chính là trợ giúp kỹ thuật và kiểm thông tin thu được từ các chi nhánh và các soát hệ thống. đơn vị nhận quyền cho phép thực hiện bên Hệ thống NQTM không phải là một trong hệ thống một quy trình học hỏi lẫn tập đoàn được tổ chức thành các công ty con nhau. Nhờ đó, tỷ lệ thất bại của các bên nhận và các chi nhánh, mà là một mạng lưới các quyền mới tham gia hệ thống thấp hơn tỷ lệ công ty đồng nhất và độc lập, vì thế nội thất bại trung bình của các doanh nghiệp dung và phương thức kiểm soát hệ thống mới thành lập2. Tuy nhiên, NQTM ẩn chứa cũng phải khác so với kiểm soát các hệ không ít rủi ro, bởi động cơ và hành vi của 1 K. MCCORMICK GNUVA, Le déséquilibre inhérent à la relation de franchise: étude comparative du droit français et du droit américain (Bản chất bất cân xứng của hợp đồng NQTM: nghiên cứu so sánh pháp luật Pháp và pháp luật Mỹ), luật án tiến sỹ luật học, ĐH Nice-Sophia Antipolis, 1997. 2 Theo một điều tra của Viện Thống kê và nghiên cứu kinh tế quốc gia Pháp (INSEE) năm 2012 đăng trên Tạp chí Franchise Magazine của Pháp tháng 3/2013, tỷ lệ thành công của các công ty nhận quyền thương mại là 90%, so với chỉ 50% của các doanh nghiệp khác. NGHIÏN CÛÁU 16 LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
  3. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT các bên không phải lúc nào cũng như nhau3, là một khiếm khuyết rất đáng tiếc của Luật và bên nhượng quyền có xu hướng can thiệp Thương mại năm 2005, vì trong thực tế, bên quá sâu vào công việc kinh doanh của bên nhượng quyền hoàn toàn có thể không cung nhận quyền với lý do cần bảo đảm sự đồng cấp các trợ giúp kỹ thuật cần thiết cho bên nhất của hệ thống. Để phòng ngừa nguy cơ nhận quyền, trong khi đây lại là một nội lạm quyền này, qua đó thiết lập một sự bảo dung không thể thiếu của NQTM. Quy định vệ cần thiết bên nhận quyền - bên yếu thế này cũng mâu thuẫn với một quy định khác trong quan hệ NQTM, cần phải khẳng định của chính Luật Thương mại năm 2005. Theo và bảo vệ sự độc lập của bên nhận quyền. khoản 2 Điều 287, bên nhượng quyền có Nội dung của trợ giúp và kiểm soát hệ nghĩa vụ “đào tạo ban đầu và cung cấp trợ thống NQTM: Trợ giúp và kiểm soát có giúp kỹ thuật thường xuyên cho thương những biểu hiện rất đa dạng, nhưng có thể nhân nhận quyền để điều hành hoạt động tập trung trong bốn nhóm chính: trợ giúp theo đúng hệ thống NQTM”. Như vậy, theo pháp lý, kiểm soát sản phẩm hay dịch vụ, Điều 287, trợ giúp là một nghĩa vụ, nhưng kiểm soát quản lý tổ chức và kiểm soát nhân theo Điều 284, đó là một quyền. sự. Cả bốn nội dung này phải được thực hiện Luật Thương mại năm 2005 và các trước và trong quá trình thực hiện hợp đồng văn bản hướng dẫn cũng chưa làm rõ nội NQTM. Vì trợ giúp kỹ thuật và kiểm soát hệ dung của hai khái niệm “trợ giúp” và “kiểm thống có lý do tồn tại là để áp dụng hiệu quả soát”. Hai khái niệm này trong thực tế có rất bí quyết kinh doanh và đảm bảo tính đồng nhiều điểm giống nhau, và bên nhận quyền nhất của hệ thống, nên nó phải được thực khó có thể phân biệt được đâu là trợ giúp và hiện trong suốt quá trình khai thác mô hình đâu là kiểm soát của bên nhượng quyền. kinh doanh. Tuy nhiên, nội dung trợ giúp và Đây chính là cơ hội để cho bên nhượng kiểm soát ở mỗi giai đoạn của vòng đời quyền lợi dụng danh nghĩa trợ giúp kỹ thuật NQTM có những nét khác nhau4. để thực hiện các trợ giúp và kiểm soát thái Giới hạn của trợ giúp và kiểm soát hệ quá, làm mất đi sự độc lập của bên nhận thống: Nếu như pháp luật của đa số các quyền. Theo tinh thần của khoản 2 Điều 284 nước coi trợ giúp kỹ thuật là một nghĩa vụ5 Luật Thương mại năm 2005, thì việc trợ còn kiểm soát hệ thống là một quyền của giúp và kiểm soát của bên nhượng quyền đối bên nhượng quyền, thì pháp luật Việt Nam với bên nhận quyền phải giới hạn trong lại coi cả trợ giúp kỹ thuật lẫn kiểm soát là “việc điều hành công việc kinh doanh”. các quyền của bên nhượng quyền. Khoản 2 Chúng tôi nhận thấy, trợ giúp kỹ thuật là Điều 284 Luật Thương mại năm 2005 quy nhằm giúp bên nhận quyền khai thác hiệu định: “Bên nhượng quyền có quyền kiểm quả mô hình kinh doanh theo đúng các soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong chuẩn mực mà bên nhượng quyền đặt ra. Nó việc điều hành công việc kinh doanh”. Đây phải được giới hạn ở việc khai thác bí quyết 3 Về động cơ của các bên trong hợp đồng NQTM, xem: Ngô Quốc Chiến, Trợ giúp kiểm soát trong NQTM và vấn đề độc lập của bên nhận quyền, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 64 tháng 4/2014; và các phân tích, so sánh pháp luật chi tiết hơn: Ngô Quốc Chiến, Le contrat de franchise, étude comparative - le droit français et le droit vietnamien, (Hợp đồng NQTM, nghiên cứu so sánh pháp luật Pháp và pháp luật Việt Nam), Luận án Tiến sỹ luật học, ĐH Tours, CH Pháp, 2012. 4 Về nội dung và ý nghĩa của các loại trợ giúp và kiểm soát này, xem: Ngô Quốc Chiến, Trợ giúp kiểm soát trong NQTM và vấn đề độc lập của bên nhận quyền, tlđd. 5 Flore SERGENT, L’obligation d’assistance du franchiseur (Nghĩa vụ trợ giúp của bên nhượng quyền), Petites affiches, 2/11/ 2009, số 218, tr. 5. NGHIÏN CÛÁU Söë 05(333) T3/2017 LÊÅP PHAÁP 17
  4. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT kinh doanh, chứ không thể trong “công việc công ty của bên nhận quyền, và khi đó sẽ kinh doanh” nói chung. Phạm vi của trợ giúp phải gánh vác các thua lỗ của bên nhận và kiểm soát quá rộng sẽ là cơ hội để bên quyền. Để xác định thế nào là “lãnh đạo nhượng quyền can thiệp vào công việc quản công ty trên thực tế”, Tòa án Pháp dựa trên lý kinh doanh của bên nhận quyền, biến bên rất nhiều tiêu chí và có tính đến đặc thù của nhận quyền thành người làm thuê cho mình, từng loại NQTM. Chẳng hạn, một bên trong khi bên nhận quyền phải chịu hoàn nhượng quyền bị coi là lãnh đạo trên thực tế toàn rủi ro đối với các đầu tư của mình vào công ty của bên nhận quyền khi: “nắm giữ hệ thống NQTM. các tài liệu kế toán, pháp lý và ngân hàng Ở một số nước, nếu bên nhượng liên quan đến việc quản lý công ty; lưu giữ quyền can thiệp quá sâu vào công việc kinh chứng thực chữ ký ngân hàng của công ty; doanh của bên nhận quyền, thì Tòa án sẽ xác chuẩn bị tất cả các giấy tờ hành chính và các định lại bản chất của hợp đồng. Trong nhiều loại phiếu thu, chi; kê khai thuế thay cho trường hợp, hợp đồng NQTM bị coi là hợp công ty và tiến hành tuyển dụng nhân viên”7. đồng lao động, vì thế bên nhượng quyền Tương tự, trong một tranh chấp khác, phải gánh các hậu quả rất bất lợi. Tại Pháp, Tòa thương mại Valenciennes đã coi bên Tòa án thường xuyên nhắc lại rằng trợ giúp nhượng quyền là người chủ thực sự của kỹ thuật và kiểm soát hệ thống NQTM phải công ty bên nhận quyền vì đã “thực hiện được giới hạn ở việc giúp bên nhận quyền toàn bộ việc thành lập công ty cho bên nhận khai thác bí quyết kinh doanh. Trong một vụ quyền, thực hiện bút toán sổ sách, theo dõi việc cụ thể, Tòa án Tối cao Pháp6 cho rằng, hoạt động và ấn định lịch làm việc cho các bên nhượng quyền không được phép thực nhân viên của công ty nhận quyền, và tự trả hiện việc xuất hóa đơn nhân danh bên nhận thù lao cho mình, những việc đáng lẽ thuộc quyền, nghiên cứu các vấn đề về thuế, tài bên nhận quyền”8. chính và pháp lý thay cho bên nhận quyền. Tại Mỹ, việc trợ giúp cũng như kiểm Theo Tòa án, sự can thiệp như vậy vừa soát thái quá của bên nhượng quyền đối với không cần thiết, vừa làm ảnh hưởng đến sự bên nhận quyền được coi là nguyên nhân độc lập của bên nhận quyền, và thực chất làm mất cân bằng quyền và nghĩa vụ của các biến bên nhận quyền thành một người làm bên trong hợp đồng NQTM. Nhiều hợp thuê cho bên nhượng quyền. Từ nhận định đồng NQTM đã bị Tòa án xác định lại bản đó, Tòa án Tối cao Pháp quyết định hợp chất, khi bên nhận quyền “trong quá trình đồng mà hai bên gọi là hợp đồng NQTM thực hiện hợp đồng nhượng quyền, phải thực chất là hợp đồng lao động, và như vậy tuân theo bên nhượng quyền, người đưa ra phải áp dụng các quy định của Bộ luật Lao các mệnh lệnh, chỉ thị và giám sát việc thực động. Hậu quả là bên nhượng quyền -người hiện chúng cũng như đưa ra các chế tài cho thuê lao động - phải trả lương cũng như các vi phạm”; khi bên nhượng quyền “đơn đóng các loại phí bảo hiểm và y tế cho bên phương áp đặt các điều kiện khai thác mô nhận quyền - người làm thuê. hình kinh doanh và ấn định giờ làm việc của Bên nhượng quyền trợ giúp thái quá bên nhận quyền”9. cũng có thể bị coi là đã trực tiếp lãnh đạo Như vậy, chúng ta thấy rằng, cả ở 6 Bản án số 99-20788 ngày 18/6/2002 của Tòa Thương mại, Tòa án Tối cao Pháp. 7 Bản án số 91-18351, ngày 9/11/1993 của Tòa Thương mại, Tòa án Tối cao Pháp, đăng trên Bull. civ. IV, n° 390, tr. 284 ; JCP E 1994, II. 612, et G II. 22304, bình luận G. VIRASSAMY. 8 Bản án ngày 8/6/1993, Rev. proc. coll. 1993. 582, n° 5, bình luận J. BLANCHARD. 9 K. MCCORMICK GNUVA, sđd, tr. 409. NGHIÏN CÛÁU 18 LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
  5. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Pháp và Mỹ, trợ giúp kỹ thuật và kiểm soát đặc trưng là sự bất cân xứng về thông tin và hệ thống phải được thực hiện trong các giới quyền lực10, và thông qua đó, bảo vệ sự phát hạn của việc khai thác bí quyết kinh doanh. triển lành mạnh và bền vững của loại hình Vượt ra ngoài phạm vi đó, bên nhượng hoạt động này. Liên quan đến nghĩa vụ của quyền có thể bị coi là đã thực hiện các hành thương nhân nhượng quyền, Điều 287 Luật vi làm ảnh hưởng đến sự độc lập của bên Thương mại năm 2005 được thiết kế là một nhận quyền. quy phạm tùy nghi mà các bên có thể loại Từ các phân tích trên, chúng tôi cho trừ bằng các thỏa thuận khác. Do bản chất rằng Điều 284 Luật Thương mại năm 2005 bất cân xứng về thông tin, cán cân sức mạnh cần bổ sung quy định khẳng định sự độc lập nghiêng về bên nhượng quyền11. Vì vậy, quy pháp lý của bên nhận quyền đối với bên định về nghĩa vụ của bên nhượng quyền cần nhượng quyền, và kiểm soát hệ thống nên được thiết kế là một quy phạm bắt buộc, mà được quy định thành quyền của bên nhượng nội dung cần được sửa đổi để bảo vệ tốt hơn quyền, còn trợ giúp kỹ thuật thành nghĩa vụ bên nhận quyền. Việc sửa đổi, bổ sung cũng của bên nhượng quyền. Việc trợ giúp kỹ cần tính đến việc tích hợp một số quy định thuật phải được giới hạn trong phạm vi giúp của Nghị định 35 vào một điều luật để có thể bên nhận quyền khai thác tốt nhất bí quyết vừa loại bỏ mâu thuẫn, chồng chéo giữa các kinh doanh. văn bản, vừa giúp cho Luật được áp dụng 2. Tính tùy nghi của quy phạm về nghĩa ngay mà không cần Nghị định hướng dẫn. vụ cung cấp thông tin của bên nhượng Cụ thể: quyền Về cung cấp thông tin trước khi ký kết Hợp đồng NQTM là một loại hợp hợp đồng, Điều 287 Luật Thương mại năm đồng giữa các chủ thể tư chịu sự điều chỉnh 2005 sử dụng khái niệm “nghĩa vụ” còn của các quy định của luật tư. Vì vậy, về Điều 8 và Điều 9 Nghị định 35 lại sử dụng nguyên tắc, Nhà nước không can thiệp quá khái niệm “trách nhiệm”. Đây không phải là sâu vào công việc của các bên. Nói cách hai khái niệm đồng nhất. Điều 287 Luật khác, pháp luật chỉ nên dừng lại ở việc đặt Thương mại năm 2005 là một quy phạm tùy ra các khuôn khổ để các bên được tự do thỏa nghi, chỉ được áp dụng khi các bên “không thuận các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. có thỏa thuận khác”. Như vậy, bên nhượng Thông thường, nhà lập pháp sẽ cụ thể hóa quyền có thể không cung cấp thông tin cho tư tưởng này bằng các quy phạm tùy nghi, bên nhận quyền bằng cách đưa vào hợp tức những quy phạm mà các bên có thể thỏa đồng một điều khoản loại trừ nghĩa vụ cung thuận khác đi. Theo logic đó, Luật Thương cấp thông tin. Trong khi đó Nghị định 35 mại năm 2005 đã sử dụng thường xuyên loại cũng như Thông tư 09 coi đây là “trách quy định này. Tuy nhiên, nguyên tắc tự do, nhiệm” mà bên nhượng quyền không thể tự nguyện cam kết không phải là một thỏa thuận khác. Như vậy đã có sự mâu nguyên tắc tuyệt đối, mà cần phải có những thuẫn giữa các văn bản. Cần coi cung cấp giới hạn nhất định để bảo vệ bên yếu thế thông tin là một nghĩa vụ luật định mà các trong những loại hợp đồng gia nhập vốn có bên không thể loại trừ bằng một thỏa thuận 10 Xem: Ngô Văn Hiệp, Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/su-thoa-thuan-trong-giao-ket-hop-111ong-gia-nhap (truy cập ngày 9/9/2016) 11 K. MCCORMICK GNUVA, sđd. Ngô Quốc Chiến, Le contrat de franchise, étude comparative - le droit français et le droit vietnamien, (Hợp đồng NQTM, nghiên cứu so sánh pháp luật Pháp và pháp luật Việt Nam), Luận án Tiến sỹ luật học, ĐH Tours, CH Pháp, 2012. NGHIÏN CÛÁU Söë 05(333) T3/2017 LÊÅP PHAÁP 19
  6. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT hợp đồng. Pháp luật của nhiều nước đã quy tượng của sở hữu công nghiệp khác nhau, định như vậy và có chế tài rất nặng đối với nhưng chủ yếu và phổ biến là nhãn hiệu và vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin. Chẳng bí quyết kinh doanh. Nhãn hiệu và bí quyết hạn, ở Pháp, theo Điều 1 Luật Doubin ngày kinh doanh là hai trong ba tham số của công 31/12/198912, bên nhượng quyền phải cung thức NQTM. Tuy nhiên, định nghĩa nêu tại cấp cho bên nhận quyền Bản giới thiệu hệ Điều 284 Luật Thương mại năm 2005 không thống NQTM 20 ngày trước khi ký hợp cho biết các đối tượng sở hữu công nghiệp đồng NQTM. Đây là một quy phạm áp dụng có phải là các nội dung nhất thiết phải có bắt buộc mà các bên không thể thỏa thuận trong hợp đồng NQTM hay không. Đây là khác, ngay cả khi luật nước ngoài mà các điều khá khác biệt của pháp luật Việt Nam bên lựa chọn để áp dụng cho hợp đồng so với pháp luật của nhiều nước, nơi NQTM NQTM cho phép thực hiện điều này. Việc vi phát triển mạnh như Mỹ, Pháp, Đức14. Ngoài phạm quy định này có thể dẫn tới hai hậu ra, cách diễn đạt của khoản 1 Điều 10 Nghị quả về dân sự và hình sự. Hậu quả dân sự là định 3515 có thể khiến người ta hiểu rằng hợp đồng NQTM có thể bị tòa án tuyên vô trong hợp đồng NQTM có thể không có sự hiệu dựa trên các quy định chung của pháp chuyển giao các đối tượng sở hữu công luật hợp đồng. Hậu quả hình sự là bên nghiệp, trong khi đây là những nội dung nhượng quyền bị phạt tiền theo quy định của không thể thiếu của NQTM. Điều 2 Nghị định ngày 4/4/199113 hướng 3.2 Nghĩa vụ giữ bí mật đối với bí dẫn thi hành Luật Doubin. Mức phạt theo quyết kinh doanh quy định của Bộ luật Hình sự Pháp (Điều Luật Thương mại năm 2005 nhắc đến L.131-13-5o) đối với bên nhượng quyền là “bí quyết kinh doanh” trong hai điều luật là 1.500 euros và 3.000 euros trong trường hợp Điều 284 (điều khoản định nghĩa NQTM) và tái phạm. Điều 289 quy định nghĩa vụ của thương nhân Vì vậy, khi chuyển Điều 287 Luật nhận quyền, theo đó, bên nhận quyền phải Thương mại năm 2005 từ quy phạm tùy “giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nghi sang thành quy phạm bắt buộc thì cần nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng loại bỏ khoản 3, vì “thiết kế và sắp xếp địa NQTM kết thúc hoặc chấm dứt” (khoản 4). điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ” không Tuy nhiên, Luật Thương mại không cho biết nên là một nghĩa vụ bắt buộc. “bí quyết kinh doanh” là gì mà quy dẫn đến 3. Các đối tượng sở hữu công nghiệp các văn bản luật chuyên ngành. Việc quy dẫn trong hợp đồng nhượng quyền thương này là không thỏa đáng, bởi Luật Thương mại mại năm 2005 bản thân nó đã là một văn bản 3.1 Về sự tồn tại của các đối tượng luật chuyên ngành nên cần có quy định cụ sở hữu công nghiệp trong hợp đồng thể ngay trong Luật về đối tượng đặc thù mà NQTM Luật điều chỉnh. Việc quy dẫn tới các văn Trong khuôn khổ của hoạt động bản luật khác có ba nhược điểm. NQTM, các bên có thể sử dụng nhiều đối Thứ nhất, việc tiếp cận văn bản luật 12 Được pháp điển hóa vào Điều L. 330-3 Bộ luật Thương mại Pháp. 13 Được pháp điển hóa vào Điều R. 330-2 Bộ luật Thương mại Pháp. 14 K. MCCORMICK GNUVA, tlđd, tr. 30. 15 Quy định rằng: “trường hợp Bên nhượng quyền chuyển giao cho Bên nhận quyền quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp và các nội dung của quyền thương mại thì phần chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp đó có thể được lập thành một phần riêng trong hợp đồng NQTM”. Từ “trường hợp” ở đây tương đương với “nếu”, tức chỉ là một khả năng hay một giả thiết, chứ không phải một tình huống bắt buộc phải xảy ra trong thực tế. NGHIÏN CÛÁU 20 LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
  7. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT trở nên khó khăn hơn về mặt kỹ thuật so với dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng việc nếu tất cả những nội dung này được quy sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi định trong một văn bản duy nhất. thế hơn so với người không nắm giữ hoặc Thứ hai, việc không trực tiếp quy định không sử dụng thông tin đó17; được chủ sở một nội dung cốt lõi của NQTM như bí hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để quyết kinh doanh mà quy dẫn đến các luật thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ khác nhau (Luật SHTT và Luật Cạnh tranh) dàng tiếp cận được (khoản 10 Điều 3). Khái là nguồn gốc của sự mất an toàn pháp lý, bởi niệm “bí mật kinh doanh” nêu tại Luật Cạnh các văn bản luật chuyên ngành này có thể tranh tương thích với quy định của nhiều được sửa đổi16 và trong quá trình ấy, các quy nước và phù hợp với NQTM18 hơn khái định về bí quyết kinh doanh không chắc còn niệm “bí mật kinh doanh” quy định tại Luật phù hợp với bí quyết kinh doanh mà nhà lập SHTT. Chẳng hạn, theo pháp luật của EU19, pháp hiểu vào thời điểm xây dựng Luật bí quyết kinh doanh phải thỏa mãn ba tiêu Thương mại năm 2005. chí: i) phải là thông tin mật; ii) phải tạo lợi Thứ ba, các luật chuyên ngành mà thế cạnh tranh cho người sử dụng; iii) được Luật Thương mại năm 2005 dẫn chiếu tới có chủ sở hữu bảo mật bằng các phương tiện mục đích không giống với Luật Thương mại cần thiết. Khi có tranh chấp về “bí quyết năm 2005 do có đối tượng điều chỉnh khác, kinh doanh” chúng ta không biết chắc chắn nên nội dung của các quy định chưa chắc đã sẽ phải áp dụng khái niệm “bí mật kinh phù hợp với NQTM. Thật vậy, nếu như Luật doanh” nêu tại Luật Cạnh tranh năm 2004, Thương mại năm 2005 sử dụng khái niệm hay khái niệm “bí mật kinh doanh” nêu tại “bí quyết kinh doanh” thì Luật SHTT và Luật SHTT năm 2005. Luật Cạnh tranh lại sử dụng khái niệm “bí Nhiều nghiên cứu so sánh pháp luật mật kinh doanh”. Ngoài việc không thống Việt Nam với pháp luật của châu Âu, cũng nhất về thuật ngữ có thể dẫn tới các tranh như pháp luật của Mỹ với Pháp, đã cho thấy luận về ngôn từ khi có tranh chấp xảy ra, thì việc dẫn chiếu tới các văn bản luật chuyên sự đa dạng về nguồn và quy định không ngành (Luật SHTT và Luật Cạnh tranh) là giống nhau của các nguồn luật khác nhau về không phù hợp và là trở ngại đối với sự phát cùng một vấn đề còn làm phát sinh thêm triển của loại hình này. Chính vì vậy, ở Pháp, một khó khăn nữa về thứ tự ưu tiên áp dụng. tòa án đã phải nhiều lần diễn giải và thay đổi Theo khoản 23 Điều 4 Luật SHTT năm quan điểm về cách diễn giải các quy định về 2005 (đã được sửa đổi năm 2009), “bí mật nhãn hiệu và bí quyết kinh doanh của Bộ kinh doanh” là “thông tin thu được từ hoạt luật SHTT cho các vụ việc liên quan đến động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc NQTM. Tương tự như vậy với các quy định lộ và có khả năng sử dụng trong kinh của Luật Cạnh tranh. Ở châu Âu, Ủy ban doanh”. Trong khi đó, theo Luật Cạnh tranh châu Âu đã đưa ra các nghị định và các văn năm 2004, bí quyết kinh doanh “không phải bản hướng dẫn trong đó có các quy định là hiểu biết thông thường; có khả năng áp chuyên biệt về nhãn hiệu, bí quyết kinh 16 Nhiều quy định liên quan đến nhãn hiệu trong Luật SHTT năm 2009 không còn giống như trong Luật SHTT năm 2005. 17 Đây là sự khác biệt căn bản giữa hai đạo luật về cùng một khái niệm “bí mật kinh doanh”. 18 Ngô Quốc Chiến, Một số điều khoản độc quyền trong hợp đồng NQTM. So sánh pháp luật Việt Nam, Pháp và Liên minh châu Âu, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 67, tháng 6/2014. 19 Nghị định số 330/2010 của Ủy ban châu Âu ngày 20/4/2010 về áp dụng điều 101, đoạn 3, Hiệp định về vận hành Liên minh châu Âu, liên quan đến các nhóm thỏa thuận theo chiều dọc và các hành vi thỏa thuận. NGHIÏN CÛÁU Söë 05(333) T3/2017 LÊÅP PHAÁP 21
  8. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT doanh và các điều khoản hạn chế cạnh tranh doanh nghiệp khác trên thị trường sản phẩm trong hợp đồng NQTM. Việt Nam có lẽ liên quan. Trong một số trường hợp, bên không nên theo cách làm của Pháp, mặc dù nhận quyền - về nguyên tắc là thương nhân việc hình thành án lệ và áp dụng án lệ đã độc lập - trở thành người làm thuê cho bên được công nhận ở Việt Nam, nhưng việc này nhượng quyền, hoặc trở thành bàn đạp để cũng có khá nhiều nhược điểm20. Có lẽ nhà cung cấp nước ngoài chiếm lĩnh thị chúng ta nên tham khảo cách làm của châu trường. Vậy phải điều hòa như thế nào lợi Âu, đó là có các quy định chuyên biệt về bí ích riêng của các bên trong hợp đồng và lợi quyết kinh doanh và nhãn hiệu trong NQTM. ích chung của thị trường? Pháp luật Việt 4. Mối quan hệ giữa nhượng quyền Nam chưa có câu trả lời rõ ràng cho các câu thương mại và pháp luật cạnh tranh hỏi này. Một trong những mục tiêu của NQTM Một nghiên cứu so sánh pháp luật của là nhân rộng mô hình kinh doanh đã được Việt Nam với pháp luật của Pháp và pháp bên nhượng quyền thực hiện thành công trên luật của Liên minh châu Âu21 đã cho thấy, một phạm vi địa lý nhất định. Vì vậy, việc pháp luật hợp đồng và pháp luật cạnh tranh tạo ra và duy trì tính độc đáo và đồng nhất mặc dù hướng tới các mục đích khác nhau của mô hình kinh doanh đóng vai trò then nhưng cùng có chung tác dụng là phòng chốt. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến mô ngừa và trừng phạt các thỏa thuận hạn chế hình kinh doanh là chất lượng hàng hoá, cạnh tranh. Tại Pháp, thẩm phán thường dịch vụ (gọi chung là sản phẩm); nhãn hiệu xuyên áp dụng kết hợp các quy định của hàng hoá, biểu tượng kinh doanh, tên pháp luật cạnh tranh và các quy định chung thương mại của bên nhượng quyền; hoạt của pháp luật hợp đồng để trừng phạt các động quảng cáo, khuyến mại; phương thức hành vi cản trở tự do cạnh tranh. Phân tích phục vụ; cách thức bài trí cơ sở kinh án lệ ở Pháp cho chúng ta thấy sự cân bằng doanh… Tính đồng nhất trong các mắt xích hợp đồng thiết lập bởi pháp luật dân sự và của chuỗi NQTM chỉ có thể được bảo đảm lôgic cạnh tranh thiết lập bởi pháp luật cạnh khi các bên nhận quyền tuân thủ trung thành tranh hòa nhập chặt chẽ với nhau trong một mô hình kinh doanh, khai thác bí quyết kinh mục đích cụ thể là phòng ngừa và trừng phạt doanh một cách nhất quán trong toàn mạng bên nhượng quyền lạm dụng thế mạnh của lưới NQTM. Để đạt được mục đích này, bên mình để ngăn cản bên nhận quyền tự do nhượng quyền thường đưa vào hợp đồng các cạnh tranh. Đây có thể cũng là một hướng điều khoản độc quyền về lãnh thổ, độc áp dụng cho các cơ quan giải quyết tranh quyền cung cấp sản phẩm, và trong một số chấp của Việt Nam, vì nó đặc biệt hiệu quả trường hợp còn ấn định giá bán lại sản để giải quyết các tranh chấp liên quan đến phẩm. Nếu như các thỏa thuận có bản chất các thỏa thuận cạnh tranh nhỏ (và như vậy hạn chế cạnh tranh này là cần thiết để duy được miễn trừ theo các quy định của pháp trì sự ổn định của hệ thống, bảo vệ bí quyết luật cạnh tranh). kinh doanh, uy tín của hệ thống, thì mặt Phân tích án lệ ở Pháp và ở châu Âu khác, chúng có thể ảnh hưởng tới lợi ích của cũng cho thấy, việc xác định các thỏa thuận bên nhận quyền, người tiêu dùng và các hạn chế cạnh tranh trên thực tế không hề đơn 20 Xem: Ngô Quốc Chiến và Medhi Kebir, Tính hồi tố của án lệ và thay đổi án lệ, Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 17 và 18 tháng 9/2013. 21 Ngô Quốc Chiến, Một số điều khoản độc quyền trong hợp đồng NQTM. So sánh pháp luật Việt Nam, Pháp và Liên minh châu Âu, tlđd. NGHIÏN CÛÁU 22 LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
  9. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT giản, đặc biệt là các thỏa thuận ấn định giá 5.2 Quyền của các bên trong hợp trá hình. Thẩm phán phải xem xét rất tỉ mỉ đồng NQTM đối với từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, bên Quyền của bên nhượng quyền và của cạnh việc nỗ lực làm rõ hơn các quy định bên nhận quyền được quy định lần lượt tại của pháp luật thì việc nâng cao trình độ của Điều 286 và Điều 288 Luật Thương mại đội ngũ giải quyết tranh chấp liên quan đến năm 2005. Chúng tôi khuyến nghị bỏ các các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng cần quy định này, vì hai lý do: Thứ nhất, quyền được đặc biệt chú ý. phát sinh từ hợp đồng NQTM do các bên tự Tại châu Âu, giống như đối với các do thỏa thuận mà không cần sự can thiệp của đối tượng sở hữu công nghiệp, các quy định cơ quan lập pháp; Thứ hai, hợp đồng NQTM liên quan đến cạnh tranh trong NQTM cũng có bản chất là hợp đồng song vụ, trong đó được quy định trong các văn bản luật quyền của bên này ứng với nghĩa vụ của bên chuyên ngành để có thể tính đến sự đặc thù kia, nên Luật chỉ cần quy định một số nghĩa của NQTM. Đây cũng là cách mà Việt Nam vụ bắt buộc mà các bên không thể loại trừ có thể áp dụng. thông qua thỏa thuận hợp đồng là đủ. 5.3 Nghĩa vụ của bên nhận quyền 5. Một số nội dung khác Điều 289 Luật Thương mại năm 2005 5.1 Điều kiện đối với bên nhượng liệt kê 7 nghĩa vụ khác nhau, trong đó có hai quyền loại nghĩa vụ cần được xem xét lại. Đây là nội dung được quy định tại Thứ nhất, liên quan đến nghĩa vụ cung Điều 5 Nghị định 35, theo đó một trong các cấp thông tin. Quy định này nên được sửa điều kiện để thương nhân được phép cấp22 đổi và bổ sung. Điều 289 Luật Thương mại quyền thương mại khi “hệ thống kinh doanh năm 2005 sử dụng khái niệm “nghĩa vụ” còn dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt Điều 9 Nghị định 35 lại coi đó là “trách động ít nhất 1 năm” (khoản 1). Quy định nhiệm”. Như đã phân tích, đây không phải thời gian hoạt động tối thiểu của bên nhượng là hai khái niệm đồng nhất. Điều 287 Luật quyền là 1 năm để có thể trở thành chủ thể Thương mại năm 2005 là một quy phạm tùy NQTM là không hợp lý. Thực tế cho thấy nghi, chỉ được áp dụng khi các bên “không trong NQTM, thời gian hoạt động không có thỏa thuận khác”. Như vậy, bên nhận đóng vai trò quyết định sự thành bại của cơ quyền có thể không cung cấp thông tin cho sở nhận quyền và hệ thống NQTM mà chỉ bên nhượng quyền nếu hợp đồng có điều có tác dụng củng cố niềm tin và sự an tâm khoản loại trừ. Trong khi đó, Nghị định 35 cho bên dự kiến nhận quyền. Thứ tạo ra coi đây là “trách nhiệm” mà bên nhận quyền niềm tin và sự an tâm nhất cho bên nhận không thể thoái thác. Như vậy đã có sự mâu quyền là khả năng sinh lời của hoạt động. Vì thuẫn giữa các văn bản. Cần coi cung cấp vậy, theo chúng tôi nên thay quy định về thông tin là một nghĩa vụ luật định mà các thời gian hoạt động bằng tiêu chí hoạt động bên không thể loại trừ bằng một thỏa thuận có lãi trong một khoảng thời gian nhất định. hợp đồng. 22 Về mặt thuật ngữ, không nên dùng từ “cấp” mang nặng tính hành chính, chỉ phù hợp với quan hệ giữa Nhà nước và tư nhân, mà nên dùng từ “nhượng” cho đúng với bản chất của NQTM. 23 Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: 1. Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết. 2. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. NGHIÏN CÛÁU Söë 05(333) T3/2017 LÊÅP PHAÁP 23
  10. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Thứ hai, liên quan đến nghĩa vụ giữ bí 5.4 Thời hạn và thời điểm có hiệu lực mật về bí quyết kinh doanh. Bí quyết kinh của hợp đồng NQTM doanh là một tập hợp các thông tin có khả Các nội dung này được quy định tại năng tạo lợi thế cho người sử dụng. Một bí các Điều 13 và 14 của Nghị định 35. Khoản quyết kinh doanh chỉ được bảo hộ khi chủ 2 Điều 14 không hợp lý khi không quy định sở hữu bảo mật nó bằng các biện pháp cần về mối quan hệ về hiệu lực của phần liên thiết. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải quan đến sở hữu công nghiệp và hợp đồng tất cả các thông tin cấu thành bí quyết kinh NQTM. Chẳng hạn, các bên thỏa thuận rằng doanh đều là các thông tin mật. Hơn nữa, hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực từ 1/1/2017, một bộ phận của bí quyết kinh doanh được nhưng cho tới tháng 2/2017 mà phần liên thể hiện ra bên ngoài thông qua các chính quan đến SHTT vẫn chưa có hiệu lực (vì lý sách quảng cáo, khuyến mãi, bài trí cửa do chưa xong thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hàng, đồng phục và phong cách phục vụ của hiệu chẳng hạn) thì hợp đồng có hiệu lực nhân viên… Bí quyết kinh doanh vào thời hay không? Luật Thương mại năm 2005 điểm kết thúc hợp đồng có thể khác với bí không cho câu trả lời. Theo chúng tôi, thời quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền hạn và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cung cấp cho bên nhận quyền vào thời điểm là những nội dung mà các bên có thể tự do giao kết hợp đồng, bởi bí quyết này có thể thỏa thuận, không nên quy định trong luật được chỉnh sửa theo thời gian cho phù hợp chuyên ngành. Trường hợp các bên không với thị trường. Đóng góp vào sự chỉnh sửa quy định thì áp dụng các quy định của Bộ bí quyết kinh doanh đó có thể có công sức luật Dân sự về hợp đồng. của bên nhận quyền. Vậy sẽ là không hợp lý 5.5 Đơn phương chấm dứt hợp đồng khi buộc bên nhận quyền không được tiết lộ NQTM và sử dụng những thông tin do chính mình Quy định của khoản 1 Điều 16 Nghị tạo ra. định 35 cho phép chúng ta hiểu rằng, chỉ cần Theo nguyên tắc thiện chí, bên nào có bên nhượng quyền vi phạm bất kỳ nghĩa vụ thông tin có khả năng ảnh hưởng đến quyết nào trong số 5 nghĩa vụ nêu tại Điều 287 định giao kết hợp đồng thì phải cung cấp Luật Thương mại năm 2005 là bên nhận cho bên kia. Và cũng trên cơ sở thiện chí, quyền có thể đơn phương chấm dứt hợp người nhận được thông tin mật trong quá đồng. Trong khi đó, lẽ ra một vi phạm phải trình giao kết hợp đồng có nghĩa vụ giữ bí đủ nghiêm trọng hoặc vi phạm lặp lại mới mật những thông tin ấy để không làm ảnh có thể dẫn tới việc đơn phương chấm dứt hưởng đến lợi ích của người đã cung cấp hợp đồng. Quy định này bất lợi cho bên thông tin cho mình. Quy định này đã được nhượng quyền, như có thể dẫn đến tình trạng luật hóa vào Bộ luật Dân sự năm 201523. bên nhận quyền lợi dụng những vi phạm nhỏ Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản của bên nhượng quyền để chấm dứt hợp hướng dẫn chỉ quy định nghĩa vụ giữ bí mật đồng NQTM. Ngoài ra, Điều 16 Nghị định đối với bên nhận quyền, mà không có quy 35 chỉ quy định trường hợp đơn phương định tương tự đối với bên nhượng quyền. chấm dứt hợp đồng là chưa hợp lý. Khi một Theo chúng tôi, cần bổ sung quy định về giữ bên vi phạm cơ bản hợp đồng khiến cho bên bí mật thông tin đối với bên nhượng quyền bị vi phạm không đạt được lợi ích mong và mở rộng phạm vi bảo mật, không chỉ đối muốn từ việc giao kết hợp đồng thì có thể với các thông tin được trao đổi trước khi ký dẫn tới chế tài hủy bỏ hợp đồng. Ngoài ra, kết hợp đồng, mà còn cả các thông tin trao khi hợp đồng mà các bên đặt tên hợp đồng đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng. NQTM có thể bị xác định lại bản chất, khi: NGHIÏN CÛÁU 24 LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
  11. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT i) thiếu một trong các yếu tố cấu thành bản cơ quan nhà nước dễ quản lý. Tuy nhiên, đến chất của hoạt động NQTM (nhãn hiệu, bí nay các quy định về đăng ký gây trở ngại quyết kinh doanh, trợ giúp kỹ thuật); ii) bên cho doanh nghiệp và làm chậm đà phát triển nhượng quyền trợ giúp thái quá khiến cho của mô hình kinh doanh này. Chúng tôi bên nhận quyền trở thành người làm thuê khuyến nghị bỏ toàn bộ các quy định về cho bên nhượng quyền. Cuối cùng, sự vi đăng ký, hoặc tích hợp các quy định nằm rải phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin có thể dẫn rác ở các văn bản nói trên vào một điều duy tới khả năng hợp đồng bị vô hiệu. nhất trong Luật Thương mại. Chúng tôi khuyến nghị bỏ quy định 5.8 Chế tài đối với hành vi vi phạm này vì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng pháp luật trong hoạt động NQTM hay hủy hợp đồng là các nội dung mà các Mức xử phạt hành chính hiện nay quá bên có thể tự do thỏa thuận. Trường hợp các thấp, không đủ sức răn đe. Nhiều nước đã bên không thỏa thuận thì áp dụng các quy có những chế tài hình sự áp dụng cho các vi định trong Chương VII Luật Thương mại phạm về nghĩa vụ cung cấp thông tin, thông năm 2005 hoặc các quy định của Bộ luật tin sai lệch24. Chúng tôi cho rằng, cần nâng Dân sự năm 2015. cao mức phạt để tăng tính răn đe, đồng thời 5.6 Nhượng quyền lại tích hợp các quy định rải rác ở các văn bản Khoản 1 Điều 290 Luật Thương mại khác nhau vào Luật Thương mại để đảm bảo dễ tiếp cận và áp dụng. Việc tích hợp cũng năm 2005 quy định: “Bên nhận quyền có có thể được thực hiện đối với các quy định quyền nhượng quyền lại cho bên thứ ba (gọi về thẩm quyền, thủ tục xử lý vi phạm hành là bên nhận lại quyền) nếu được sự chấp chính (Điều 25 Nghị định 35) và khiếu nại, thuận của bên nhượng quyền”. Khái niệm tố cáo (Điều 26 Nghị định 35). Việc tích hợp “nhượng quyền lại cho bên thứ ba” dễ gây này sẽ làm giảm được số lần quy dẫn (theo hiểu nhầm với “chuyển giao quyền thương cách quy định cũ thì Luật Thương mại năm mại” vốn thực chất là chuyển giao hợp đồng 2005 dẫn đến Nghị định 35, Nghị định 35 NQTM. Vì vậy, cần sử dụng thuật ngữ lại dẫn đến Nghị định 120). Nhiều lần quy “nhượng quyền thứ cấp” như đã nêu tại dẫn như vậy làm cho việc tiếp cận văn bản Nghị định 35. trở nên khó khăn hơn. Tương tự, liên quan 5.7 Đăng ký NQTM đến điều khoản giải thích từ ngữ (Điều 3 Các quy định về đăng ký NQTM nằm Nghị định 35), thẩm quyền quản lý nhà nước rải rác tại các Điều 291 Luật Thương mại đối với hoạt động NQTM (Điều 4 Nghị định năm 2005, Điều 17 Nghị định 35, Điều 3 35, Điều 3 Nghị định 120), và hàng hoá, Nghị định 120. dịch vụ được phép kinh doanh NQTM (Điều Thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm 7 Nghị định 35), các nội dung này cũng có quyền trước khi ký kết hợp đồng NQTM thể được tích hợp vào Luật Thương mại. làm cho hợp đồng này ngoài các thủ tục của Điều này sẽ cho phép tiết kiệm chi phí do một hợp đồng thương mại thông thường còn sửa luật kéo theo việc sửa các văn bản phải trải qua thêm một quá trình xét duyệt. hướng dẫn như trước đây. Ngoài ra, việc tích Các quy định này có thể là phù hợp khi hợp cũng giúp cho luật dễ tiếp cận để có thể NQTM mới xuất hiện ở Việt Nam, giúp cho áp dụng được ngay và hiệu quả n 24 Như trường hợp của Pháp, đã phân tích ở trên. NGHIÏN CÛÁU Söë 05(333) T3/2017 LÊÅP PHAÁP 25
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2