Điều kiện sống và thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở<br />
hai bản người dân tộc mông tại huyện Đồng Hỷ và huyện Võ Nhai<br />
tỉnh Thái Nguyên, năm 2011<br />
Lê Minh Chính1, Nguyễn Thị Bình2, Nguyễn Thị Hồng3, Tạ Quốc Bản4<br />
Chọn toàn bộ phụ nữ có thai (PNCT) và phụ nữ tuổi sinh đẻ 15-49, nghiên cứu mô tả cắt ngang,<br />
vào tháng 6/ 2011, nhằm: mô tả những bất cập trong đời sống kinh tế, xã hội và thực trạng công<br />
tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở 2 bản dân tộc Mông, ở huyện Đồng Hỷ và Võ Nhai tỉnh Thái<br />
Nguyên, nơi khó khăn nhất về kinh tế và công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) và làm<br />
mẹ an toàn (LMAT). Kết quả: 100% là hộ nghèo và cận nghèo. Thói quen không dùng hố xí<br />
chiếm 46,4%. Tỷ lệ mù chữ của phụ nữ 15-49 là 27,1%, TH 47,1% và THCS 24,7%. Tỷ lệ khám<br />
thai đủ số lần là 20,4%, PNCT uống sắt nhiều hơn 150 viên chỉ có 17,1% và tiêm phòng UV đủ<br />
mũi 48,1%. Tỷ lệ dưới 25,0% hiểu biết đúng về CSSKSS và LMAT. Sử dụng dịch vụ CSSKSS và<br />
kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) chiếm 20 - 30%.<br />
Từ khóa: điều kiện sống; sức khỏe sinh sản; người Mông; Lân Vai; Khe Cạn; Thái Nguyên<br />
<br />
Living condition and the status of reproductive health in two<br />
ethnic Mong villages in Dong Hy and Vo Nhai district, Thai Nguyen<br />
province in 2011<br />
Le Minh Chinh1, Nguyen Thi Binh2, Nguyen Thi Hong3, Ta Quoc Ban4<br />
Living conditions and the status of reproductive health in two ethnic Mong villages in Dong Hy<br />
and Vo Nhai district, Thai Nguyen province - 2011. Select all pregnancy women (PW) and women<br />
of childbearing age 15-49, cross-sectional descriptive study, in May/2011, to describe the gaps in<br />
economic life, society and the status of reproductive health in two villages of ethnic Mongolia, in<br />
Dong Hy & Vo Nhai districts, Thai Nguyen Pro, where the most difficult on economic, safe<br />
motherhood and reproductive health work. Results: 100% households are poor and near poor.<br />
People do not have the habit of using toilet the rate of 46.4%. Illiteracy rate of women 15-49 is<br />
27.1%, 47.1% Primary and secondary 24.7%. Prenatal care enough times the rate of 20.4%, PW<br />
take iron only 17.1% fully, vaccinated against tetanus 48.1% full nose. Knowledge of RHC and<br />
Safe Motherhood rate of 25.0% from the correct understanding. Use of family planning & RHC<br />
services accounted for 20- 30%.<br />
Keywords: Living condition; status of reproductive health; ethnic; Thai Nguyen province; 2011<br />
Tác giả:<br />
1<br />
<br />
Ts. Lê Minh Chính, Giảng viên chính Bộ Môn Phụ Sản, Trưởng khoa Phụ sản Bệnh viện Trường<br />
Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên. Địa chỉ: SN 284 Đường Lương Ngọc Quyến Thành phố<br />
Thái Nguyên. ĐTDĐ: 0912257863. Email: minhchinhyk@yahoo.com.vn.<br />
2<br />
<br />
Ths. Nguyễn Thị Bình, Giảng viên Bộ môn Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái<br />
Nguyên<br />
3<br />
<br />
Ths. Nguyễn Thị Hồng, Giảng viên Bộ môn Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái<br />
Nguyên<br />
4<br />
<br />
BS. Tạ Quốc Bản, Giảng viên Bộ môn Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên<br />
1<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Bản Lân Vai thuộc xóm Đồng Chuối, xã Dân Tiến huyện Võ Nhai và bản Khe Cạn, xã Văn<br />
Lăng huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên là hai bản của bà con dân tộc Mông ở Hà Quảng và Trà<br />
Lĩnh Cao Bằng chuyển đến từ 1980 - 1988. Các hộ gia đình tại hai bản đều ở trên các sườn núi đất<br />
và núi đá dốc, bốn bề là núi cao, ở giữa là thung lũng nhỏ hẹp, bị ngăn cách bởi núi cao, đèo dốc,<br />
đường độc đạo qua lại rất khó khăn. Hai bản cách trung tâm xã 5km và xa huyện lỵ gần 40 km.<br />
Điều kiện kinh tế, xã hội đều khó khăn vào bậc nhất của 2 huyện. Công tác chăm sóc sức khỏe<br />
sinh sản (CSSKSS), thực hiện làm mẹ an toàn (LMAT) ở nơi đây còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu<br />
nhằm mục tiêu: Mô tả những bất cập trong đời sống kinh tế, xã hội và thực trạng công tác chăm<br />
sóc sức khỏe sinh sản ở 2 bản dân tộc Mông.<br />
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
- Đối tượng, phương pháp và cỡ mẫu: Chọn toàn bộ phụ nữ có thai (PNCT) và phụ nữ tuổi<br />
sinh đẻ 15-49 người dân tộc Mông ở 2 bản Lân Vai và Khe Cạn. Nghiên cứu mô tả cắt ngang,<br />
vào tháng 6/ 2011. Phỏng vấn các đối tượng theo bộ câu hỏi. Kết hợp khảo sát nhà ở, chăn nuôi và<br />
các công trình nguồn nước, nhà tắm, hố xí.<br />
- Chỉ số nghiên cứu: Tỷ lệ các loại nhà ở, chăn nuôi và vật nuôi, 3 công trình. Chỉ số tiếp cận<br />
các dịch vụ CSSKSS, LMAT. Xử lý số liệu trên phần mềm Epi Info 6.04V.<br />
- Các chỉ tiêu đánh giá: Hố xí hợp vệ sinh là tự hoại hoặc hai ngăn, đảm bảo diệt mầm bệnh,<br />
không phát sinh ruồi nhặng, không làm bẩn đất xung quanh và tránh được thấm rỉ, không gây mùi<br />
hôi thối. Nước hợp vệ sinh: Trong, không mùi, xa chuồng gia súc, xa nhà vệ sinh > 20m [4]. Lấy<br />
chuẩn hộ nghèo theo quy định hiện hành.<br />
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN<br />
3.1. Thực trạng về đời sống kinh tế<br />
Bảng 1. Thực trạng nhà ở của nhân dân ở mỗi bản và tỷ lệ chung<br />
Bản<br />
Lân Vai (n = 53)<br />
Khe Cạn (n = 31)<br />
Cả 2 bản (n = 84)<br />
<br />
Nhà kiên cố<br />
n<br />
%<br />
6<br />
11,3<br />
9<br />
29,0<br />
15<br />
17,9<br />
<br />
Nhà bán kiên cố<br />
n<br />
%<br />
29<br />
54,7<br />
14<br />
45,2<br />
43<br />
51,2<br />
<br />
Nhà tạm<br />
n<br />
18<br />
8<br />
26<br />
<br />
%<br />
34,0<br />
25,8<br />
30,9<br />
<br />
Nhận xét: Tỷ lệ gia đình có nhà kiên cố còn thấp (11,3 và 29,0%), chủ yếu là nhà bán kiên<br />
cố (54,7 và 45,2%), tỷ lệ ở nhà tạm còn cao, chung cho cả 2 xã chiếm 30,9%.<br />
Nhìn chung các gia đình đều có nền nhà ở cao ráo, thoáng mát do địa hình đồi núi tạo nên,<br />
nhưng chưa vệ sinh, gọn sạch. Vệ sinh ngoại cảnh, như rãnh nước rất bẩn, ứ đọng. Rác thải không<br />
được thu gom xử lý, phân gia súc lan tràn bừa bãi. Thực trạng này cũng tương đương như kết quả<br />
nghiên cứu ở người dân tộc Mường vùng cao Tây Bắc của tác giả Đàm Khải Hoàn (1999) [2].<br />
Bảng 2. Tỷ lệ hộ gia đình có chăn nuôi của mỗi bản và các loại vật nuôi<br />
Bản<br />
Lân Vai (n = 53)<br />
Khe Cạn (n = 31)<br />
Cả 2 bản (n = 84)<br />
<br />
Có nuôi trâu/ bò<br />
n<br />
%<br />
17<br />
32,0<br />
18<br />
58,1<br />
34<br />
40,5<br />
<br />
Có nuôi lợn<br />
n<br />
%<br />
7<br />
13,2<br />
11<br />
35,5<br />
18<br />
21,4<br />
2<br />
<br />
Có nuôi gia cầm<br />
n<br />
%<br />
28<br />
52,8<br />
23<br />
74,2<br />
42<br />
50,0<br />
<br />
Nhận xét: Tỷ lệ gia đình duy trì chăn nuôi thấp, có nuôi trâu/ bò 32,0 và 58,1%, có nuôi lợn<br />
là 13,0 và 35,5%, có nuôi gà, vịt… là 52,8 và 74,2% (chủ yếu là vài con gà).<br />
Về chăn nuôi, có gia đình còn duy trì nuôi trâu để có sức cày kéo và là nguồn thu nhập.<br />
Nhưng vài năm nay các hộ đã giảm hẳn chăn nuôi. Một mặt sợ dịch, nhưng mặt khác vì giống<br />
nuôi đắt và thức ăn chăn nuôi cũng đắt. Bà con không tự sản xuất được con giống và thức ăn chăn<br />
nuôi. Mặc dù quanh nhà có vườn rộng, nhưng không biết và không thích trồng rau để chăn nuôi.<br />
Ngay cả rau xanh cây quả như rau muống, rau ngót, đu đủ, chanh, na… cũng ít có.<br />
Bà con vẫn còn thói quen phụ thuộc vào thiên nhiên, trông chờ vào rừng để khai thác nguồn<br />
lợi tự nhiên. Trong khi hiện nay đa số rừng đã lùi xa, ruộng thì có ít, nương rẫy thì bị sói mòn vì ở<br />
đồi núi dốc, khô hạn liên tục… Khi quan sát bữa ăn của nhiều gia đình ngoài cơm hoặc ngô bột đồ<br />
(mèn mén), có nhà không có canh rau gì. Với PNCT hầu hết chỉ có 1, 2 bữa ăn có thịt cá mỗi<br />
tháng. PNCT và trẻ nhỏ rất ít có điều kiện ăn hoa quả, đường sữa, bánh kẹo. Ăn thêm bữa, ăn vặt,<br />
ăn bổ dưỡng ở PNCT là khó thực hiện, vì mỗi ngày chỉ nấu ăn 2 bữa, sáng không nấu ăn, chỉ ăn<br />
cơm nguội của ngày trước. Tại bản Lân Vai, 100% là hộ nghèo (thu nhập dưới<br />
400.000đ/tháng/người), bản Khe Cạn cũng 100% là hộ nghèo và cận nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo có xu<br />
hướng tăng, nghèo ở ngay cả hộ gia đình cán bộ sở tại. Bà con suy nghĩ hưởng chế độ hộ nghèo là<br />
quyền lợi và nhiều người còn mong muốn là hộ nghèo.<br />
Bảng 3. Thực trạng nguồn nước của nhân dân ở mỗi bản và tỷ lệ chung cả 2 bản<br />
Bản<br />
Lân Vai n = 53<br />
Khe Cạn n =31<br />
Cả 2 bản (n = 84)<br />
<br />
Dùng nước hợp vệ<br />
sinh<br />
n<br />
%<br />
4<br />
7,5<br />
14<br />
45,2<br />
18<br />
21,4<br />
<br />
Nước không hợp vệ<br />
sinh<br />
n<br />
%<br />
29<br />
54,8<br />
8<br />
25,8<br />
37<br />
44,1<br />
<br />
Thiếu nước thường<br />
xuyên<br />
n<br />
%<br />
20<br />
37,7<br />
9<br />
29,0<br />
29<br />
34,5<br />
<br />
Nhận xét: Tỷ lệ gia đình có nước sạch ở bản Lân Vai rất thấp, chỉ 7,5%, còn lại 54,8%<br />
không hợp vệ sinh và 37,7% thường xuyên thiếu nước. Bản Khe Cạn, tỷ lệ có nước sách cao hơn<br />
45,2%, nước không hợp vệ sinh và thiếu nước là 25,8 và 29,0%.<br />
Bản Lân Vai chỉ có nguồn nước mỏ (nước mạch nhỏ lẻ, chảy ra từ khe đá, hẻm núi), không<br />
đủ lượng để xây dựng bể chứa và lọc. Việc dẫn nước về từng hộ còn mất vệ sinh, nguồn nước mỏ<br />
không thường xuyên có nước, mùa khô có rất ít và thường đứt mạch. Bản Khe Cạn có nguồn nước<br />
khá ổn định, có công trình được nhà nước đầu tư xây dựng, bể chứa và lọc trên thượng nguồn, hệ<br />
thống ống dẫn hợp lý, có nguồn nước duy trì 4 mùa. Tuy nhiên, tại một số hộ chưa có bể chứa hợp<br />
lý, không có nắp che đậy, không lau rửa bể, chum vại, bởi vậy vẫn có tình trạng nước bẩn.<br />
Bảng 4. Thực trạng hố xí của nhân dân ở mỗi bản và tỷ lệ chung cả 2 bản<br />
Bản<br />
Lân Vai (n = 53)<br />
Khe Cạn (n = 31)<br />
Cả 2 bản (n = 84)<br />
<br />
Có hố xí hợp vệ sinh<br />
n<br />
0<br />
0<br />
0<br />
<br />
%<br />
0<br />
0<br />
0<br />
<br />
Hố xí<br />
không hợp vệ sinh<br />
n<br />
%<br />
24<br />
45,3<br />
21<br />
67,7<br />
45<br />
53,6<br />
<br />
Không có hố xí<br />
n<br />
29<br />
10<br />
39<br />
<br />
%<br />
54,7<br />
32,3<br />
46,4<br />
<br />
Nhận xét: Cả 2 bản không có hố xí hợp vệ sinh, chủ yếu là không hợp vệ sinh và tỷ lệ không<br />
có hố xí còn cao, như bản Lân Vai 54,7%.<br />
<br />
3<br />
<br />
Gia đình có hố xí đều trong tình trạng mất vệ sinh, phổ biến là không có cửa, không nắp che<br />
đậy và rò rỉ. Những hộ không có hố xí đều đi tùy tiện quanh nhà trên núi. Nhà có hố xí, nhưng vẫn<br />
có người trong gia đình không sử dụng, vì có thói quen thích đi tùy tiện ngoài bụi cây. Có gia đình<br />
hố xí được xây do quỹ hỗ trợ, nhưng lối mòn ra hố xí đã bị cỏ mọc kín vì không có người qua lại.<br />
Khi trao đổi, bà con đều cho việc đó là bình thường vì có thói quen không dùng hố xí.<br />
Bảng 5. Thực trạng nhà tắm của nhân dân ở mỗi bản và tỷ lệ chung cả 2 bản<br />
Bản<br />
Lân Vai n = 53<br />
Khe Cạn n = 31<br />
Cả 2 bản (n = 84)<br />
<br />
Có nhà tắm<br />
hợp vệ sinh<br />
n<br />
%<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
<br />
Nhà tắm<br />
không hợp vệ sinh<br />
n<br />
%<br />
33<br />
62,3<br />
21<br />
67,7<br />
54<br />
64,3<br />
<br />
Không có nhà tắm<br />
n<br />
20<br />
10<br />
30<br />
<br />
%<br />
37,7<br />
32,3<br />
35,7<br />
<br />
Nhận xét: Gia đình có nhà tắm, đều tạm bợ, xây chật hẹp, không có hệ thống vòi nước tắm<br />
và đường dẫn nước thải, gây mất vệ sinh.<br />
Thực trạng vệ sinh môi trường, vệ sinh nhà ở, nguồn nước, nhà tắm và hố xí của đồng bào<br />
dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Mông nói riêng đã có một số nghiên cứu và đánh giá, nhiều<br />
chục năm nay có sự thay đổi nhưng chậm và thói quen không sử dụng hố xí vẫn là nổi bật, chưa<br />
giải quyết được cơ bản [1, 2, 5].<br />
3.2. Trình độ học vấn và tình hình CSSKSS<br />
Bảng 6. Trình độ văn hóa của phụ nữ nhóm tuổi 15 - 49 của 2 bản (đã nghỉ học)<br />
Chỉ số trình độ văn hóa<br />
Không biết chữ<br />
Tiểu học (TH)<br />
Trung học cơ sở (THCS)<br />
Trung học phổ thông (THPT)<br />
Cộng<br />
<br />
Lân Vai<br />
n = 49 %<br />
14<br />
28,6<br />
25<br />
51,0<br />
10<br />
20,4<br />
0<br />
0<br />
49<br />
100<br />
<br />
Khe Cạn<br />
n = 36 %<br />
9<br />
25,0<br />
15<br />
41,7<br />
11<br />
30,6<br />
1<br />
2,7<br />
36<br />
100<br />
<br />
Cả 2 bản<br />
n = 85 %<br />
23<br />
27,1<br />
40<br />
47,1<br />
21<br />
24,7<br />
1<br />
1,1<br />
85<br />
100<br />
<br />
Nhận xét: Tỷ lệ mù chữ chung ở phụ nữ 15-49 của 2 bản là 27,1%. Chủ yếu là tiểu học<br />
(47,1%), chỉ có 24,7% có trình độ THCS, trình độ THPT là hiếm.<br />
Trình độ học vấn thấp, tập trung ở cấp tiểu học và THCS (71,8%) là một thực tế ở 2 bản<br />
người dân tộc Mông nơi đây. Tìm hiều về việc học tập của trẻ em, cho thấy chỉ được diễn ra ở trên<br />
lớp. Đó là một thói quen, về nhà không ai nhắc nhở học ôn bài, bố mẹ không nhắc, ông bà chưa<br />
già, nhưng thuộc lớp người không biết chữ. Trong nhà cũng không có góc học tập, không có bàn<br />
học, không có đèn dành riêng cho các em học. Khảo sát 100% gia đình đều không có bàn ghế cho<br />
con ngồi học, mặc dù các nhà đều đủ rộng để có một chỗ làm góc học tập. Thất học và trình độ<br />
học vấn thấp là yếu tố bắt nguồn của các vấn đề bất cập ở người dân tộc thiểu số vùng cao, như<br />
tảo hôn, đời sống kinh tế thấp kém, văn hóa lạc hậu, thực hiện CSSKSS khó khăn…<br />
Lân Vai chưa có nhân viên y tế thôn bản (NVYTTB), đó là một yếu tố làm hạn chế tới công<br />
tác CSSKSS cho phụ nữ nơi đây. Tại 2 bản, chính quyền bản cũng không có phương tiện gì phục<br />
vụ cho truyền thông, như tiếp sóng đài truyền thanh hoặc loa phóng thanh có hệ thông tăng âm…<br />
Việc PNCT và phụ nữ tuổi sinh đẻ được hướng dẫn khám thai hay thực hiện kế hoạch hóa gia đình<br />
(KHHGĐ) là rất hạn chế, kết quả cũng thấp.<br />
<br />
4<br />
<br />
Bảng 7. Thực trạng khám thai ở PNCT và phụ nữ tuổi 18-49 ở lần có thai gần nhất<br />
Các chỉ số<br />
Khám 1 lần/3 quý<br />
Khám 2 lần/3 quý<br />
Khám ≥3 lần/3 q<br />
Khám thai định kỳ đúng đủ<br />
Khám vì có bệnh<br />
Khám Quý I<br />
Khám Quý II<br />
Khám Quý III<br />
<br />
Lân Vai<br />
n = 31<br />
%<br />
8<br />
25,8<br />
19<br />
61,3<br />
4<br />
12,9<br />
2<br />
6,5<br />
29<br />
93,5<br />
5<br />
16,1<br />
9<br />
29,0<br />
17<br />
54,8<br />
<br />
Khe Cạn<br />
n = 23<br />
%<br />
5<br />
21,7<br />
12<br />
52,2<br />
5<br />
21,7<br />
9<br />
39,1<br />
16<br />
69,6<br />
4<br />
17,4<br />
8<br />
34,8<br />
11<br />
47,8<br />
<br />
Cả 2 bản<br />
n = 54<br />
%<br />
13<br />
24,1<br />
31<br />
57,4<br />
9<br />
16,7<br />
11<br />
20,4<br />
45<br />
96,3<br />
9<br />
16,7<br />
17<br />
31,5<br />
28<br />
51,9<br />
<br />
Nhận xét: Thực hiện khám thai định kỳ chưa được tốt, các tỷ lệ về chăm sóc thai đều chỉ<br />
mức thấp, dưới 50%.<br />
Phỏng vấn chị em, đều nói là “không thấy làm sao, nên không thích đi khám”. Trong khi<br />
điều tra phỏng vấn, nhìn xét thực tế thấy PNCT đều có vóc dáng gầy yếu, mệt mỏi, không có hiểu<br />
biết đúng về thai nghén, dinh dưỡng và cần được thăm khám và tư vấn cũng như nhiều vấn đề<br />
khác như uống viên sắt, tiêm phòng uốn ván (UV)…<br />
Bảng 8. Thực trạng uống sắt, tiêm phòng ở PNCT và phụ nữ ở lần có thai gần nhất<br />
Các chỉ số<br />
Không uống sắt<br />
Có uống sắt (n = [22, 19, 41])<br />
- Uống sắt < 50 viên<br />
- Uống sắt 50- 100 v<br />
- Uống sắt >100 viên<br />
Tiêm phòng UV<br />
Tiêm đủ UV<br />
<br />
Lân Vai<br />
n = 31<br />
%<br />
9<br />
28,2<br />
22<br />
71,8<br />
10<br />
45,5<br />
8<br />
36,4<br />
4<br />
18,1<br />
28<br />
89,7<br />
11<br />
35,9<br />
<br />
Khe Cạn<br />
n = 23<br />
%<br />
4<br />
19,2<br />
19<br />
80,8<br />
8<br />
34,8<br />
8<br />
34,8<br />
3<br />
30,4<br />
21<br />
91,3<br />
15<br />
65,2<br />
<br />
Cả 2 bản<br />
n = 54<br />
%<br />
13<br />
24,1<br />
41<br />
75,9<br />
18<br />
43,9<br />
16<br />
39,0<br />
7<br />
17,1<br />
49<br />
90,7<br />
26<br />
48,1<br />
<br />
Nhận xét: Tỷ lệ PNCT uống viên sắt đủ và tiêm phòng UV đủ mũi còn rất thấp.<br />
Thói quen ở PNCT không uống viên sắt và uống không thường xuyên, bỏ dở…, (uống đủ<br />
phải từ trên 150-180 viên sắt). PNCT được cán bộ y tế cho biết cần phải uống viên sắt, đồng ý<br />
uống và mua thuốc, nhưng chỉ uống vài viên sau đó không uống nữa. Vì không hiểu biết tầm quan<br />
trọng phải uống viên sắt, hoặc vì có những hiểu biết sai lệch về uống viên sắt. Qua điều tra thấy<br />
việc bỏ không uống sắt của PNCT không do viên thuốc sắt gây nên, mà do chủ quan, thói quen bất<br />
cần, không hiểu tầm quan trọng hoặc do không tiếp thu lời khuyên của cán bộ y tế. Cũng tương tự<br />
như vậy với tiêm phòng UV, đồng ý với việc tiêm phòng, nhưng không quan tâm, bỏ quên.<br />
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hải Nguyên (2007) với dân tộc Cơ Ho tỉnh Bình Thuận và với<br />
một số dân tộc khác cũng có kết quả thấp kém như vậy [1- 3].<br />
<br />
5<br />
<br />