intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đồ án tốt nghiệp: Mối liên hệ giữa gió mùa và lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên trong thời kỳ gió mùa thịnh hành

Chia sẻ: Hi Hi | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:47

118
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đồ án tốt nghiệp: Mối liên hệ giữa gió mùa và lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên trong thời kỳ gió mùa thịnh hành là nhằm nghiên cứu về mối liên hệ giữa gió và lượng mưa; sự biến đổi của gió và lượng mưa qua từng năm tại Tây Nguyên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đồ án tốt nghiệp: Mối liên hệ giữa gió mùa và lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên trong thời kỳ gió mùa thịnh hành

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­o0o­­­­­­­­­­­­­­­­­­ ĐINH THỊ THU HUYỀN MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÓ MÙA VÀ LƯỢNG MƯA TRÊN KHU VỰC TÂY NGUYÊN TRONG THỜI KỲ GIÓ MÙA THỊNH HÀNH
  2. Hà Nội­ Năm 2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­o0o­­­­­­­­­­­­­­­­­­ ĐINH THỊ THU HUYỀN MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÓ MÙA VÀ LƯỢNG MƯA TRÊN KHU VỰC TÂY NGUYÊN  TRONG THỜI KỲ GIÓ MÙA THỊNH HÀNH            Chuyên ngành :  Khí tượng học             Mã ngành : D440221 Người hướng dẫn : ThS. Nguyễn Bình Phong
  3. Hà Nội­ Năm 2016
  4. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là sản phẩm nghiên cứu của bản thân, được xuất phát  từ yêu cầu bài toán phát sinh trong qua trình học tập để hình thành hướng nghiên  cứu được thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn. Mọi sự tham   khảo sử dụng trong đồ án đều được trích dẫn các nguồn tài liệu trong báo cáo và  danh mục tài liệu tham khảo. Các sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế của  nhà trường, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.  Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2016                                                                          Tác giả đồ án                                                                       Đinh Thị Thu Huyền
  5. LỜI CẢM ƠN Trên thực tế  không có sự  thành công nào mà không gắn liền với những sự  giúp đỡ  mọi người dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp. Trong suốt thời  gian học tập nhất là khi triển khai làm đồ án, em đã nhận được rất nhiều sự quan  tâm giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô, bạn bè và gia đình. Với một sự  tri ân và lòng biết  ơn sâu sắc, em xin gửi đến quý Thầy Cô   khoa Khí tượng Thủy văn­ Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã  dồn hết tâm huyết của mình để  truyền đạt tri thức cho chúng em. Tạo điều kiện  tốt nhất cho chúng em để hoàn thành đồ án này. Em xin gửi lời cảm  ơn sâu sắc đến ThS.Nguyễn Bình Phong, Phó trưởng  khoa Khí tượng thủy văn, thầy đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ  em rất nhiều  trong thời gian em làm đồ án này. Em cũng xin gửi lời cảm  ơn đến ThS.Phạm Minh Tiến, Phó trưởng khoa  Khí tượng Thủy văn đồng thời cũng là giáo viên chủ nhiệm của lớp em, cùng các   thầy cô giáo trong Khoa đã nhiệt tình giúp đỡ  em trong quá trình học tập tại   trường. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm  ơn chân thành tới gia đình và bạn bè đã luôn   giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình học tập  cũng như trong cuộc sống. Dù đã cố  gắng rất nhiều để  hoàn thành đồ  án nhưng không thể  tránh khỏi  những thiếu sót, mong thầy cô và các bạn có những ý kiến đóng góp để  em có  thể hoàn thiện và phát triển đề tài hơn.  Em xin chân thành cảm ơn!                                                                                                                                        Hà Nội, 10 tháng 6 năm 2016                                                             Sinh viên                                                           
  6.                                                            Đinh Thị Thu Huyền
  7. MỤC LỤC
  8. DANH MỤC BẢNG
  9. DANH MỤC HÌNH
  10. LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam thuộc khu vực châu Á gió mùa nên hầu hết các khu vực có chế độ  mưa đặc trưng của khí hậu gió mùa, với mùa mưa gần trùng với thời kỳ gió mùa   mùa hè, mùa khô vào thời kỳ gió mùa mùa đông. Mưa là một trong những nhân tố  hết sức quan trọng đối với mọi mặt của   đời sống kinh tế, sản xuất và xã hội. Ở khu vực Tây Nguyên, mùa mưa bắt đầu   từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10 gắn liền với hoạt động của gió mùa tây nam.   Vì vậy, dự báo lượng mưa cũng như sự biến đổi của nó có vai trò quan trọng đối  với các khu vực nghiên cứu nhất định. Một trong những nhân tố  quan trọng  ảnh hưởng đến lượng mưa trên khu   vực Tây Nguyên đó chính là chế độ gió. Chế độ gió thay đổi dẫn đến sự thay đổi  của lượng mưa. Do đó nghiên cứu sự ảnh hưởng cũng như mối liên hệ giữa chế  độ gió và mưa gió mùa là cần thiết tới khu vực.  Để hiểu chi tiết hơn về sự  ảnh hưởng của chế độ  gió tới lượng mưa Tây   Nguyên, trong đồ  án này em đã lựa chọn đề  tài có tên là “Mối liên hệ  giữa gió   mùa và lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên trong thời kỳ gió mùa thịnh hành”.  Kết quả của đồ án cho thấy sự biến đổi theo thời gian của lượng mưa khá   phù hợp với sự biến đổi của gió kinh hướng, gió vĩ hướng. Nội dung của đồ  án  ngoài mở đầu, kết luận và kiến nghị được bố cục trong 3 chương như sau. Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Chương 2. Số liệu và phương pháp nghiên cứu. Chương 3. Kết quả và nhận xét.
  11. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Khái quát khu vực nghiên cứu 1.1.1 Vị trí địa lí Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông  giáp   các   tỉnh Quảng   Ngãi, Bình   Định, Phú   Yên, Khánh   Hòa, Ninh   Thuận, Bình  Thuận,   phía   nam   giáp   các   tỉnh Đồng   Nai, Bình   Phước,   phía   tây   giáp   với   các  tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri,  Mondulkiri (Campuchia). Vùng khí hậu Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh, từ Bắc vào Nam lần lượt là Kon   Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, thuộc sườn phía tây của dãy  Trường Sơn ( Hình 1.1)   Hình 1. . Bản đồ khu vực Tây Nguyên Tây Nguyên có thể  chia thành ba tiểu vùng địa hình, đồng thời là ba tiểu   vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương  ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia  Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương  ứng với các tỉnh Đắk Lắk và   Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Ở phần phía bắc  có cao nguyên Gia Lai – Kon Tum cao 500­700m nằm  ở phía tây nam khối núi đồ  sộ  Kon Tum thượng với đỉnh vượt quá 2000m.  Ở  phần trung Tây Nguyên địa   hình khom như 1 cái chảo úp, mà phần lớn diện tích có độ cao 300­600m , tuy có 
  12. độ cao thấp hơn nhưng nền nhiệt độ ở đây lại cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và   phía Nam. Phần nam Tây Nguyên ngăn cách với cao nguyên Đắk Lắc bởi trũng   hồ  Đắk Lắc, gồm 2 cao nguyên bậc thềm là cao nguyên Lang Biang cao 1500m  và cao nguyên Di Linh cao 800­1000m. Phía đông gần bờ biển nhô lên những đỉnh   núi của dãy nam Trường Sơn. 1.1.2 Khí hậu Tây Nguyên Khu vực Tây Nguyên có nền nhiệt cao, hàng năm giữa mùa nóng và mùa   lạnh không chênh lệch nhiệt độ  đáng kể, nên nhiệt độ  hạ  thấp do độ  cao địa   hình.   Bức  xạ   tổng  cộng  150 –  170Kcal/cm 2,  cân bằng  bức  xạ  năm  70 –  100  Kcal/cm2, số giờ nắng năm 2000 – 2500 giờ. Nhiệt độ trung bình năm 24 – 280C,  nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất tới 24 – 280C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối 37  –400C, nhiệt độ tháng lạnh nhất 210C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 3 – 90C. Điều đáng chú ý  ở khí hậu Tây Nguyên là có 2 mùa, mùa khô và mùa mưa.  Mùa mưa từ  tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa tháng trên 200mm, mưa cực đại  vào tháng 8. Mùa khô hạn hán nghiêm trọng, từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, với   lượng mưa dưới 50mm. Lượng mưa trung bình năm 1400 – 2000mm, lượng mưa  ngày lớn nhất trên 200mm. Gió mạnh hơn vùng đồng bằng, tốc độ gió trung bình   năm 1,5  –  3,5m/s. Tốc độ  gió mạnh nhất 20  –  25m/s do ít  ảnh hưởng của bão.  Mùa đông thịnh hành gió Bắc, Đông Bắc. 1.1.3 Gió mùa mùa hè và chế độ mưa ở Tây Nguyên a. Khái niệm gió mùa Theo Khromov: “Gió mùa là hoàn lưu của khí quyển trên một phạm vi rộng   lớn của bề  mặt trái đất, trong đó gió thịnh hành giữa mùa đông và mùa hè có   hướng gần như ngược nhau”.  Về  hướng gió Khromov còn đưa ra một chỉ  tiêu định lượng là góc tạo bởi   hướng gió thịnh hành của hai mùa phải lớn hơn hoặc bằng 120 0 và góc này được  gọi là góc gió mùa. K.Ramage (1971) đã đưa ra một số chỉ tiêu định lượng cụ thể đó là: 1. Hướng gió thịnh hành trong tháng 1 và tháng 7 phải lệch nhau một góc lớn   hơn hoặc bằng 1200.
  13. 2. Tần suất trung bình của hướng gió thịnh hành trong tháng 1 và tháng 7 phải  lớn hơn 40%. 3. Tốc độ  gió tổng hợp trung bình của ít nhất một trong hai tháng phải lớn  hơn hoặc bằng 3m/s. 4. Sự  luân phiên của hoàn lưu xoáy thuận với xoáy nghịch xảy ra trong hai   tháng này của hai năm liên tiếp, trên 1 vùng có kích thước 5kinh/vĩ độ  phải nhỏ  hơn một lần. Như vậy, một vùng được gọi là có gió mùa khi thỏa mãn 4 điều kiện trên. Gió mùa mùa hè  ­ Hệ thống gió mùa bắt nguồn từ áp cao Mascaren Gió mùa Nam Á (hay còn gọi là gió mùa Tây nam) được đặc trưng bởi các  thành phần: (1) Áp cao Mascarene, (2) Dòng xiết vượt xích đạo Đông Phi, (3)   Rãnh gió mùa, (4)  Áp cao Tây Tạng,  (5) Dòng xiết gió đông nhiệt  đới, (6)   Mây­Mưa gió mùa [11]. (1) Áp cao Mascaren: Áp cao Mascaren là một áp cao thuộc hệ thống áp cao  cận nhiệt đới nằm trên nam Ấn Độ Dương có tâm vào khoảng 30 0S và 500E trên  đảo Mascaren. Trị  số  khí áp trung bình trong tháng tại trung tâm vào khoảng  1024mb. Vào thời khì mùa hè  ở  bán cầu bắc, tín phong đông nam từ  áp cao này  vượt qua xích đạo trên khu vực đông phi thành dòng vượt xích đạo Đông Phi. (2) Dòng xiết vượt xích đạo đông phi: là một dòng chảy vượt qua xích đạo  tầng thấp trong mùa gió mùa mùa hè. Dòng xiết Đông Phi hay dòng xiết Somali  đạt cường độ  cực đại vào các tháng 7­ 8 và tách làm hai nhánh ở  khoảng 10 0 N,  600 E. Hai nhánh này vượt qua phần Nam biển Ả Rập rồi tới miền Trung và  Tây  nam duyên hải  Ấn Độ. Dòng xiết này thể  hiện mạnh nhất trên mực 1­1,5 km.   Người ta đã nhận thấy rằng đã có mối quan hệ  tỷ  lệ  thuận giữa cường độ  của   dòng xiết này với lượng mưa trên miền tây Ấn Độ (3) Rãnh gió mùa: Rãnh gió mùa vốn là một rãnh khí áp nóng tầm thấp, là  một phần của rãnh xích đạo toàn cầu của mùa hè  ở  bán cầu Bắc. Khi gió mùa  mùa hè vượt xích đạo thổi tới hội tụ ở rãnh cùng với gió đông ở rìa phía cực của  rãnh thì tiềm năng của rãnh tăng lên đáng kể, nó có thể phát triển lên các tầng cao  
  14. hơn đến giữa tầng đối lưu, và rãnh thấp nóng nghèo tiềm năng trước đấy trở  thành rãnh gió mùa. Vị  trí trung bình của rãnh xích đạo trong các mùa chủ  yếu   theo tiêu chí của Ramage, vị trí trung bình của rãnh xích đạo biến đổi từ 18 0N trên  vùng Tây Phi lên đến 300N trên Tây Tạng. Rãnh gió mùa với cực tiểu khí áp có trị  số  khoảng 995mb trên vùng Pakistan, kéo dài từ  tây Bắc Phi đến Biển Đông.   Toàn bộ vùng rãnh bao gồm những áp thấp nóng lục địa mùa hè trên Bắc Phi, Ả  Rập và cao nguyên Tây Tạng. Nhờ gió mùa và hơi ẩm do gió mùa mang tới, các  áp thấp này  ở  mức  độ  khác nhau  đều tàng trữ  một năng lượng bất  ổn nhất   định.Vị trí của trục rãnh gió mùa biến động rất lớn. Khi trục nằm phía nam vị trí   trung bình và giới hạn phía Đông của nó lấn sang phía Bắc vịnh Bengal thì gió  mùa hoạt động mạnh. Ngược lại, khi trục rãnh dịch chuyển về  phía bắc gần  chân dãy Himalaya thì đó là thời đoạn gián đoạn của gió mùa trên hầu khắp  Ấn  Độ, ngoại trừ một vùng mưa lớn xuất hiện trên phần Đông Bắc Ấn Độ . (4) Áp cao Tây Tạng: là một cao áp tồn tại trong tầng đối lưu trên ở  vùng   bắc Ấn Độ, ngay trên áp thấp gió mùa mặt đất. Vào tháng 7 cao áp này hoạt động  trên cao nguyên Tây Tạng và duy trì  ở  đây cho tới tháng 9. Sau đó nó di chuyển  về phía Đông Nam khi dải đốt nóng cực đại ở mặt đất và áp thấp di chuyển về  phía nam và cùng với sự bắt đầu của mùa hè bán cầu Nam.  (5) Dòng xiết gió Đông nhiệt đới Dòng gió  ở  rìa phía Nam của áp cao Tây  Tạng là dòng xiết gió đông nhiệt đới. Dòng xiết này duy trì từ  tháng 7­9, trước   khi áp cao Tây Tạng suy yếu. Đây là một trong những đặc trưng bền vững nhất   của gió mùa mùa hè.  Nguyên nhân hình thành áp cao Tây Tạng và dòng xiết này có thể  là do sự  tồn tại của nguồn nhiệt Himalaya­ Tây Tạng. Một vòng hoàn lưu Hadley được  nhận biết một cách rõ ràng đang hoạt động trên vùng dòng vào của dòng gió xiết   đông nhiệt đới trên khu vực Đông Nam Á và một dòng hoàn lưu Hadley không rõ   ràng ở vùng dòng ra trên khu vực Châu Phi. Với hoàn lưu như vậy, dọc theo dòng   xiết, một vùng chuyển động thăng rộng lớn với thời tiết mây mưa phía bắc dòng  xiết trên khu vực Nam  Ấn Độ  và một vùng chuyển động Giáng quy mô lớn với  thời tiết khô hạn trên khu vực Băc Phi và Trung Đông. 
  15. (6) Mây và mưa gió mùa: Màn mây là thành phần quan trọng của gió mùa Ấn   Độ trên khu vực này. Trong thời kỳ gió mùa hoạt động, trên khu vực từ bờ biển   phía tây vịnh Bengal tới bắc vịnh Ả Rập, một màn mây dày đặc. Hình 1. . Các thành phần của gió mùa Nam Á.  ­  Hệ thống gió mùa bắt nguồn từ áp cao châu Úc Ngoài ra còn 1 hệ thống gió mùa tây nam khác bắt nguồn từ áp cao châu Úc   với các thành phần sau: (1) Áp cao châu Úc, (2) Dòng gió vượt xích đạo, (3) Gió  mùa tây nam và (4) Rãnh thấp gió mùa [11]. (1) Áp cao châu Úc: là áp cao lạnh lục địa, tồn tại bán vĩnh cửu ở dưới 30 0  của bán cầu Nam. (2) Dòng gió vượt xích đạo: dòng gió từ  bán cầu Nam vượt xích đạo  ở  khoảng 1100E đi lên biển Đông. (3) Gió mùa tây nam: khi dòng gió vượt xích đạo thì đổi hướng thành gió tây   nam thổi vào lục địa. (4) Rãnh thấp gió mùa: là rãnh khí áp thấp nóng đóng vai trò hút gió, phát  triển lên cao, lượng ẩm lớn bất ổn định và có khả năng gây mưa lớn. b. Quy luật hoạt động của gió mùa
  16. Quy luật hoạt động của gió mùa tây nam gắn chặt với các thành phần của   gió mùa, được quyết định bởi quy luật hoạt động của các thành phần gió mùa,   mà trước hết là các trung tâm phát gió và các trung tâm hút gió. Các trung tâm phát   gió là những áp cao  ở hai bán cầu, còn trung tâm hút gió là rãnh gió mùa, dải hội   tụ nhiệt đới. Khi các trung tâm phát gió và hút gió mạnh lên thì gió mùa sẽ mạnh  lên và ngược lại. Ngày mở  đầu, ngày kết thúc của gió mùa tây nam đã được nhiều tác giả  nghiên cứu với những chỉ  tiêu khác nhau đã đưa ra những kết quả  về  ngày mở  đầu cũng như ngày kết thúc khác nhau. Tuy nhiên, sử dụng chỉ tiêu mưa của Ding  Yihui và Liu Yanju, đã xác định được ngày mở đầu của gió mùa tây nam trên khu  vực Tây Nguyên là ngày 11/5 và ngày kết thúc là ngày 14/10.  Sự bắt đầu của gió  mùa mùa hè ( gió mùa tây nam) được đặc trưng bởi sự thay đổi trong lượng mưa  và có thể biến đổi từ năm này qua năm khác phụ thuộc vào hoạt động mạnh hay  yếu của hoàn lưu. Trong khi đó sự rút lui của gió mùa mùa hè xảy ra vào khoảng  giữa tháng 9 đến tháng 10, lúc này do sự di chuyển về phía Nam Bán Cầu nên có   sự biến đổi mùa hè sang mùa đông của các hoàn lưu. Như  vậy hình thế  bắt đầu của gió mùa mùa hè  ở   Tây Nguyên là hệ  quả  của sự thay đổi cấu trúc hoàn lưu quy mô lớn ở Đông Nam Á. Đến cuối tháng 4,   đầu tháng 5 gió tây nam thịnh hành. Hoạt động của gió Tây nam có liên quan nhiều đến chế  độ  mưa: Những   năm gió mùa Tây nam  ổn định và ít biến động thì phân bố  mưa cũng tương đối  ổn định. Những năm gió mùa Tây nam hoạt động mạnh thì lượng mưa có xu  hướng tăng trung bình nhiều năm. Thời kỳ gió Tây nam hoạt động mạnh thường   liên quan đến thời kỳ mưa nhiều. c. Mưa ở Tây Nguyên Khu vực Tây Nguyên do địa hình tương đối cao với các dãy núi chạy dài  theo hướng bắc – nam đặc biệt với dãy Trường Sơn, vì vậy sự tương phản giữa   mùa mưa và mùa khô rất sâu sắc do tác dụng chắn gió của dãy Trường Sơn.  Trong thời kỳ gió mùa mùa hè, lượng mưa năm lớn, nơi có lượng mưa lớn nhất  thường nằm ở sườn phía tây nam của các cao nguyên, ở các thung lũng khuất gió   lượng mưa giảm đi rõ rệt. Kết quả  là lượng mưa mùa hè rất lớn đóng góp trên 
  17. 90% lượng mưa toàn năm và nâng cao lượng mưa toàn năm lên những giá trị  thuộc loại cao ở nước ta kéo theo đó độ ẩm mùa hè cũng rất cao thường từ 85%   trở lên. Trái lại về mùa đông gió tín phong Đông Bắc sau đi qua biển mang lượng  ẩm lớn cho mưa ở bên sườn đông, vượt qua núi sang sườn tây lại chịu hiệu ứng  phơn không khí trở  nên nóng và khô hơn. Đồng thời do sự  phân hóa không gian  của khí hậu trong phạm vi đồi núi Tây Nguyên, tùy vào độ  cao và dạng địa hình  khu vực nhỏ mà các điều kiện khí hậu sẽ khác nhau nên yếu tố mưa cũng có sự  thay đôi, chênh lệch nhau, mùa mưa ở bắc Tây Nguyên chấm dứt sớm hơn, trong  khi nam Tây Nguyên vào tháng 10. Trung Tây Nguyên có lượng mưa nhỏ hơn bắc  và nam Tây Nguyên. Khu vực nam Tây Nguyên lượng mưa khá lớn, xấp xỉ  như  bắc Tây Nguyên. Hình 1. . Biểu đồ lượng mưa trung bình từng tháng giai đoạn 1980­2014 của các   trạm thuộc khu vực Tây Nguyên Biến trình mưa ở Tây Nguyên thuộc loại biến trình của vùng nhiệt đới gió  mùa: có sự  phân hóa biến trình mưa  ở  bắc và trung, nam Tây Nguyên. Lượng  mưa tập trung vào mùa gió mùa mùa hè, chênh lệch lượng mưa giữa mùa mưa và  mùa ít mưa rất lơn. Nhìn vào hình 1.3 cho thấy phân bố  mưa trong năm thường tập trung vào   thời kỳ  từ  tháng 5 tới tháng 10, lượng mưa cực đại của hầu hết là vào khoảng  tháng 8 đây là thời kỳ thịnh hành của gió Tây nam, cũng là thời kỳ mùa hè. Trong  
  18. khi đó mùa khô rơi vào các tháng mùa đông, lượng mưa trung bình 35 năm từ 1980  đến 2014 là rất nhỏ  so với thời kỳ  mùa hè. Tổng lượng mưa trong mùa mưa   chiếm trên 75% tổng lượng mưa năm ở hầu hết các trạm. 1.2 Tổng quan các nghiên cứu về gió mùa, mưa gió mùa Đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên  cứu, tìm hiểu về gió mùa mùa hè và ảnh hưởng của nó đến lượng mưa, cho các  khu vực bị chi phối. Các công trình nghiên cứu cũng đã chỉ ra được mối quan hệ  gió mùa hè và lượng mưa hay chế độ ẩm  trên các khu vực đó. Trên thực tế trong  những năm gần đây sự  biến đổi về  lượng mưa đã có phần thay đổi ảnh hưởng  đến đặc điểm khí hậu của một số vùng. 1.2.1 Một số nghiên cứu trên Thế giới Các nhà khoa học trên thế giới đã nhận thấy có sự liên hệ giữa mưa và gió  mùa. Khi có sự thay đổi của gió mùa, kèm theo lượng mưa, cường độ  mưa thay   đổi. Dựa trên những tiến bộ của khoa học kĩ thuật ,áp dụng thành tựu đó nên sự  tìm hiểu về  gió mùa càng dễ  dàng hơn, dưới các phương pháp khác nhau như  synop, thống kê, chạy mô hình để có thể nắm bắt được chu kỳ hoạt động và khả  năng chi phối đến thời tiết, khí hậu. Dưới đây trình bày tổng quan về  một số  nghiên cứu về gió mùa, mưa gió mùa và chế độ  ẩm của các nhà nghiên cứu trên  thế giới. Năm 1984 , Watts và cộng sự  trong bài báo  “Nghiên cứu về  mối quan hệ   của tốc độ  gió và lượng mưa trên thềm lục địa thông qua âm thanh” [12]. Kết  quả    là bằng chứng đáng khích lệ  cho khả  năng sử  dụng các phép đo tiếng  ồn   môi trường xung quanh trong việc ước tính cả tốc độ gió và lượng mưa. Vào năm 2002,  Bright và cộng sự  trong nghiên cứu  “Dự  báo hạn ngắn về  lượng mưa trong thời kì gió mùa tây nam” đã sử  dụng mô hình MM5 để  dự  báo  lượng mưa trên khu vực Arizona trong thời kì gió mùa tây nam [13]. Tham số hóa  mây cumulus được đưa vào mô hình để sử dụng. Dựa trên việc chạy mô hình dự  báo với 97 × 97 điểm lưới với độ phân giải ngang là 36km. Mô hình này có 27 lớp   thẳng đứng lên tới độ cao 200hpa từ bề mặt. Qua đó cho thấy lượng mưa dự báo  có xu hướng tập trung ở những vùng mây Cumulus phát triển mạnh đồng thời cũng 
  19. thể hiện được mối liên quan của lượng mưa trong thời kì gió mùa Tây nam thịnh  hành. Vào năm 2008 tác giả Riser đã quan sát sự thay đổi của  lượng mưa và tốc   độ  gió thu thập trên khu vực Vịnh Bengal từ  các trạm phao đặc biệt Argo với   đề tài “Nghiên cứu  ảnh hưởng của gió mùa  ở vịnh Bengan dựa trên tốc độ  gió   và  lượng  mưa”  [16].  Ngoài  các  cảm biến  bình  thường,  các  trạm phao  Argo   được đặt gói cảm biến tự    động giúp giám sát quang phổ  của tiếng  ồn,   âm  thanh dọc theo quỹ  đạo trong  khoảng thời gian vài phút. Sau đó sử  dụng một   tập hợp các thuật toán hiện có để ước tính tốc độ  gió và tốc độ  mưa từ  những  tiếng ồn quang phổ. Kết quả nhận được đó là các tín hiệu gió mùa mạnh ở vịnh  Bengal có liên quan chặt chẽ tới lượng mưa. Gần đây hơn, năm 2009 Nuijens và cộng sự đã nghiên cứu về mối quan hệ  giữa tốc độ  gió, độ   ẩm và lượng mưa đối lưu mực thấp. Kết quả  cho thấy sự  thay đổi giữa tốc độ gió, độ ẩm và lượng mưa tương đồng lượng giáng thủy gây   ra do đối lưu sâu. Các tác giả đã nhận định rằng những cơn gió mạnh hơn, cùng   với sự  tăng cường bốc hơi từ  bề  mặt và xáo trộn  của không khí  ẩm, dẫn đến  những vùng đối lưu trong các đám mây cumulus phát triển mạnh và gây ra mưa   nhiều hơn [15]. Năm 2011, Conroy và cộng sự  đã xác định các miền gió mùa và hệ  thống   gió mùa châu Á bằng cách sử  dụng phương pháp trực giao thực nghiệm (EOF)   [14]. Trong nghiên cứu này, sự  biến đổi của lượng mưa trong khu vực gió mùa   Châu Á được xác định thông qua lượng mưa dị  tường hàng tháng. Theo đó các  tác giả  sử  dụng bộ  số liệu bao gồm: sản phẩm tái phân tích lượng giáng thủy  CMAP hàng tháng kéo dài từ tháng 1 năm 1979 đến tháng 9 năm 2009, và các dữ  liệu mưa của sản phẩm dự án lượng mưa toàn cầu GPCP hàng tháng kéo dài từ  tháng 1 năm 1979 đến tháng 7 năm 2009 và bộ dữ liệu TRMM chứa dữ liệu tốc   độ  giáng thủy tính bằng mm mỗi giờ, có độ phân giải không gian 0.250 × 0.250,  và kéo dài từ  tháng Giêng năm 1998 đến tháng năm 2009.  Từ  các số  liệu mưa  các tác giả lấy căn bậc hai của mỗi lượng mưa hàng tháng, tiến hành phân phối  dữ  liệu. Cùng với số  liệu áp suất mực nước biển (SLP) và dữ  liệu gió 850mb   các tác giả  thực hiện phân tích mưa dị  thường hàng tháng theo dạng lưới cho   mỗi vùng  trong ba bộ  dữ  liệu sử  dụng MATLAB, phân tích các ma trận mưa  
  20. theo thời gian­không gian vào vector riêng và giá trị  riêng liên quan để  tìm khu  vực có mưa dị  thường. Tiến hành phân tích trên các ma trận tương quan, xem  xét các khu vực có lượng mưa khác nhau và muốn phân định vùng có lượng mưa  thay đổi  theo mùa. Kết quả là lượng mưa trên toàn khu vực gió mùa châu Á là   không đồng nhất, có phân bố  không gian phức tạp phụ  thuộc vào chế  độ  gió  theo mùa. Tác giả Kripalani và cộng sự đã khảo sát sự biến đổi của lượng mưa trong   thời kì gió mùa mùa hè thông qua các mô hình khí hậu [17]. Kết quả của nghiên  cứu được sử  dụng trong báo cáo lần thứ  4 của liên ban chính phủ  về  biến đổi  khí hậu (AR4). Kiểm tra đầu ra của 22 mô hình, thì có 19 mô hình có thể  nắm  bắt được lượng mưa  cực đại  trong thời kỳ  gió mùa mùa hè (từ  tháng 6 đến  tháng 9), có 2 mô hình không nắm bắt được chu kỳ  biến đổi trong năm của   lượng mưa, 1 mô hình còn lại là không thể mô phỏng được gió mùa mùa hè. Các  biến trình mô phỏng từ 19 mô hình với lượng mưa trung bình 500mm ­ 900mm  và hệ số biến thiên từ 3­13%, xu hướng dài hạn 2 năm 1 lần. Trong khi có 7 mô  hình nghiên cứu xu hướng hạn dài, 8 mô hình mô phỏng tính chất hai năm của   lượng mưa gió mùa, 6 mô hình cho ra khí hậu gió mùa thế  kỷ  20 thực tế  nhất   cho phía Nam Á, được lựa chọn để kiểm tra dự báo tương lai theo kịch bản tăng   gấp đôi CO2. Dự báo cho thấy sự tăng đáng kể trong mùa mưa, trung bình lượng   mưa ở mức 8% và có thể kéo dài thời gian xảy ra gió mùa. 1.2.1 Một số nghiên cứu trong nước Ở   nước ta, trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang là một vấn đề  nóng và   cấp thiết, có rất nhiều các tác giả  quan tâm đến sự  biến đổi của lượng mưa   trong những năm gần đây cũng như  sự   ảnh hưởng của chế  độ  gió đến lượng   mưa. Dưới đây là một số bài báo, nghiên cứu của các tác giả đã được công bố. Năm 1999, tác giả Phạm Thị Thanh Hương và Trần Trung Trực đã sử dụng  số  liệu mưa quan trắc lấy trung bình trượt năm ngày và gió vĩ hướng 850 hPa để  xác định thời điểm bùng nổ gió mùa mùa hè trên khu vực Nam Bộ [3]. Cụ thể, khi  lượng mưa vượt 25 mm/ngày hoặc gió vĩ hướng 850hPa chuyển từ   thành phần  hướng đông sang hướng tây thì có thể  xem là xảy ra  bùng nổ  gió mùa. Kết quả 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2