intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đồ án tốt nghiệp: Xác định thời gian thu hoạch sâu chết để thu nhận virus NPV trên sâu khoang ăn tạp Spodoptera litura

Chia sẻ: Trương Yến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:63

43
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đồ án tốt nghiệp này được thực hiện với mục tiêu nhằm cung cấp những dữ liệu khoa học là cơ sở cho việc xác định thời gian thu nhận sâu chết để thu nhận NPV trên sâu khoang ăn tạp Spodoptera litura thích hợp trong quy trình sản xuất sinh khối lớn NPV nhằm cung cấp cho quá trình sản xuất chế phẩm NPV trên quy mô lớn. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đồ án tốt nghiệp: Xác định thời gian thu hoạch sâu chết để thu nhận virus NPV trên sâu khoang ăn tạp Spodoptera litura

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP XÁC ĐỊNH THỜI GIAN THU HOẠCH SÂU CHẾT ĐỂ THU NHẬN VIRUS NPV TRÊN SÂU KHOANG ĂN TẠP SPODOPTERA LITURA Ngành: CÔNG NGHỆ SINH HỌC Chuyên ngành: CÔNG NGHỆ SINH HỌC Giảng viên hướng dẫn : TS. NGUYỄN THỊ HAI Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ DIỄM CHI Lớp: 11HSH02 MSSV: 1191111006 TP. Hồ Chí Minh, 2013
  2. Đồ án tốt nghiệp LỜI MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Việt Nam là một nước nông nghiệp có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm nên rất thuận tiện cho cây trồng phát triển. Đồng thời với cây trồng phát triển là sâu bệnh hại cũng phát sinh, chúng gây hại đáng kể đến năng suất. Theo thống kê của Cục Bảo vệ thực vật, hàng năm các loại dịch hại, bệnh hại đã làm giảm 35 – 40 % tổng sản lượng, mặt khác làm giảm phẩm chất của nông sản. Để bảo vệ cây trồng thì mức chi phí cho công tác bảo vệ thực vật, phòng trừ dịch hại đã không ngừng tăng lên trong phạm vi toàn quốc. Trong đó, đáng đề cập đến là loài sâu khoang ăn tạp (Spodoptera litura), theo ước tính loài sâu này có thể gây hại trên 290 loại cây trồng thuộc 99 họ thực vật. Ở nước ta chúng là loài gây hại quan trọng trên các loại rau họ thập tự, cà chua, đậu đũa, bầu bí, rau muống, khoai lang, thuốc lá, bông, thầu dầu, điền thanh,… (Nguyễn Đức Khiêm, 2006). Để phòng trừ và làm giảm thiệt hại gây ra do sâu, bệnh hại nói chung và loài sâu khoang ăn tạp (Spodoptera litura) nói riêng người nông dân đã sử dụng nhiều biện pháp phòng trừ như canh tác thủ công, luân canh, chuyên canh, chọn tạo giống mới, dùng thuốc hóa học. Trong đó biện pháp sử dụng thuốc hóa học được xem là phổ biến vì dễ áp dụng, có hiệu quả ngay, kịp thời và hiệu quả cao mà giá thành lại rẻ. Nhưng việc sử dụng thuốc trừ sâu hóa học gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, để lại dư chất hóa học trong nông sản, giảm số lượng sinh vật có ích, làm mất cân bằng sinh thái trong tự nhiên, làm tăng tính kháng thuốc của sâu bệnh,…đã làm cho việc phòng trừ sâu hại trở nên kém hiệu quả: Riêng đối với loài thiên địch, El zen, G.W.et al (1987) cho thấy thuốc hoá học trừ sâu có gốc lân hữu cơ và caramat rất độc, gây chết 100% ong Microphilitis Croleipes (một loài ký sinh của sâu xanh). Ở việt nam, các tác giả Vũ Quang Côn và ctv (1993), Nguyễn Thị Hai (1996), Phạm Hữu Nhược (1996) đều cho rằng phun thuốc hoá học làm giảm mật độ của các loài ăn thịt, ong mắt đỏ và các loài ong ký sinh khác. Trang 1
  3. Đồ án tốt nghiệp Việc phân tích các thí nghiệm ở California đã chỉ ra rằng sử dụng thuốc hoá học một cách không thận trọng đã kìm hãm sự phát triển tự nhiên của sâu hại, là nguyên nhân làm cho sâu hại tái phát, mật độ sâu sau khi xử lý thuốc cao hơn trước khi xử lý (Mariechel, J. Navarro, (1985). Tình hình sâu xanh tái phát cũng đã phát hiện ở trung quốc: Theo tổng kết của Sheng, C.F (1993), sau một năm sử dụng thuốc học đơn độc để trừ sâu, mật độ sâu xanh năm 1992 mật độ sâu xanh lên cao hơn 40 lần so với năm 1982. Ở Việt Nam, Nguyễn Thơ (1993), cũng có nhận xét nếu phun thuốc không đúng quy định sẽ tiêu diệt ong mắt đỏ cũng như các loài thiên địch khác ngoài tự nhiên và lập tức sâu xanh bùng phát thành dịch. Một tác hại lớn của thuốc hoá học trừ sâu hiện nay mà toàn thế giới đang quan tâm đó là: việc sử dụng thuốc hoá học liên tục đã làm tăng sự sự chọn lọc gen của quần thể sâu hại và làm cho sâu ngày càng chịu đựng với thuốc. Tính đến năm 1986 cả thế giới đã có 447 loài sâu kháng thuốc, trong đó có 264 loài phá hoại trong nông nghiệp (Nguyễn Thiện Thuật, 1996). Ở Việt Nam, Sâu tơ hại bắp cải (Plutella xylostella St.) đã kháng hầu hết các loài thuốc trừ sâu thông dụng (Lê Trường,1981). Tồn dư của thuốc hoá học trừ sâu đã gây ô nhiễm lớn cho nguồn nước, nhiễm độc cho thức ăn. Frisbie, R. et al (1991) cho biết sự phun thuốc hoá học trừ sâu ở Mỹ đã làm nhiễm độc nặng cho nguồn nước và thức ăn. Ở Việt Nam, Bùi Sĩ Oanh và ctv (1995) đã cho biết dư lượng thuốc Cypermerthin trên các loài đậu đỗ đã lên tới 0,4 -0,7 mg/kg, vượt xa so với mức tồn dư cho phép. Do vậy, việc sử dụng thuốc hóa học chỉ là biện pháp tình thế. Đứng trước thực trạng đó thì biện pháp sinh học là một giải pháp được đánh giá là có hiệu quả cao, vì nó không những không gây hại cho người, an toàn cho gia súc, không ảnh hưởng đến các loài sinh vật có ích mà còn góp phần cải thiện môi trường,… Trong số này, đáng kể nhất là virus đa diện nhân (NPV). Virus đa diện nhân Nucleopolyhedrovirus (NPV) là một tác nhân gây bệnh rất phổ biến trên sâu ăn tạp, được công nhận là một tiềm năng cho việc quản lý côn trùng, có hiệu quả tiêu diệt cao do tính chất lây lan virus NPV trong quần thể sâu, đồng thời virus sẽ Trang 2
  4. Đồ án tốt nghiệp nhân nhanh sinh khối trong cơ thể sâu khoang làm tăng tính chất tiêu diệt sâu, nó đặc biệt hấp dẫn bởi tính an toàn đối với môi trường và các sinh vật khác. Ưu điểm quý giá của NPV là không ảnh hưởng xấu đến các loài thiên địch, ở Mỹ, các nghiên cứu trong phòng cũng cho thấy chuồn chuồn cỏ và các loài ong không bị nhiễm NPV (Heins, K.M. et al, 1995., Nitt. L. et al, 1995). Ngoài tác động diệt sâu tức thời, NPV còn có khả năng truyền sang các thế hệ sau (Khaire, V.M. et al, 1986). Do có nhiều ưu điểm, NPV đã được nghiên cứu để trừ sâu hại trên nhiều loại cây trồng. Bertucci, B.M (1985) đã sử dụng NPV trừ ruồi đục thân (Neodiprion sertifer) trên cây tùng tại Ý. Rabindra, R.J. et al (1985) nghiên cứu sử dụng HaNPV trừ sâu xanh hại hướng dương ở Ấn Độ. Virus được nghiên cứu trừ sâu hại trên các vườn cây ở Nhật và nhiều nước khác (Sato t.,1989). Trần Quang Tấn và ctv (1995) nghiên cứu sử dụng NPV trừ sâu dóm hại thông ở Việt Nam. Tất cả các công trình nghiên cứu của các tác giả trên đều cho kết quả: NPV có tác dụng trừ sâu hại trên các loại hoa màu tương đương hoặc cao hơn thuốc hoá học. Một trong những bước đầu tiên và quan trọng nhất là phải nhân nuôi và thu nhận sinh khối lớn NPV nhằm phục vụ cho việc sản xuất chế phẩm virus NPV. Nhưng thời gian thu nhận sâu chết đã nhiễm virus đóng vài trò quan trọng trong quy trình sản xuất NPV nói chung và NPV sâu khoang nói riêng (Senthil và cộng sự, 2010). Bởi vì, nếu ta thu nhận quá sớm, lượng virus sẽ không cao, ngược lại nếu thu nhận quá trễ, xác sâu vỡ ra lượng virus thất thoát ra môi trường cũng đáng kể. Vì vậy, việc xác định thời điểm thu nhận cho sản lượng virus cao nhất, hiệu quả kinh tế nhất là rất cần thiết để giảm chi phí, hạ giá thành sản xuất chế phẩm. Xuất phát từ nhu cầu trên, sinh viên tiến hành đề tài: “xác định thời gian thu hoạch sâu chết để thu nhận virus NPV trên sâu khoang ăn tạp Spodoptera litura”. 2. Mục đích của đề tài Xác định thời điểm thu nhận để có lượng PIBs cao nhất 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài cung cấp những dữ liệu khoa học là cơ sở cho việc xác định thời gian thu nhận sâu chết để thu nhận NPV trên sâu khoang ăn tạp Spodoptera litura thích Trang 3
  5. Đồ án tốt nghiệp hợp trong quy trình sản xuất sinh khối lớn NPV nhằm cung cấp cho quá trình sản xuất chế phẩm NPV trên quy mô lớn. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài  Đối tượng nghiên cứu Nuclear polyhedrosis virus – NPVgây chết sâu khoang thu được từ tự nhiên và nhân lên trong điều kiện phòng thí nghiệm. Nguồn sâu khoang ăn tạp Spodoptera litura dùng để nhân nhiễm virus NPV được bắt từ tự nhiên đem về nhân nuôi để thu được F1.  Địa điểm Các thí nghiệm được tiến hành nghiên cứu tại phòng thí nghiệm Khoa môi trường và công nghệ sinh học, trường đại học Kỹ thuật Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nhân nhiễm virus NPV trên bề mặt thức ăn nhân tạo của McKInley (1985) Số liệu thí nghiệm được đưa vào xử lý thống kê, bằng chương trình Microsoft Excel, Statgraphic centurion. Trang 4
  6. Đồ án tốt nghiệp CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Giới thiệu về sâu khoang ăn tạp (Spodoptera litura Fabricius) 1.1.1. Phân loại khoa học - Tên khoa học: Spodoptera litura Fabricius - Họ: Noctuidate (ngài đêm) - Bộ: Lepidoptera (cánh vảy) Hình 1.1: Sâu khoang (Spodoptera litura) 1.1.2. Phân bố và ký chủ Sâu ăn tạp (SAT) là loài có phổ ký chủ rộng, phân bố hầu hết các nơi trên thế giới và được ghi nhận lần đầu tiên ở huyện Nelson gây hại cho cây thuốc lá (Cottier và Gourlay,1955). Sâu ăn tạp còn có tên gọi là sâu khoang, sâu đàn, sâu keo là loài phân bố rộng khắp thế giới, ở các nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á, Bắc Phi. Ở nước ta SAT có ở khắp nơi. Đây là loài đa thực, theo ước tính có thể gây hại trên 290 loại cây trồng thuộc 99 họ thực vật. Ở nước ta chúng là loài gây hại quan trọng trên các loại rau họ thập tự, cà chua, đậu đũa, bầu bí, rau muống, khoai lang, thuốc lá, bông, thầu dầu,… (Nguyễn Đức Khiêm, 2006). Theo Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen (2004) thì sâu có thể gây hại khoảng 200 loại cây trồng. Loài này phân bố khắp nơi ở vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, kể cả một số nước ôn đới, châu Úc, châu Á và đảo Thái Bình Dương (Feaking và Franz, 1977 được trích dẫn bởi Nguyễn Thị Thuỳ Dung, 2008). 1.1.3. Đặc điểm gây hại Trang 5
  7. Đồ án tốt nghiệp Theo Nguyễn Đức Khiêm (2006), sâu non tuổi nhỏ tập trung thành từng ổ gặm nhắm ăn lá, chừa lại biểu bì trên và gân lá nên người ta còn gọi là sâu ổ hay sâu đàn. Sau khi sâu lớn thì phân tán, ăn thủng lá chỉ để lại gân lá, có thể cắn trụi hết lá, cắn trụi cành hoa, chui và đục khoét trong quả, nụ hoa. Khi SAT phát sinh thành dịch, chúng gây thiệt hại khá nặng cho cây trồng. Đối với rau ăn lá thì bị giảm sản lượng và giá trị thương phẩm, đối với cây lấy quả như cà chua, đậu đũa thì hoa nụ sẽ bị rụng và quả bị hại cũng sẽ rụng sớm hoặc trở nên thối khi gặp trời mưa. Hình 1.2: Hoa màu bị phá hủy bởi sâu khoang 1.1.4. Đặc điểm hình thái và sinh thái Sâu khoang có nhiều loại, bướm trưởng thành có chiều dài thân từ 20 - 25 mm, sải cánh rộng từ 35 - 45 mm, cánh trước màu nâu vàng. Phần giữa từ mép trước cánh tới mép sau cánh có một vân ngang rộng màu trắng. Trong đường vân này có 2 đường vân màu nâu (ở con đực không rõ). Cánh sau màu trắng loáng phản quang màu tím. Bướm có đời sống trung bình từ 1 - 2 tuần tuỳ thuộc vào điều kiện thức ăn. Trung bình một bướm cái có thể đẻ 300 trứng, nhưng khi gặp điều kiện thích hợp bướm có thể đẻ từ 900 - 2.000 trứng (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Theo Phạm Thị Nhất (2000) ở điều kiện Việt Nam thì tổng số trứng trung bình của sâu ăn tạp là 1000 trứng/ổ. Thời gian đẻ trứng trung bình kéo dài từ 5 - 7 ngày nhưng cũng có khi lên đến 10 hoặc 12 ngày. Trang 6
  8. Đồ án tốt nghiệp Hình 1.3: Trứng sâu khoang Theo Nguyễn Đức Khiêm (2006) trứng hình bán cầu, đường kính 0,5 mm. Bề mặt trứng có những đường khía dọc từ đỉnh trứng xuống đáy trứng (36 - 39 đường) và bị cắt ngang bởi những đường khía ngang tạo thành những ô nhỏ. Trứng mới đẻ có màu trắng vàng, sau chuyển thành màu vàng tro, lúc sắp nở có màu tro đậm. Trứng xếp với nhau thành từng ổ có lông từ bụng bướm mẹ phủ bên ngoài. Thời gian ủ trứng từ 4 - 7 ngày (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Sâu có 5 - 6 tuổi tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường và phát triển trong khoảng thời gian từ 20 - 25 ngày. Sâu lớn đủ sức dài khoảng 35 - 53 mm, hình ống tròn. Sâu tuổi nhỏ có màu xanh lục, càng lớn chuyển dần sang màu nâu đen hoặc nâu đậm. Sâu tuổi nhỏ toàn thân có màu xanh và chuyển dần sang màu nâu khi tuổi lớn với 1 sọc màu vàng sáng ở hai bên hông chạy từ đốt thứ nhất của bụng đến đốt cuối, dọc theo những đường ấy có những điểm hình bán nguyệt. Từ đốt thứ nhất đến đốt thứ tám của bụng mỗi đốt có một chấm đen rõ, đây là điểm đặc biệt của loài sâu này để phân biệt với các loài sâu khác cùng giống. Trong đó có 2 chấm đen ở đốt thứ nhất là to nhất và gần như giao nhau khi sâu tuổi lớn tạo thành một khoang đen trên lưng nên người ta còn gọi sâu này là "Sâu Khoang" (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Nhộng dài 18 - 20 mm màu nâu tươi hoặc nâu tối, hình ống tròn. Mép trước đốt bụng thứ 4 và vòng quanh các đốt bụng thứ 5, 6, 7 có nhiều chấm lõm. Cuối bụng có một đôi gai ngắn (Nguyễn Đức Khiêm, 2006). Theo Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen (2004) thì thời gian nhộng từ 7 - 10 ngày. Trang 7
  9. Đồ án tốt nghiệp Hình 1.4: Nhộng sâu khoang Nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phân bố và phát triển của sâu ăn tạp, ngưỡng nhiệt độ thích hợp cho tất cả các giai đoạn phát triển của sâu ăn tạp là 370C, sâu ngừng hoạt động và sẽ chết khi nhiệt độ >400C, trứng sâu ăn tạp sẽ nở khoảng 4 ngày trong điều kiện nhiệt độ ẩm và có thể lên 11 - 12 ngày ở nhiệt độ thấp hơn (Rang Rao et al., 1989 được trích dẫn bởi Nguyễn Thị Thuỳ Dung, 2008). Ẩm độ cùng với nhiệt độ ảnh hưởng đến hoạt động bắt cặp của thành trùng. Khi ẩm độ thấp và nhiệt độ cao sẽ làm tăng khả năng hoạt động của thành trùng và ngược lại. Tuy nhiên nếu nhiệt độ cao, kết hợp với ẩm độ thấp sẽ làm giảm số lượng cũng như tỷ lệ trứng nở. Ẩm độ thích hợp cho sự sinh trưởng của ấu trùng sâu ăn tạp dao động từ 85% - 100%. Hình 1.5 Thành trùng, trứng và ấu trùng sâu ăn tạp trong đất (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT Trang 8
  10. Đồ án tốt nghiệp Hình 1.6: Sơ đồ vòng đời của sâu khoang 1.1.5. Tập quán sinh sống và quy luật phát sinh gây hại Theo Lê Thị Sen (1999) bướm thường vũ hoá vào buổi chiều và bay ra ngoài hoạt động vào lúc vừa tối, ban ngày bướm đậu ở mặt sau lá hoặc trong các bụi cỏ. Thời gian hoạt động từ tối đến nửa đêm. Bướm bay rất khoẻ, có khi bay xa đến vài chục mét và có thể cao đến 6 - 7 m. Sau khi bắt cặp vài giờ bướm có thể bắt cặp và 1 ngày sau là có thể đẻ trứng. Bướm có xu tính mạnh với mùi vị chua ngọt và với ánh sáng đèn, đặc biệt là đối với đèn có bước sóng ngắn (3,650 A0). Thành trùng đẻ trứng vào đêm thứ 2 sau khi vũ hóa. Một đời con cái giao phối 3 - 4 lần, trong khi đó con đực có thể giao phối 10 lần (Nguyễn Đức Khiêm, 2006). Trang 9
  11. Đồ án tốt nghiệp Bướm có tính chọn lọc ký chủ để đẻ trứng, bướm đẻ trứng thành từng ổ khoảng vài trăm trứng, thường đẻ ở mặt dưới lá, ổ trứng có phủ lông màu vàng. Thời gian đẻ trứng kéo dài 6 - 8 ngày. Thời gian sống của bướm ở nhiệt độ cao (hè - thu) ngắn hơn ở nhiệt độ thấp (đông - xuân), bướm được cho ăn thêm sống lâu hơn là không ăn. Sâu non vừa nở ăn gặm vỏ trứng và sống quần tụ với nhau quanh ổ trứng. Lúc này nếu bị khua động nhẹ chúng có thể bò phân tán ra chung quanh hoặc nhả tơ buông mình xuống đất, ở giai đoạn này sâu chỉ ăn gặm ở mặt dưới lá, chừa lại lớp biểu bì trên và gân lá. Sang tuổi 2 sâu bắt đầu phân tán và ăn gặm lá nhiều hơn. Từ tuổi 4 sâu có phản ứng rõ rệt đối với ánh sáng, nghĩa là sâu thường trốn ánh sáng nên ban ngày sâu thường ẩn vào những nơi tối hoặc chui xuống kẻ đất nứt, ban đêm mới chui lên cây. Vào những ngày râm mát hoặc có mưa nhẹ thì ban ngày sâu có thể bò lên hoạt động trên cây (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2004). Sâu có thể di chuyển từ cánh đồng này sang cánh đồng khác, ở đất cát pha hoặc đất thịt nhẹ sâu có thể ăn cả bộ phận dưới mặt đất của cây trong thời gian ẩn nấp ban ngày (Nguyễn Đức Khiêm, 2006). Sâu có 6 tuổi, sâu tuổi cuối có thể nặng tới 800 mg, trung bình giai đoạn sâu non có thể ăn hết 4g lá, trong đó 80% bị tiêu thụ bởi sâu tuổi cuối. Sâu tuổi lớn có tập quán ăn thịt lẫn nhau và không những ăn phá cây mà còn ăn trụi cả thân, cành và trái non. Khi sắp hoá nhộng sâu chui xuống đất làm thành một khoang và nằm yên trong đó để hoá nhộng bên trong. Đất có hàm lượng nước 20% là thích hợp cho sâu hoá nhộng, đất quá khô hoặc quá ẩm đều không thuận lợi (Nguyễn Đức Khiêm, 2006). Sâu ăn tạp là loài ưa điều kiện nóng ẩm. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sâu sinh trưởng và phát dục là 29 - 300C và độ ẩm không khí thích hợp là trên 90%. Ở Việt Nam điều kiện thời tiết khí hậu và cây trồng thuận lợi cho sâu phát sinh và phát triển và thường gây hại cho cây trồng vào các tháng mùa hè và mùa thu (từ tháng 4 - 10). Dịch sâu thường phát sinh vào tháng 5 - 6, còn các tháng khác có thể gây hại nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào điều kiện địa điểm và cây trồng. Trang 10
  12. Đồ án tốt nghiệp Sâu ăn tạp phát sinh quanh năm trên rau. Mỗi năm có 7 đỉnh cao mật độ sâu trên đồng ruộng, thời gian giữa 2 đỉnh cao là 20 - 26 ngày. Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11 thì các đợt mưa lớn kết hợp với sự phát sinh bệnh thối nhũn do virus NPV là nguyên nhân làm giảm mật số sâu ăn tạp trên đồng ruộng ở đồng bằng sông Hồng (Nguyễn Đức Khiêm, 2006). Hình 1.7: Thiệt hại do sâu ăn tạp trên lá đậu nành, ớt, cải xà lách và dưa hấu (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT) 1.1.6. Biện pháp phòng trị Theo Nguyễn Đức Khiêm (2006) thì trong những năm gần đây để phòng trừ sâu ăn tạp trên thế giới cũng như ở nước ta đã và đang áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (JA Wightman, ICRISAT, DNAhra Pradesh, India, 1996) vì sâu này kháng thuốc rất mạnh nên áp dụng các biện pháp ngăn ngừa sâu trước khi phát sinh thành dịch, bao gồm các biện pháp sau: + Dùng bẫy đèn và bẫy chua ngọt để bắt và tiêu diệt. Vừa có ý nghĩa trong dự báo vừa làm giảm số lượng thành trùng trước khi đẻ trứng. + Bắt sâu tuổi nhỏ lúc chưa phân tán và ngắt bỏ ổ trứng là biện pháp có hiệu quả. Khi dự tính được thời gian trưởng thành ra rộ thì định kỳ 2 - 3 ngày 1 lần đi thu bắt sâu tuổi nhỏ và ngắt ổ trứng chưa nở. + Tiến hành cày bừa, phơi ải kỹ đất trước khi trồng rau, kết hợp với làm cỏ xung quanh bờ ruộng để tiêu diệt chỗ ẩn náu của thành trùng. Có thể cho ruộng ngập nước từ 2 - 3 ngày để diệt nhộng. + Sử dụng bẫy pheromone. + Bảo vệ và thả các loài ong ký sinh sâu non, có thể sử dụng loài bắt nồi ăn thịt Conocephalus sp. Trang 11
  13. Đồ án tốt nghiệp + Sử dụng ong ký sinh trứng để hạn chế số lượng sâu: ở giai đoạn trứng của SAT có khoảng 4 loài ong mắt đỏ (Trichogramma), một loài ong thuộc họ Selionidae và một loài ong họ Braconidae; ngoài ra còn có thêm loài Chelonus sp. và Telenomus spp.. Ở giai đoạn ấu trùng, ngay từ giai đoạn nhỏ đến khi trưởng thành và hoá nhộng có khoảng 8 loài ký sinh đã được ghi nhận trong đó có ong Ichneumon sp. và loài Chelonus sp. Kí sinh chủ yếu ở giai đoạn nhộng non (Phạm Huỳnh Thanh Vân và Lê Thị Thuỳ Minh, 2001). + Sử dụng các loài nấm ký sinh trên côn trùng: theo Trịnh Thị Xuân (2006), thì có 4 loại nấm ký sinh trên sâu ăn tạp: Paecilomyces sp, Nomurae rileyi, Beauveria bassiana và Metarhizium anisopliae. Theo Nguyễn Thị Thu Cúc et al (2002) được trích dẫn bởi Nguyễn Thị Kiều Khuyên (2002) thì sâu ăn tạp ở Đồng bằng Sông Cửu Long bị ký sinh bởi loài Nosema bombycis. Theo một số tác giả sâu ăn tạp còn bị chết bởi N. carpocapsae tại nhiều nơi trên thế giới. Sử dụng vi khuẩn Bacillus thuringiensis hoặc sử dụng NPV (sử dụng 500 sâu non nhiễm virus/ ha). Ở nước ta hiện nay, các chủng virus nhân đa diện (NPV) đã được nghiên cứu và sử dụng có kết quả trên sâu xanh hại bông, sâu tơ bắp cải, sâu ăn tạp, sâu keo da láng… Đây là những triển vọng rất lớn để sử dụng trong chương trình phòng trừ sinh học trên cây trồng ở Việt Nam (Nguyễn Công Thuật, 1996). Khi cần có thể phun thuốc theo liều khuyến cáo, tránh sử dụng một loại thuốc quá hiều lần có thể gây ra tính kháng thuốc ở sâu. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị khi sâu còn nhỏ. Các loại thuốc thường dùng như Cyperan 10EC, Karate 2,5EC, Regent 800WG,… nên phun thuốc vào chiều mát và phun lúc sâu còn tuổi nhỏ để chúng ít kháng thuốc. 1.2. Biện pháp sinh học trong bảo vệ thực vật 1.2.1. Giới thiệu về biện pháp sinh học trong bảo vệ thực vật Theo Chi cục Bảo vệ Thực vật TP. Hồ Chí Minh, biện pháp sinh học là biện pháp: Trang 12
  14. Đồ án tốt nghiệp - Tạo môi trường thuận lợi cho các loài sinh vật có ích là kẻ thù tự nhiên của dịch hại, phát triển nhằm góp phần tiêu diệt dịch hại, bảo vệ thiên địch tránh khỏi độc hại do dùng thuốc hoá học, tạo nơi cư trú cho thiên địch sau vụ gieo trồng bằng cách trồng xen, làm bờ rạ cho thiên địch ẩn nấp... Áp dụng các kỹ thuật canh tác hợp lí tạo điều kiện cho thiên địch phát triển. - Sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học, các loại thuốc sinh học chỉ có tác dụng trừ dịch hại, không độc hại với các loại sinh vật có ích an toàn với sức khỏe con người và môi trường - Tập trung nhân nuôi, sử dụng thiên địch nhóm bắt mồi, ký sinh và vi sinh vật để phòng trừ sâu hại cây trồng. Trong tự nhiên, phòng trừ tự nhiên (Natural control) hay đấu tranh sinh học luôn có mặt một cách tích cực tại mọi hệ sinh thái trên khắp hành tinh, khống chế trực tiếp đến 95% các loài chân khớp hại (100 000 loài được phòng trừ tự nhiên), trong khi các biện pháp mà con người thực hiện bây giờ chủ yếu tập trung vào 5000 loài mục tiêu. Chi phí hàng năm về thuốc trừ dịch hại là khoảng 8,5 tỷ USD, trong khi tổng số chi phí ước tính cho phòng trừ tự nhiên hàng năm vào khoảng 400 tỷ USD (dẫn theo Van Lenteren, 2005). Biện pháp sinh học cổ điển áp dụng cho 350 triệu ha tức bằng 10% diện tích canh tác có tỷ lệ thuận trên gia thành là 20-500 lần, cao hơn nhiều so với biện pháp sinh học nuôi nhân và phóng thích thiên địch (BPSH tăng cường). Biện pháp sinh học tăng cường được áp dụng cho 16 triệu ha tức bằng 0,046% diện tích canh tác có tỷ lệ lợi nhuận/giá thành là 2-5 lần. Tổng hợp trong 120 năm qua, trên 196 nước và vùng lãnh thổ đã có 5000 lần giới thiệu 2000 loài chân khớp ngoại lai để phòng chống chân khớp hại và hiện có trên 150 loài thiên địch (ký sinh, bắt mồi và vi sinh vật) đang được nhân nuôi và thương mại trên thế giới (Vũ Văn Đĩnh và ctv, 2004). Các nhà sản xuất và nông dân nêu lên 9 ưu điểm của biện pháp sinh học (Van Lenteren, 2005): Trang 13
  15. Đồ án tốt nghiệp - Giảm một cách rõ rệt sự phơi nhiễm của nông dân đối với thuốc hóa học BVTV. - Không có dư lượng thuốc BVTV trên nông sản. - Không có ảnh hưởng sinh lý xấu đến sinh trưởng của cây non, phần non của cây. - Phóng thích thiên địch tốn ít thời gian hơn phun thuốc và dễ chịu hơn nhiều, nhất là trong nhà kính nóng ẩm. - Việc phóng thích thiên địch được tiến hành ngay sau khi gieo trồng, người nông dân có thể kiểm tra sự thành công của biện pháp này và chỉ cần một vài lần kiểm tra sau đó nhưng đối vơi biện pháp hóa học cần sự kiểm tra thường xuyên trong suốt vụ. - Đối với một số loài đã hình thành tính kháng thuốc thì biện pháp hóa học là rất khó khăn . - Đối với ruộng phòng trừ sinh học, có thể thu hoạch sản phẩm vào bất kỳ thời gian nào nếu thấy giá có lợi nhất, trong khi biện pháp hóa học cần phải chờ đợi cho hết thời gian cách ly. - Khi có được thiên địch tốt sẽ đảm bảo sự thành công của biện pháp sinh học. - Biện pháp sinh học được nhân dân thừa nhận, sản phẩm sẽ dễ bán hơn và giá bán cao hơn. Ngoài ra, các nhà quản lý và ứng dụng còn đưa thêm 4 ưu thế nữa của BPSH (Vũ Văn Đĩnh và ctv, 2004): - Ít gây nguy hại đến thực phẩm, nước và môi trường. - Đóng góp cho sản xuất thực phẩm bền vững. - Đóng góp cho bảo vệ và phát triển đa dạng sinh học. - Không có dư lượng trên nông sản. 1.2.2. Một số thành tựu của biện pháp sinh học trong phòng trừ sâu hại 1.2.2.1. Châu Âu Trang 14
  16. Đồ án tốt nghiệp Theo kinh nghiệm của người nông dân Trung Quốc, người trồng cây có múi ở vùng Địa Trung Hải đã biết sử dụng loài kiến bắt mồi Oecophylla smaragdia Fabricius phòng chống sâu ăn lá cam (Mc Cook 1882, Clausen 1966). Ngay từ thời xa xưa người trồng chà là ở Ả rập đã nhân nuôi kiến bắt mồi để phòng chống kiến ăn cây chà là. Đây cũng được coi là những trường hợp đầu tiên con người biết sử dụng kẻ thù tự nhiên (thiên địch) với mục đích của biện pháp sinh học. Họ biết phân biệt các loài kiến dựa trên tập tính ăn của chúng. Vallisnieri (1661-1730) là người Italia đầu tiên đề nghị sử dụng ong ký sinh Apanteles glomeratus Linneaus phòng chống bướm trắng hại cải Pieris rapae Linneaus (Doutt 1964). Tiếp theo đó, vào những năm đầu của thế kỷ 18 nhiều báo cáo đã đề cập đến tập tính ký sinh của một số loài côn trùng. Các tác giả cho rằng nhiều loài thiên địch có thể được sử dụng như một tác nhân quan trọng phòng chống sâu hại cây trồng. Có thể khẳng định, ngay từ thế kỷ 18 những kết quả ứng dụng đầu tiên biện pháp sinh học ở châu Âu chủ yếu tập trung sử dụng côn trùng ký sinh hoặc bắt mồi để phòng chống sâu hại cây trồng mà chưa có đề nghị nào về việc nhập nội thiên địch để phòng chống sâu hại cây trồng ở địa phương. Năm 1991, ở một số nước châu Âu đã nghiên cứu nhân nuôi và sử dung ong mắt đỏ Trichogramma sp. phòng chống nhiều loài sâu thuộc bộ cánh vẩy hại táo, bắp cải, củ cải đường,… (Meyer, 1991). Cho tới nay nhiều nước châu Âu đã có nhà máy sinh học sản xuất hàng loạt ong mắt đỏ bằng dây chuyền cơ khí hóa, tự động hóa, góp phần đáng kể nâng diện tích cây trồng được sử dụng ong mắt đỏ phòng chống sâu hại. Từ năm 1973 đến 1987, Liên xô cũ đã nghiên cứu nhân nuôi và sử dụng ong mắt đỏ Trichogramma sp. và ong vàng Habrobracon để phòng chống sâu xám Agrotis và sâu xanh Helicoverpa armigera đạt hiệu quả. Theo Petov (1964) các loài bọ mắt vàng (chuồn chuồn cỏ) thuộc họ Chrysopidae là những loài thiên địch có ý nghĩa trong điều hòa số lượng sâu hại chính trên cây trồng ở Bungari. Cũng theo Zeleuny 1965 ở Tiệp Khắc cũ người ta đã sử dụng loại bọ mắt vàng Chrysopa carnea Steph để phòng chống sâu hại trên cây công nghiệp ngắn ngày có hiệu quả tốt. Trang 15
  17. Đồ án tốt nghiệp Kể từ khi nhà khoa học Louis Pasteur phát hiện ra loài vi khuẩn Bacillus thuringiensis gây bệnh trên sâu non tằm vào những năm đầu thế kỷ 19. Tiếp đến 1915, E. Bertiner (người Đức) cũng đã phân lập và xác định vi khuẩn Bacillus thuringiensis gây bệnh cho sâu non ngài Địa Trung Hải Anagasta kuchniella. Từ đó nhiều nước ở châu Âu đã tập trung nghiên cứu sản xuất và sử dụng thuốc trừ sâu vi sinh Bt để phòng chống trên 525 loài sâu hại cây trồng nông, lâm nghiệp có kết quả tốt. Ngay từ năm 1720 Phillips đã phát hiện virus gây bệnh côn trùng. Từ đó nhiều nhà khoa học ở các nước phát triển của châu Âu đã đi sâu nghiên cứu và sử dụng virus, một nhóm vi sinh vật gây bệnh có nhiều triển vọng để phòng chống sâu hại cây trồng. Balisneri (1709) đã phát hiện nấm gây bệnh trên côn trùng đã tạo điều kiện cho nhiều nhà khoa học ở các nước châu Âu nghiên cứu và sử dụng nấm gây bệnh côn trùng để phòng chống các loài sâu hại cây trồng. Năm 1878, Metschnhikov đã phát hiện và phân lập được nấm xanh Metashizium aurisophiae trừ sâu non bọ cánh cứng hại lúa mì Anisophiae austrinia có hiệu quả phòng chống sâu non, trưởng thành bọ đầu dài hại củ cải đường Bothinoderes pauctiventris. V.I. Bilai (1961), G. Seiketov (1962), Domsch (1980) đã lần lượt phát hiện nấm Trichoderma là những thành viên phổ biến trong hệ vi sinh vật đất, có khả năng đối kháng với các vi sinh vật khác thông qua việc tiết ra các chất kháng sinh, men rượu các chất có hoạt tính sinh học cao tạo khả năng ức chế các nấm dịch hại cây trồng như Rhizoctonia, Sclerotium, Verticillium. Đến nay nhiều nước châu Âu đã nghiên cứu sản xuất và sử dụng nấm Trichoderma để phòng chống hơn 150 loài vi sinh vật gây hại trên 40 loại cây trồng khác nhau. Ngay từ giữa thế kỷ 19 đã hình thành hướng nghiên cứu sử dụng tuyến trùng phòng chống côn trùng. Trước hết phải kể đến những công trình khoa học của các nhà tuyến trùng học như P. Bovien, J. R. Christie, N. A. Cobb, I. N. Filipjev, G. Fuchs, G. Steiner, G. Thorne (Nickle và Welch 1984). Theo Hara (1991) tuyến trùng ký sinh côn trùng (EPN) có phổ sâu chủ rộng, khả năng tìm kiếm sâu chủ và Trang 16
  18. Đồ án tốt nghiệp sinh trưởng rất mạnh. Khoảng đầu những năm 1980, người ta đã có thể nhân nuôi hàng loạt tuyến trùng ký sinh côn trùng bằng in vi tro với các loài vi khuẩn cộng sinh của chúng (Beđing 1981, 1984) gắn liền với việc sử dụng những loài EPN nay phòng chống có hiệu quả sâu đục thân (Lindegren 1981), bọ cánh cứng hại nho đen (Ređing và Miller 1981, Simons 1981) tạo khả năng thương mại hóa sản phẩm sinh học tuyến trùng EPN diệt côn trùng gây hại cây trồng. Brooks (1986) chỉ rõ hầu hết các loài Nosema thuộc nguyên sinh động vật Pzotozoa đã được nghiên cứu sử dụng trong biện pháp sinh học phòng chống sâu non bộ cánh vẩy và sâu non thuộc bộ cánh thẳng như châu chấu, cào cào (Maddix vàctv, 1981). Lewis (1997) cho rằng từ năm 1980 một số nước châu Âu đã phát hiện và sử dụng nhện bắt mồi Amblyseius cucumeris để phòng chống bọ trĩ hại hành Thrips tabaci, bọ trĩ Frankliniella occidentalis, F. tritici và T. Obscuratus hại dưa chuột có hiệu quả rõ rệt. Môt số hiệu quả sử dụng biện pháp ĐTSH phòng chống sâu hại cây trồng ở các nước châu Âu: - Sử dụng ong ký sinh Allotropa burelli và Pseudaphicus malimus nhập nội từ Nhật Bản vào năm 1934-1941 phòng chống có hiệu quả Rệp Pseudococcus coustocki hại táo ở Liên xô cũ. - Vào những năm 60 của thế kỷ 20, viện BVTV của Liên xô cũ đã sản xuất thành công chế phẩm Virus phòng ngừa có hiệu quả sâu non ngài Portheroa dispar, sâu non bướm cải Barathra brassicae. - Từ năm 1972 ở Bungari đã sử dụng chế phẩm Beauveria để phòng trừ bọ lá khoai tây, sâu hại lúa, sâu hại mận có hiệu quả tốt. Cũng từ năm 1930 thế kỷ 20 ở Pháp đã sử dụng nấm Arthrobotrys oligospora, Dactylella ellipsospora để phòng chống tuyến trùng hại cây cải đường, khoai tây, cà chua,… 1.2.2.2 Châu Mỹ Ngay từ năm 1883 ở các bang Colombia, Mitsuri,… của Mỹ đã sử dụng thành công ong kén nhỏ Apanteles glomeratus nhập nội từ Anh phòng chống sâu bướm Trang 17
  19. Đồ án tốt nghiệp trắng hại cải và đã trở thành một tác nhân sinh vật có ích tồn tại trong hệ sinh thái đồng rau cho tới nay ở các bang đó. Năm 1887 người ta lại thành công trong việc nhập nội bọ rùa châu Úc Rodilia cardinalis vào Mỹ để phòng chống có hiệu quả Rệp sáp Icerya purchasi hại cam, chanh ở bang Califonia. Kết quả kỳ diệu này gắn liền với tên tuổi của nhà khoa học A. Koebele. Ông là người đầu tiên nghiên cứu biện pháp ĐTSH chống cỏ dại. Vào những năm 70 của thế kỷ 20 ở Mỹ đã nhân nuôi và sử dụng có hiệu quả ong mắt đỏ Trichogramma sp. và ong vàng Habrobracon sp. để phòng chống sâu xanh hại ngô, rau, đậu. Từ năm 1980 ở Mỹ đã phát hiện 86 giống với 1380 loài bọ mắt vàng, trong đó một số loài đã được nhân nuôi và sử dụng phòng chống có hiệu quả sâu hại bông, đay,… Năm 1947 ở Haoai, Mỹ đã nhập nội ong ký sinh Opius oophibis từ Ấn Độ, Malasia để phòng chống ruồi đục quả Dacus dorsalis đạt kết quả tốt. Năm 1938 ở Haoai, Mỹ đã nhập nội và sử dụng thành công côn trùng bắt mồi Telsimia nitida từ Guama và Chilocorus nigritus từ Ấn Độ để phòng chống Rệp sáp Pinnapis buxi hại dừa, cọ. Năm 1993 ở Mỹ đã sản xuất chế phẩm virus NPV của sâu Spodoptera exigua cũng như một số chế phẩm virus khác được sử dụng có hiệu quả phòng chống sâu keo da láng hại bông, sâu cắn lá rau, đậu, cây lâm nghiệp,… ngay ở những nơi mà biện pháp hóa học bị cấm. 1.2.2.3. Châu Á Hirashima (1990) cho rằng ở Nhật Bản ngay từ 1986 đã sử dụng ong Cotesia phitellae, Tetrastichus sokolowski và Diadromus subtilicornis phòng chống sâu tơ hại bắp cải trên diện rộng có kết quả tốt. Wauchrea (1988) chỉ rõ ở Trung Quốc ngay từ những năm 70 của thế kỷ 20 người nông dân ở các tỉnh An Huy, Vũ Hán, Hồ Bắc,… đã sử dụng ong mắt đỏ Trichogramma japonicum, Trichogramma dendrolimi để phòng chống sâu cuốn lá lúa, sâu róm hại thông, sâu cuốn lá hoa lan có hiệu quả rõ rệt, tỷ lệ ong ký sinh đạt trên 70% so với ruộng không thả ong. Trang 18
  20. Đồ án tốt nghiệp Từ những năm 1985-1990 ở Nhật người ta đã tạo ra quy trình sản xuất bọ mắt vàng Chrysopa theo quy mô công nghiệp và sử dụng chúng phòng chống sâu ăn lá khoai tây, sâu hại bắp cải đạt hiệu quả cao. Rachappa và Naik (2000) cho rằng ngay từ năm 1930 của thế kỷ 20 ở Ấn Độ đã sử dụng ong mắt đỏ Trichogramma chilonis, Trichogramma japonicum phòng chống sâu đục thân mía trên diện rộng, đặc biệt trên ruộng mía trồng xen với rau mùi cho hiệu quả hơn hẳn những khu ruộng mía không thả ong. Chen (1963) cũng khẳng định ở Đài Loan đã sử dụng khá thành công ong mắt đỏ Trichogramma chilonis phòng chống sâu đục thân mía từ những năm 60. UbDNAi và Sunaryo 1986 chỉ rõ ở Malasia và Indonesia đã sử dụng thành công ong kén trắng C. Flavipes phòng chống sâu đục thân mía D. Saccharalis. Ngay từ những năm 80 của thế kỷ 20 ở Trung Quốc người đã sản xuất chế phẩm nấm Metarhizium anisophiae (gọi là nấm xanh) và Beauvernia bassiana (gọi là nấm trắng) và phòng chống bọ cánh cứng hại khoai tây, sâu đục thân ngô, loài sâu hại khác thuộc bộ cánh vẩy Lepidoptera hại rau, đậu,… có hiệu quả hẳn so với đối chứng không sử dụng biện pháp ĐTSH. Zen và ctv (1991) cho rằng từ năm 1990 đến nay Trung Quốc đã sản xuất hàng loạt chế phẩm tuyến trùng ký sinh côn trùng Steinernema carprocapsae và phòng chống có hiệu quả nhóm sâu đục thân Holcocerus insularis hại cây gỗ và Zeuzera muthitrigata hại cây bóng mát. 1.3. Khái quát về virus gây bệnh côn trùng 1.3.1. Lịch sử nghiên cứu virus gây bệnh côn trùng Lịch sử cổ đại ghi nhận những phát hiện về bệnh tằm dâu và ong khi con người bắt đầu nhân nuôi, thuần dưỡng hai loài côn trùng có ích này. Năm 384-322 Trước công nguyên Aristotle đã miêu tả bệnh của ong, nhưng người Trung quốc đã có những quan sát về bệnh tằm dâu từ 2700 năm trước công nguyên. Trang 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2