Ma Thế Ngàn và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
109(09): 27 - 32<br />
<br />
ĐO LƯỜNG SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC<br />
KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN<br />
Ma Thế Ngàn*, Vũ Hồng Vân<br />
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong những năm vừa qua, số lượng các trường đại học ở Việt Nam tăng lên một cách nhanh<br />
chóng. Từ 69 trường đại học trên cả nước vào năm 1999 tăng lên thành 204 trường năm 2012.<br />
Cũng trong thời gian này, số lượng học sinh phổ thông có xu hướng giảm liên tục, từ 1,5 triệu học<br />
sinh cho mỗi độ tuổi (năm 1999), đến nay còn hơn 0,9 triệu học sinh cho mỗi độ tuổi. Những biến<br />
động trái chiều về số lượng trường đại học và số lượng học sinh như kể trên dẫn tới sự cạnh tranh<br />
quyết liệt giữa các trường để thu hút người học.<br />
Do đó, chủ đề nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các trường đã được nhiều người quan tâm<br />
nghiên cứu. Phần lớn các nghiên cứu đều có quan điểm coi nhà trường như các doanh nghiệp và<br />
sinh viên chính là những khách hàng. Từ đó, các tác giả sử dụng các mô hình về sự hài lòng của<br />
khách hàng vào việc khảo sát và cải thiện giá trị cảm nhận và sự hài lòng của người học, nhằm<br />
nâng cao khả năng cạnh tranh của các trường đại học. Tuy vậy, việc vận dụng đó vẫn còn thiếu<br />
những cơ sở lý thuyết vững chắc do sự khác nhau giữa môi trường giáo dục và môi trường kinh<br />
doanh. Bài viết này sẽ tập trung vào việc củng cố những cơ sở lý thuyết cho việc xây dựng thang<br />
đo sự hài lòng của người học cũng như những ứng dụng của nó vào thực tiễn tại trường Đại học<br />
Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên.<br />
Từ khóa: Sự hài lòng của người học, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên.<br />
<br />
KHÁCH HÀNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC*<br />
Đối với một dịch vụ thông thường, khách<br />
hàng chính là người trả tiền để được sử dụng<br />
dịch vụ đó. Nhưng ngành giáo dục đào tạo<br />
không chỉ phục vụ một đối tượng khách hàng<br />
duy nhất. Người được ngành giáo dục đại học<br />
phục vụ sự thật là các nhóm khách hàng, bao<br />
gồm: người học, chủ doanh nghiệp và xã hội<br />
nói chung. Trong đó, sinh viên là những<br />
người được sử dụng điều kiện học tập tại các<br />
trường đại học để nâng cao trình độ, kĩ năng<br />
chuyên môn nghiệp vụ; chủ doanh nghiệp<br />
được tiếp cận nguồn nhân lực trình độ cao; xã<br />
hội nhận được nhiều phúc lợi hơn do thành<br />
quả của đào tạo nguồn nhân lực chính là sự<br />
phát triển.<br />
SẢN PHẨM CỦA ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC<br />
LÀ GÌ?<br />
Theo Meltem Arat [5], giáo dục đại học cung<br />
cấp sản phẩm cho ba lĩnh vực chính: đào tạo,<br />
nghiên cứu và dịch vụ công.<br />
*<br />
<br />
Tel: 0904.006.198<br />
<br />
Trong đó, sản phẩm của đào tạo đại học bao<br />
gồm cả phần hữu hình và phần vô hình. Phần<br />
hữu hình chính là bằng cấp của người học,<br />
phần vô hình là tri thức của người học có<br />
được khi học tập trong trường đại học. Các<br />
sản phẩm này tạo nên những lao động đã qua<br />
đào tạo, có trình độ cao. Chủ các doanh<br />
nghiệp chính là những người trực tiếp sử<br />
dụng các sản phẩm này. Cuối cùng, đối với xã<br />
hội, họ chính là những công dân tốt, có trí tuệ<br />
và phẩm chất đạo đức.<br />
Sự khác biệt giữa sinh viên và khách hàng<br />
sử dụng các dịch vụ thông thường<br />
Theo Sirvanci [6], giữa sinh viên đại học và<br />
khách hàng sử dụng các dịch vụ thông thường<br />
có hai điểm khác biệt cơ bản, đó là: Một là,<br />
nhu cầu (needs of customers) và mong muốn<br />
(wants of customers) của khách hàng luôn<br />
trùng khớp nhau, nhưng nhu cầu và mong<br />
muốn của sinh viên không hoàn toàn trùng<br />
khớp nhau. Hai là, khách hàng sử dụng dịch<br />
vụ không phải chịu trách nhiệm về chất lượng<br />
dịch vụ, nhưng sinh viên phải chịu một phần<br />
trách nhiệm về chất lượng đào tạo.<br />
27<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Ma Thế Ngàn và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Thứ nhất, nhu cầu của khách hàng chính là<br />
thứ mà họ mong muốn, nhưng nhu cầu của<br />
sinh viên không hoàn toàn là thứ sinh viên<br />
muốn. Trong kinh doanh dịch vụ, để duy trì<br />
hoặc tăng thị phần và lợi nhuận, các doanh<br />
nghiệp phải tập trung đáp ứng nhu cầu khách<br />
hàng. Nhu cầu của khách hàng hay cái khách<br />
hàng cần cũng chính là thứ mà họ muốn có.<br />
Do đó, các doanh nghiệp luôn phải tuân thủ<br />
nguyên tắc: khách hàng luôn luôn đúng. Tuy<br />
vậy, đối với sinh viên, cái mà họ cần là những<br />
kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của xã<br />
hội. Nhưng cái sinh viên muốn là chương<br />
trình học đơn giản, dễ dàng trong đánh giá kết<br />
quả học tập, thời gian đào tạo ngắn. Và<br />
trường đại học, trong quá trình thực hiện chức<br />
năng của nó đối với xã hội, đã cung cấp<br />
những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho sinh<br />
viên – những thứ sinh viên cần, không phải<br />
thứ sinh viên muốn. Vì vậy, các trường đại<br />
học không thể đáp ứng hoàn toàn các nhu cầu<br />
của sinh viên. Nói cách khác, trường đại học<br />
không thể làm hài lòng sinh viên giống như<br />
cách mà doanh nghiệp làm hài lòng khách<br />
hàng sử dụng dịch vụ.<br />
Ngoài ra, mỗi dịch vụ của doanh nghiệp chỉ<br />
phải tập trung phục vụ một đối tượng khách<br />
hàng thì hoạt động đào tạo của trường đại học<br />
phải làm hài hòa nhu cầu của một nhóm đối<br />
tượng khách hàng. Do đó, một điều dễ nhận<br />
thấy là việc các trường đại học chạy theo việc<br />
đáp ứng nhu cầu của người học, làm hài lòng<br />
người học một cách thiếu kiểm soát sẽ dẫn tới<br />
chất lượng đào tạo không được coi trọng.<br />
Thứ hai, sinh viên trên thực tế, không đơn<br />
thuần là sản phẩm các hoạt động đào tạo đại<br />
học, họ còn là chủ thể tham gia vào quá trình<br />
đào tạo. Họ vào trường với tư cách một<br />
nguyên vật liệu, trải qua quá trình xử lí (đào<br />
tạo) phức tạp của nhà trường để biến đổi trình<br />
độ và chính thức là thành phẩm sau khi tốt<br />
nghiệp. Trong quá trình học tập, sinh viên<br />
phải thực hiện các bài tập, thuyết trình,<br />
nghiên cứu, kiểm tra, thi …dưới sự kiểm soát<br />
và đánh giá của giảng viên. Tri thức có được<br />
sau khi ra trường là kết quả trực tiếp từ những<br />
nỗ lực học tập của sinh viên. Đó là sản phẩm<br />
<br />
109(09): 27 - 32<br />
<br />
do chính sinh viên tạo ra dưới sự hướng dẫn<br />
của các giảng viên và bởi việc sử dụng các<br />
điều kiện học tập của nhà trường. Như vậy,<br />
sinh viên đã tham gia vào quá trình cung ứng<br />
dịch vụ với tư cách của một công nhân, và<br />
phải chịu trách nhiệm một phần về chất lượng<br />
đào tạo.<br />
Tóm lại, trường đại học không bán một loại<br />
hàng hóa được gọi là tri thức mà nó cung cấp<br />
cho sinh viên một môi trường để tiếp nhận tri<br />
thức. Các dịch vụ được nhà trường cung ứng<br />
có vai trò hỗ trợ cho công việc học tập của<br />
sinh viên. Các dịch vụ này bao gồm thiết kế<br />
chương trình đào tạo, giảng dạy của giảng<br />
viên, cung cấp các học liệu, cơ sở vật chất,<br />
quản lý đào tạo và các hoạt động hỗ trợ khác.<br />
ĐO LƯỜNG SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI<br />
HỌC NHƯ THẾ NÀO?<br />
Hiện nay, chưa có các mô hình nghiên cứu sự<br />
hài lòng của người học được thừa nhận rộng<br />
rãi. Các tác giả chủ yếu áp dụng mô hình<br />
nghiên cứu về sự hài lòng của khách hàng theo<br />
các lý thuyết chất lượng dịch vụ vào việc đo<br />
lường sự hài lòng của người học. Mô hình chất<br />
lượng dịch vụ được sử dụng rộng rãi nhất là<br />
mô hình do Parasuraman& cộng sự (1985) đề<br />
xuất. Parasuraman& cộng sự cho rằng, bất kì<br />
dịch vụ nào, chất lượng dịch vụ cảm nhận bởi<br />
khách hàng đều bao gồm 5 thành phần, đó là:<br />
1) Tin cậy (reliability): thể hiện qua khả năng<br />
thực hiện dịch vụ phù hợp và đúng thời hạn<br />
ngay từ lần đầu tiên.<br />
2) Đáp ứng (responsiveness): thể hiện qua sự<br />
mong muốn, sẵn sàng của nhân viên phục vụ<br />
cung cấp dịch vụ kịp thời cho khách hàng.<br />
3) Năng lực phục vụ (assuarance): thể hiện<br />
qua trình độ chuyên môn và cung cách phục<br />
vụ lịch sự, niềm nở với khách hàng.<br />
4) Đồng cảm (empathy): thể hiện sự quan<br />
tâm, chăm sóc đến từng cá nhân, khách hàng.<br />
5) Phương tiện hữu hình (tangibles): thể hiện<br />
qua ngoại hình, trang phục của nhân viên, các<br />
trang thiết bị phục vụ.<br />
Nghiên cứu của các tác giả cũng đều dựa theo<br />
kết luận của Cronin& Taylor (1992), cho rằng<br />
cảm nhận về chất lượng dịch vụ dẫn đến sự<br />
hài lòng của khách hàng.<br />
<br />
28<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Ma Thế Ngàn và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Việc áp dụng mô hình trên để nghiên cứu sự<br />
hài lòng của người học có ý nghĩa to lớn đối<br />
với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Bởi<br />
họ thấy rõ mức độ đáp ứng nhu cầu khách<br />
hàng thông qua các dịch vụ. Từ đó, họ tìm ra<br />
những giải pháp phục vụ khách hàng tốt hơn,<br />
giúp doanh nghiệp cạnh tranh mạnh mẽ hơn<br />
trên thị trường.<br />
Vận dụng mô hình trên, khi nghiên cứu trong<br />
lĩnh vực quản lý giáo dục đại học, nhiều nhà<br />
nghiên cứu đã thiết kế những thang đo riêng<br />
để đo lường sự hài lòng của người học. Theo<br />
đó, các thành tố của chất lượng dịch vụ cảm<br />
nhận được thay thế bởi các yếu tố vận hành<br />
hoạt động đào tạo của nhà trường. Đối với<br />
nghiên cứu tại trường Đại học Kỹ thuật Công<br />
nghiệp, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu sự<br />
hài lòng của người học bao gồm hai phần: các<br />
hoạt động đào tạo của nhà trường (thiết kế<br />
chương trình đào tạo, giảng dạy của giảng<br />
viên, cung ứng các dịch vụ về thư viện học<br />
liệu, cơ sở vật chất và các hoạt động quản lý<br />
đào tạo); các hoạt động này góp phần tạo ra<br />
sự hài lòng của người học.<br />
Chương trình<br />
đào tạo<br />
Giảng viên<br />
<br />
Thư viện Học liệu<br />
<br />
Sự hài lòng<br />
của người học<br />
<br />
Quản lý đào<br />
tạo<br />
Cơ sở vật<br />
chất<br />
<br />
Mô hình này đánh giá sự hài lòng của người<br />
học đối với chất lượng các “dịch vụ” được<br />
nhà trường cung cấp. Như đã phân tích ở trên,<br />
cả nhà trường và sinh viên đều phải chịu trách<br />
nhiệm về chất lượng đào tạo. Hai yếu tố này<br />
cần được phân tách rõ ràng, nhằm đảm bảo<br />
kết quả chính xác cho việc đánh giá. Phần<br />
trách nhiệm của nhà trường được thể hiện qua<br />
những con người (giảng viên, nhân viên), các<br />
<br />
109(09): 27 - 32<br />
<br />
phương tiện và cách thức mà nhà trường sử<br />
dụng trong hoạt động đào tạo.<br />
Chương trình đào tạo là yếu tố đầu tiên trong<br />
mô hình đánh giá sự hài lòng của người học.<br />
Mỗi chương trình đào tạo đều có những mục<br />
tiêu cụ thể và được thể hiện qua các chuẩn<br />
đầu ra. Chuẩn đầu ra chính là các kiến thức,<br />
kỹ năng chuyên môn, kỹ năng mềm mà sinh<br />
viên cần đạt được để được công nhận tốt<br />
nghiệp. Sinh viên có thể đạt được chuẩn đầu<br />
ra thông qua việc tham gia học tập các môn<br />
học một cách tuần tự. Như vậy, để phục vụ tốt<br />
cho việc học tập của sinh viên, mỗi chương<br />
trình đào tạo cần có những mục tiêu rõ ràng,<br />
phù hợp; cùng với hệ thống các môn học<br />
được sắp xếp logic chặt chẽ, giúp sinh viên<br />
thuận lợi trong việc đạt các chuẩn đầu ra của<br />
chương trình. Sự đánh giá của sinh viên đối<br />
với chương trình đào tạo được thể hiện qua<br />
những khía cạnh sau: mức độ rõ ràng trong<br />
mục tiêu đào tạo; sự phù hợp về thời lượng<br />
chương trình; tỷ lệ phân bổ thời lượng giữa lý<br />
thuyết và thực hành; sự tự tin do kiến thức từ<br />
chương trình mang lại.<br />
Giảng viên là những người trực tiếp truyền<br />
thụ kiến thức cho sinh viên, hướng dẫn sinh<br />
viên tự nghiên cứu, thực hành và làm thí<br />
nghiệm. Nói cách khác thì đội ngũ giảng viên<br />
thường xuyên có các hoạt động tương tác với<br />
sinh viên, đem lại lợi ích cốt lõi cho người<br />
học và là những người quyết định chất lượng<br />
đào tạo. Chất lượng của yếu tố giảng viên<br />
được thể hiện qua các khía cạnh: kiến thức<br />
chuyên môn, khả năng truyền thụ kiến thức,<br />
thái độ và trang phục của người giảng viên.<br />
Yếu tố thứ ba trong sơ đồ là hệ thống thư viện<br />
– học liệu của nhà trường. Giáo dục đại học<br />
ngày nay đề cao tính chủ động, chú trọng vào<br />
hoạt động tự học của sinh viên. Điều kiện để<br />
sinh viên thực hiện tốt các hoạt động tự học,<br />
nghiên cứu là nhà trường cung cấp đủ không<br />
gian và học liệu cho các hoạt động đó. Nói<br />
cách khác, để thực hiện tốt phương châm “lấy<br />
người học làm trung tâm” thì một thư viện có<br />
không gian rộng rãi, với nguồn tài liệu phong<br />
phú là điều không thể thiếu. Chất lượng của<br />
hệ thống thư viện– học liệu thể hiện qua các<br />
29<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Ma Thế Ngàn và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
khía cạnh: thư viện đảm bảo đủ không gian,<br />
chỗ ngồi; tra cứu tài liệu nhanh chóng, tiện<br />
lợi; thư viện có số lượng sách, tài liệu tham<br />
khảo phong phú, hữu ích; sách, tài liệu luôn<br />
được cập nhật; hệ thống máy tính tiện lợi cho<br />
việc truy cập các website chuyên ngành; cuối<br />
cùng là thái độ tận tình, chuyên nghiệp của<br />
đội ngũ nhân viên thư viện.<br />
Các hoạt động quản lý đào tạo được thực hiện<br />
bởi đội ngũ các nhân viên hành chính, giáo<br />
viên chủ nhiệm, hay thậm chí các quyết định<br />
của lãnh đạo trường. Họ có nhiệm vụ hỗ trợ<br />
sinh viên thực hiện các thủ tục hành chính như<br />
(đăng ký môn học, nộp học phí), tiếp cận các<br />
thông tin (về thời khóa biểu, các quy định),<br />
xây dựng thời khóa biểu học tập, sắp xếp sinh<br />
viên vào các lớp học phần, quản lý điểm.<br />
Hệ thống cơ sở vật chất của trường đại học<br />
bao gồm: cảnh quan môi trường, các phòng<br />
học, phòng thực hành, thí nghiệm. Trong đó,<br />
cảnh quan môi trường là yếu tố góp phần tạo<br />
nên tâm lý thoải mái, vui vẻ cho người học.<br />
Môi trường cảnh quan trong trường đại học<br />
cần đáp ứng các tiêu chí: đẹp và có tính sư<br />
phạm cao. Các yếu tố còn lại phục vụ trực<br />
tiếp cho nhu cầu học tập của sinh viên, đòi<br />
hỏi sự khang trang, hiện đại, đầy đủ các trang<br />
thiết bị phục vụ cho việc dạy và học.<br />
Bước tiếp theo, các ý tưởng trên được thể<br />
hiện qua bảng khảo sát sự hài lòng của người<br />
học. Bảng hỏi gồm 52 câu hỏi, được thiết kế<br />
theo thang đo Likert 5 mức độ: 1 – rất không<br />
hài lòng, 2 – không hài lòng, 3 – không ý<br />
kiến, 4 – hài lòng, 5 – rất hài lòng. Bảng hỏi<br />
gồm hai phần chính: phần thứ nhất đo lường<br />
giá trị cảm nhận của người học về các hoạt<br />
động đào tạo; phần thứ hai đo lường mức độ<br />
hài lòng của người học. Trong đó, giá trị cảm<br />
nhận của người học được đo lường trên 5 yếu<br />
tố: chương trình đào tạo (7 câu), giảng viên<br />
(12 câu), thư viện – học liệu (10 câu), quản lý<br />
đào tạo (10 câu) và cơ sở vật chất (8 câu); sự<br />
hài lòng của người học được thể hiện qua 5<br />
khía cạnh với 5 câu hỏi.<br />
Bảng khảo sát sau khi thiết kế lần đầu cần<br />
được kiểm tra về mức độ rõ ràng, dễ hiểu cho<br />
<br />
109(09): 27 - 32<br />
<br />
đối tượng điều tra (sinh viên) bằng cách<br />
phỏng vấn thử. Dựa trên các kết quả đạt được<br />
từ việc phỏng vấn thử, tác giả tiến hành điều<br />
chỉnh lại bảng hỏi cho phù hợp với tình hình.<br />
Trong bước điều tra chính thức, số lượng 52<br />
câu trong bảng khảo sát đòi hỏi cỡ mẫu ít nhất<br />
là 260 (52x5).<br />
Các dữ liệu sau khi được thu thập sẽ được<br />
làm sạch và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0.<br />
Các kĩ thuật phân tích bao gồm: Lập bảng tần<br />
số để mô tả mẫu thu thập theo các thuộc tính<br />
như giới tính, khoa, năm học; kiểm định sự<br />
tin cậy của dữ liệu khảo sát; phân tích nhân<br />
tố, thu gọn dữ liệu; kiểm định sự tương quan<br />
giữa biến phụ thuộc với các biến độc lập;<br />
kiểm định sự khác nhau về mức độ hài lòng<br />
theo giới tính, theo khoa và theo năm học.<br />
Kết quả thống kê cho thấy, hai yếu tố được<br />
đánh giá khá cao bao gồm: “Giảng viên”<br />
(điểm trung bình 3,5) và “Cơ sở vật chất”<br />
(điểm trung bình 3,8). Các yếu tố còn lại đều<br />
không được đánh giá cao, bao gồ các yếu tố<br />
“Chương trình đào tạo” (điểm trung bình 2,8),<br />
“Thư viện – Học liệu” (điểm trung bình 2,5)<br />
và “Quản lý đào tạo” (điểm trung bình 2,7).<br />
Kết quả phân tích cho thấy sự hài lòng của<br />
người có mối quan hệ đồng biến khá chặt chẽ<br />
với các yếu tố của chất lượng đào tạo. Các hệ<br />
số tương quan giữa sự hài lòng của người học<br />
với các yếu tố chương trình đào tạo, giảng<br />
viên, thư viện – học liệu, quản lý đào tạo và<br />
cơ sở vật chất đều có giá trị lớn hơn 0,9 với<br />
mức ý nghĩa 0,05.<br />
Kết quả phân tích cũng cho thấy sự khác nhau<br />
về mức độ hài lòng của người học theo giới<br />
tính, theo khoa và theo năm học. Theo đó, các<br />
nam sinh có mức độ hài lòng trung bình cao<br />
hơn các nữ sinh; sinh viên của những khoa có<br />
truyền thống cũng có mức độ hài lòng cao<br />
hơn sinh viên của những khoa mới; và cuối<br />
cùng, mức độ hài lòng của sinh viên giảm dần<br />
theo năm học.<br />
NHỮNG GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM<br />
Qua phân tích cụ thể từng yếu tố, nghiên cứu<br />
đã chỉ ra những giải pháp trọng tâm nhằm<br />
nâng cao chất lượng đào tạo của trường Đại<br />
<br />
30<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Ma Thế Ngàn và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
học Kĩ thuật công nghiệp. Thứ nhất, đội ngũ<br />
giảng viên trẻ, nhiệt tình, gần gũi với sinh<br />
viên nhưng trình độ chuyên môn còn hạn chế.<br />
Cùng với việc chú trọng công tác đào tạo<br />
giảng viên trẻ, nhà trường cần tận dụng vốn<br />
kiến thức, kinh nghiệm của đội ngũ giảng<br />
viên lâu năm.<br />
Thứ hai, trang thiết bị của thư viện cũng như<br />
hệ thống giáo trình, bài giảng còn thiếu và<br />
yếu cần được bổ sung hoàn thiện. Trong đào<br />
tạo theo học chế tín chỉ, thư viện – học liệu có<br />
vai trò rất quan trọng, là điều kiện để nhà<br />
trường có thể thực hiện được phương châm<br />
“lấy người học là trung tâm”. Thư viện phải<br />
đảm bảo thoáng mát, đủ chỗ ngồi; hệ thống<br />
máy tính tốt, giúp người đọc dễ dàng truy cập<br />
các website chuyên ngành; học liệu của thư<br />
viện phải có khả năng cung cấp những thông<br />
tin hữu ích, cập nhật cho người đọc. Một yếu<br />
tố rất quan trọng khác là các giáo trình, bài<br />
giảng phải khoa học, chính xác và có khả<br />
năng giúp sinh viên tự học.<br />
Thứ ba, các chuyên ngành đào tạo của trường<br />
hiện nay được thiết kế nhằm đảm bảo tính<br />
liên thông ngang, nhằm giúp sinh viên có thể<br />
đồng thời theo học nhiều chuyên ngành đào<br />
tạo. Tuy vậy, trường Đại học Kĩ thuật công<br />
nghiệp là trường đa ngành nên yêu cầu đảm<br />
bảo tính liên thông ngang khiến các môn học<br />
trong mỗi chương trình đào tạo được tổ hợp<br />
một cách khá gượng ép. Điều này dẫn tới thời<br />
lượng các môn học chuyên ngành trong<br />
chương trình bị thu hẹp, tính mục tiêu và tính<br />
logic không được đảm bảo. Xã hội đòi hỏi<br />
những sinh viên khi ra trường có kiến thức<br />
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao. Để<br />
đáp ứng yêu cầu đó, trước tiên nhà trường cần<br />
nghiên cứu, xây dựng lại các chương trình<br />
đào tạo với mục tiêu rõ ràng, đảm bảo các<br />
chuẩn đầu ra phù hợp. Các chuẩn đầu ra<br />
không chỉ hướng tới việc đáp ứng những nhu<br />
cầu khắt khe mà cũng rất cần thiết phải phù<br />
hợp với điều kiện của nhà trường và năng lực<br />
của người học.<br />
<br />
109(09): 27 - 32<br />
<br />
Thứ tư, trong công tác quản lý đào tạo, nhà<br />
trường cần cải thiện những phiền hà trong<br />
việc thực hiện các thủ tục hành chính của sinh<br />
viên như: đăng ký môn học, nộp học phí, xét<br />
học bổng, giải quyết chế độ chính sách. Bên<br />
cạnh đó, cần đảm bảo số lượng sinh viên vừa<br />
phải đối với mỗi lớp học nhằm nâng cao chất<br />
lượng dạy và học. Việc sắp xếp thời khóa<br />
biểu cần tạo điều kiện thuận lợi cho người<br />
học, hạn chế tối đa các lớp học vào ngày nghỉ<br />
hay buổi tối.<br />
KẾT LUẬN<br />
Những biến đổi lớn của giáo dục đại học hiện<br />
nay đã và đang đặt ra cho các trường những<br />
yêu cầu cấp thiết phải đổi mới để tiếp tục tồn<br />
tại và phát triển. Những yêu cầu này bao gồm<br />
cải thiện chất lượng đào tạo nói chung và cải<br />
thiện điều kiện học tập của sinh viên nói<br />
riêng. Đối với xã hội, nhà trường và sinh viên<br />
có vai trò như những người cộng sự, cùng tạo<br />
nên những sản phẩm đào tạo có chất lượng,<br />
đó là bằng cấp và kiến thức, kỹ năng của sinh<br />
viên. Nhưng khi xét mối quan hệ giữa nhà<br />
trường và sinh viên, nhà trường là nhà cung<br />
cấp các “dịch vụ” giúp sinh viên tích lũy kiến<br />
thức, rèn luyện kỹ năng.<br />
Trên tinh thần đó, tác giả tập trung nghiên<br />
cứu sự hài lòng của người học và các yếu tố<br />
ảnh hưởng đến sự hài lòng của người học tại<br />
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại<br />
học Thái Nguyên. Tác đã làm sáng tỏ những<br />
vấn đề lý thuyết mà những nghiên cứu trước<br />
chưa giải quyết được. Bên cạnh đó, tác giả đã<br />
thiết kế bộ thang đo sự hài lòng của người học<br />
cũng như tiến hành khảo sát trong thực tế. Từ<br />
kết quả khảo sát, tác giả đã đề xuất những giải<br />
pháp trọng tâm góp phần nâng cao chất lượng<br />
đào tạo tại trường Đại học Kỹ thuật công<br />
nghiệp. Những kết quả nghiên cứu trên đây<br />
hy vọng sẽ giúp ích nhiều cho các nghiên cứu<br />
cùng chủ đề sau này cũng như đối với công<br />
tác quản lý tại trường Đại học Kỹ thuật công<br />
nghiệp – Đại học Thái Nguyên.<br />
31<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />