LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ĐỐI CHIẾU CÁCH THỂ HIỆN Ý NGHĨA<br />
CÔNG CỤ NGA - VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ<br />
NGÔN NGỮ HỌC ỨNG DỤNG<br />
ĐOÀN HỮU DŨNG*<br />
*<br />
Học viện Khoa học Quân sự, doandung8782@gmail.com<br />
Ngày nhận bài: 13/6/2018; ngày sửa chữa: 12/7/2018; ngày duyệt đăng: 30/8/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mặc dù Ngôn ngữ học ứng dụng đã từng được đề cập từ rất lâu nhưng phải đến thế kỷ XX mới thực<br />
sự là một địa hạt được chú ý nghiên cứu, phát triển và trở thành một phân ngành quan trọng trong<br />
nghiên cứu ngôn ngữ. Ngôn ngữ học ứng dụng ra đời sau nên đã thừa hưởng những thành tựu của<br />
việc áp dụng lý thuyết ngôn ngữ học vào đời sống ngôn ngữ, đã tạo ra những sản phẩm, những dịch<br />
vụ liên quan đến ngôn ngữ. Trong khuôn khổ của bài viết này chúng tôi trình bày một số vấn đề cơ<br />
bản như sau: 1) làm rõ khái niệm ngôn ngữ học ứng dụng; 2) kiến giải ngôn ngữ học đối chiếu có thể<br />
coi là thuộc ngôn ngữ học ứng dụng; 3) phân tích đối chiếu ý nghĩa công cụ và phương thức thể hiện<br />
ý nghĩa công cụ trong tiếng Nga và tiếng Việt.<br />
Từ khoá: ngôn ngữ học ứng dụng, ngôn ngữ học đối chiếu, công cụ, ý nghĩa ngữ pháp, lỗi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ ngoại lệ. Tuy nhiên, do đặc điểm loại hình ngôn<br />
ngữ khác nhau nên việc thể hiện ý nghĩa ngữ pháp<br />
Chức năng của khoa học là đi tìm bản chất, này trong hai ngôn ngữ Nga – Việt vừa có điểm<br />
thuộc tính và quy luật của các hiện tượng và tiến giống nhau vừa có điểm khác biệt. Việc nghiên<br />
hành các ứng dụng nhằm phục vụ cho lợi ích của cứu đối chiếu cách thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ<br />
con người. Như vậy, khoa học có hai phương diện công cụ giữa hai ngôn ngữ Nga – Việt có tính hữu<br />
là lý thuyết và ứng dụng. Lý thuyết là đối tượng dụng rất lớn trong nghiên cứu lí thuyết và ứng<br />
của khoa học cơ bản còn ứng dụng lại gắn với kỹ dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn dạy – học.<br />
thuật và công nghệ. Theo đó, phương pháp tiếp cận,<br />
cũng được chia thành hai nhánh là lý thuyết và ứng 2. NỘI DUNG<br />
dụng. Ngôn ngữ học là khoa học về ngôn ngữ nên 2.1. Ngôn ngữ học ứng dụng là gì?<br />
cũng có hai hướng tiếp cận nghiên cứu như vậy.<br />
Trong ngôn ngữ học, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng<br />
là một ý nghĩa mang tính phổ quát, và tiếng Nga nhất và là công cụ của tư duy. Nghiên cứu ngôn<br />
với tiếng Việt không phải là những trường hợp ngữ là phải nghiên cứu cả ba phương diện: bản<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 31<br />
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br />
<br />
<br />
chất, hệ thống và hoạt động của nó trong tiến trình nhằm đáp ứng với sự thay đổi của công nghệ và<br />
lịch sử và đồng đại (Đinh Văn Đức, 2012, tr.526). trình độ phát triển của xã hội, đặc biệt là cuộc cách<br />
mạng 4.0 đang diễn ra rộng khắp trên toàn thế giới.<br />
Đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là<br />
bản chất và chức năng của ngôn ngữ, hệ thống và Mục tiêu của ngôn ngữ học ứng dụng là phải<br />
cấu trúc của ngôn ngữ, cơ chế của ngôn ngữ và đạt đến một sự hiểu biết tối ưu, cung cấp một hệ<br />
các hoạt động của ngôn ngữ trong sự tương tác thống tri thức và kỹ năng cơ sở để xử lý các công<br />
của xã hội (Đinh Văn Đức, 2012, tr.526). Nếu như việc hiện có liên quan đến ngôn ngữ. Không có<br />
việc nghiên cứu bản chất, chức năng, hệ thống, cấu một địa hạt đơn lẻ nào của ngôn ngữ học ứng dụng<br />
trúc, cơ chế của ngôn ngữ chỉ dừng lại ở việc miêu có thể bao hàm cho mọi tri thức ứng dụng ngôn<br />
tả ngôn ngữ trên phương diện lí thuyết thì việc ngữ. (Đinh Văn Đức, 2012, tr.532). Hơn thế nữa,<br />
nghiên cứu các hoạt động của ngôn ngữ trong sự trong ngôn ngữ học ứng dụng, mỗi lĩnh vực đều có<br />
tương tác của xã hội được coi là những nghiên cứu sự tham chiếu các lĩnh vực khác trong nghiên cứu<br />
triển khai để tiếp cận các ứng dụng của ngôn ngữ ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ học ứng dụng, tính liên<br />
trong đời sống hàng ngày và trong sự phát triển ngành khá đa dạng bao gồm từ khoa học xã hội,<br />
của khoa học như các sáng chế về font chữ trên nhân văn, nghệ thuật, xã hội học, đến toán học ứng<br />
máy tính, các lĩnh vực điều khiển học, lý thuyết dụng, vật lí, điều khiển học, điện tử tin học, công<br />
hệ thống và thông tin ứng dụng, dạy và học ngoại nghệ thông tin, …<br />
ngữ, làm từ điển điện tử,… Việc đưa những thành<br />
tựu của lí thuyết ngôn ngữ học vào đời sống để tạo 2.2. Ngôn ngữ học đối chiếu cũng có thể coi<br />
ra các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến sử dụng là thuộc ngôn ngữ học ứng dụng<br />
ngôn ngữ đã hình thành một nhánh chuyên môn<br />
gọi là ngôn ngữ học ứng dụng. Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân ngành<br />
ngôn ngữ học nghiên cứu so sánh hai hoặc nhiều<br />
Ngôn ngữ học ứng dụng nên được hiểu là một hơn hai ngôn ngữ bất kì để xác định những điểm<br />
hệ thống học thuật về ngôn ngữ, có đối tượng và giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đó<br />
phương pháp riêng, nhằm tới kết quả của việc áp (Bùi Mạnh Hùng, 2008, tr.9). Như vậy, nhiệm vụ<br />
dụng những kiến thức và phương pháp ngôn ngữ của ngôn ngữ học đối chiếu là phát hiện những nét<br />
học vốn có vào các vấn đề của đời sống ngôn ngữ giống nhau về cấu trúc, chức năng, hoạt động của<br />
thực tế, thực tại (thông qua các sản phẩm và các các phương tiện ngôn ngữ được nghiên cứu, đồng<br />
dịch vụ) (Đinh Văn Đức, 2012, tr.529). Ngôn ngữ thời nó cũng còn chú ý cả cái khác nhau, xác định<br />
học ứng dụng là một hoạt động khoa học thực tiễn và nhận diện chúng, không tính đến vấn đề các<br />
đặc biệt có mục đích hoàn thiện các tiếp xúc ngôn ngôn ngữ được so sánh có quan hệ cội nguồn hay<br />
ngữ trong xã hội. Ngày nay, thuật ngữ ngôn ngữ thuộc cùng một loại hình hay không. Điều này tạo<br />
học ứng dụng tiếp tục được sử dụng để chỉ toàn thành cái đặc trưng của ngôn ngữ học đối chiếu<br />
bộ chuỗi các hoạt động ngôn ngữ dùng các tri thức so với các phân ngành ngôn ngữ học khác. Mục<br />
của ngôn ngữ học để tạo ra các dạng sản phẩm đích của việc thực hiện các nhiệm vụ và nội dung<br />
ngôn từ có lợi cho mọi lĩnh vực có sự tham gia nghiên cứu ấy là nhằm phục vụ cho yêu cầu dạy<br />
của ngôn ngữ. Việc nghiên cứu ngôn ngữ học ứng – học ngoại ngữ, phiên dịch, soạn sách dạy tiếng,<br />
dụng thường tập trung vào một số mảng nội dung từ điển, lý thuyết ngôn ngữ nên tính thực tiễn, tính<br />
lớn là: 1) kí hiệu học ngôn ngữ; 2) giáo dục ngôn ứng dụng của ngôn ngữ học đối chiếu là rất cao.<br />
ngữ; 3) các dịch vụ thông tin ngôn ngữ; 4) quản trị<br />
và tiếp thị các sản phẩm ngôn ngữ (Đinh Văn Đức, Trong việc dạy – học ngoại ngữ, người học<br />
2012, tr.530). Các địa hạt mới của ngôn ngữ học bao giờ cũng có xu thế áp đặt các thói quen của<br />
ứng dụng hiện nay cũng đang tiếp tục tăng nhanh tiếng mẹ đẻ cho tiếng nước ngoài (Bùi Hiền, 1997,<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
32 Số 15 - 9/2018<br />
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br />
<br />
<br />
<br />
tr.47). Hệ quả là sẽ tạo ra lỗi dùng ngoại ngữ do việc biên soạn từ điển. Từ điển là sản phẩm ngôn<br />
chuyển di. Dạy – học ngoại ngữ đương nhiên bao ngữ của ngôn ngữ học; là công cụ để tra cứu, tìm<br />
giờ cũng tạo ra sự tiếp xúc trực tiếp giữa ngoại ngữ kiếm để giúp đỡ chúng ta lấy những thông tin khác<br />
với tiếng mẹ đẻ của người học. Trong sự tiếp xúc nhau về ngữ nghĩa, khoa học, … (Đinh Văn Đức,<br />
ấy luôn luôn bọc lộ sự tương đồng và khác biệt của Nguyễn Văn Chính, Đinh Kiều Châu, 2016, tr.51).<br />
hai ngôn ngữ; và chúng thường xuyên tác động lẫn Đối với từ điển song ngữ, do phải giải thích nghĩa<br />
nhau trong suốt cả quá trình hình thành các kỹ năng và cách dùng của một số lượng rất lớn các đơn vị<br />
giao tiếp bằng tiếng nước ngoài. Người học có thể từ vựng nên những thông tin về các điểm tương<br />
tự giác hoặc không tự giác nhận thấy những chỗ đồng và dị biệt của những đơn vị được coi là tương<br />
giống nhau hoặc khác nhau trong hai ngôn ngữ, đương trong hai ngôn ngữ thường chưa được chi<br />
nhưng bao giờ họ cũng tự cảm thấy được sự dễ tiết và đầy đủ nhưng đó cũng là những đóng góp<br />
dàng hoặc khó khăn trong việc học tập từng hiện hữu dụng rất lớn của ngôn ngữ học đối chiếu.<br />
tượng, từng thao tác của tiếng nước ngoài. Nghiên<br />
cứu đối chiếu có thể giúp xác định chính xác Như vậy, các phạm vi ứng dụng của ngôn ngữ<br />
những thuận lợi và khó khăn mà những học viên học đối chiếu rất rộng lớn và đa dạng, trong đó<br />
có cùng tiếng mẹ đẻ gặp phải khi học một ngoại ứng dụng vào lĩnh vực dạy-học ngôn ngữ, biên<br />
ngữ nào đó bằng cách phát hiện những điểm tương soạn từ điển hay dịch thuật … chỉ là một số hướng<br />
đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Sự phân tích cơ bản và chiếm vị trí khá khiêm tốn trong tương<br />
đối chiếu giúp người ta giải thích nhanh hơn và quan với các hướng ứng dụng nói chung của lĩnh<br />
đơn giản hơn những lỗi do ảnh hưởng của tiếng vực nghiên cứu này. Dưới đây, để làm sáng tỏ hơn<br />
mẹ đẻ, nhờ đó tìm ra những cách thức khắc phục vấn đề hữu quan, chúng tôi sẽ phân tích một vài<br />
lỗi có hiệu quả. Đây được coi là vấn đề trung tâm khía cạnh có tính chất ứng dụng của ngôn ngữ học<br />
của ngôn ngữ học đối chiếu theo hướng ứng dụng. đối chiếu trong khi đối chiếu ý nghĩa công cụ và<br />
phương thức thể hiện nghĩa công cụ trong tiếng<br />
Một mảng ứng dụng lớn nữa của ngôn ngữ Nga và tiếng Việt.<br />
học đối chiếu có liên quan đến hoạt động phiên<br />
dịch, vì công việc phiên dịch cũng cùng một lúc 2.3. Ý nghĩa công cụ và phương thức thể<br />
phải quan hệ với ít nhất hai ngôn ngữ. Lý luận dịch hiện trong tiếng Nga và tiếng Việt dưới góc độ<br />
ngôn ngữ xem xét việc dịch như là một sự chuyển ngôn ngữ học ứng dụng<br />
mã, là một sự cải biến giữa các ngôn ngữ, là một<br />
hoạt động sáng tạo ngôn ngữ từ văn bản gốc ra Việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có thể<br />
bản dịch (Lê Quang Thiêm, 2008, tr.57). Quá trình thực hiện ở tất cả các bình diện: ngữ âm, từ vựng,<br />
dịch được xem là quá trình cải biến giữa hai ngôn ngữ pháp (hình thái học và cú pháp); ở tất cả các<br />
ngữ, trong đó nội dung của bản gốc và bản dịch đơn vị thuộc các cấp độ khác nhau của cấu trúc<br />
hoàn toàn giống nhau mặc dù phương tiện biểu đạt ngôn ngữ: âm vị, hình vị, từ và các đơn vị của lời<br />
của hai ngôn ngữ có khác nhau. Quá trình so sánh nói: ngữ đoạn và câu. Nghĩa là bình diện nào, cấp<br />
đối chiếu bản dịch với bản gốc là cơ sở để đánh giá độ nào của hệ thống ngôn ngữ và của lời nói có<br />
kết quả dịch. Quá trình này giúp chỉ ra cách thức thể miêu tả thì cũng có thể nghiên cứu đối chiếu.<br />
để đạt được cách dịch, xác lập những tương ứng Trong tất cả các bình diện trên, so với đối chiếu<br />
mang tính quy luật giữa các yếu tố của hai ngôn ngữ âm và từ vựng thì việc nghiên cứu đối chiếu ở<br />
ngữ. Đây là những yếu tố rất thiết thực đối với hoạt bình diện ngữ pháp phong phú và đa dạng hơn, nó<br />
động thực tiễn dịch thuật. có thể là các đơn vị, các lớp ngữ pháp, các cấu trúc<br />
ngữ pháp, các quan hệ và phạm trù ngữ pháp cũng<br />
Ngôn ngữ học ứng dụng luôn chú ý đến các như những phương tiện biểu hiện các quan hệ và<br />
loại sản phẩm công cụ hỗ trợ, và một trong đó là phạm trù này. Để làm rõ hơn những điểm trên đây,<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 33<br />
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br />
<br />
<br />
chúng ta có thể phân tích một đối chiếu cụ thể để Các danh động từ:<br />
làm minh chứng: đó là đối chiếu ý nghĩa ngữ pháp<br />
chỉ công cụ và phương thức thể hiện trong tiếng Рубка топором (chẻ, chặt bằng rìu)<br />
Nga và tiếng Việt.<br />
Размахивание руками (khoa chân múa tay)<br />
Ý nghĩa công cụ trong ngữ pháp gần như một<br />
phổ niệm ngôn ngữ gặp trong hầu khắp mọi thứ (Các ví dụ dẫn theo I.M. Punkina, 1983, tr.98)<br />
tiếng. Nhưng cách biểu hiện ý nghĩa công cụ trong<br />
Ngoài phương thức phụ tố, trong tiếng Nga, ý<br />
mỗi ngôn ngữ có thể khác nhau, do đặc điểm loại<br />
nghĩa ngữ pháp chỉ “công cụ” còn được thể hiện<br />
hình và cấu trúc ngữ pháp cụ thể của chúng quy<br />
thông qua các giới từ ở hầu hết các cách, tức là, thể<br />
định. Theo chúng tôi, ý nghĩa ngữ pháp công cụ là<br />
hiện bằng cách kết hợp cả hai phương thức hư từ<br />
một loại ý nghĩa ngữ pháp của phạm trù ngữ pháp<br />
công cụ, biểu thị cách thức, phương thức, phương và phương thức phụ tố:<br />
tiện để thực hiện một hành động nào đó nhằm một<br />
- giới từ из và с + cách 2: кормить ребенка<br />
mục đích nào đó và được thể hiện chủ yếu bằng<br />
с ложечки (кашей), пить из стакана воду, …<br />
phương thức hư từ, phụ tố và trật tự từ.<br />
- giới từ по + cách 3: разговаривать по<br />
Tiếng Nga thuộc loại hình ngôn ngữ hoà kết<br />
телефону, …<br />
nên ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ chủ yếu được<br />
thể hiện bằng phương thức phụ tố và phương thức - giới từ в, на, через, о + cách 4: закутаться<br />
sử dụng hư từ. Phương thức phụ tố là phương thức в одеяло, ловить рыбу на удочку, говорить<br />
hoặc là liên kết vào căn tố một hoặc một vài phụ<br />
через микрофон, разбить яйцо о стол, …<br />
tố, hoặc là biến đổi hậu tố từ hình thức này sang<br />
hình thức khác để biểu hiện một ý nghĩa ngữ pháp - giới từ с và под + cách 5: идти под зонтом,<br />
nhất định. Trong tiếng Nga, phương thức phụ tố идти с палкой, …<br />
thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ “công cụ” và các<br />
quan hệ ngữ pháp hữu quan nằm ở việc biến đổi - giới từ в và на + cách 6: читать книгу в<br />
hình thức của danh từ để nó có hình thức của danh очках, ехать на параходе, …<br />
từ ở cách công cụ (thường quen gọi tắt là cách<br />
5) mà không cần sử dụng giới từ. Ví dụ: danh từ Các hậu tố của danh từ sẽ được biến đổi theo<br />
giống đực và giống trung, số ít sẽ mang các hậu tố: quy luật biến đổi chung của các danh từ ở các cách<br />
-ом, -ем; danh từ giống cái, số ít sẽ mang các hậu tương ứng mà giới từ đó quy định. Mặc dù có rất<br />
tố: -ой, -ей; danh từ số nhiều sẽ mang các hậu tố: nhiều giới từ thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ công<br />
-ами, -ями. cụ nhưng giới từ с + cách 5 và giới từ в/на + cách<br />
6 là được sử dụng với tần suất cao hơn cả.<br />
Ví dụ:<br />
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập,<br />
Ученик пишет на доске мелом, вытирает các ý nghĩa ngữ pháp không biểu hiện ở bên trong<br />
доску тряпкой. (Cậu học sinh viết trên bảng bằng từ mà bên ngoài từ, nên việc thể hiện ý nghĩa ngữ<br />
phấn, lau bảng bằng giẻ.)<br />
pháp chỉ công cụ chủ yếu được thể hiện bằng<br />
Отец рубит топором дрова. (Bố chẻ củi phương thức hư từ và phương thức trật tự từ. Một<br />
bằng rìu.) số hư từ chủ yếu có chức năng biểu hiện quan hệ<br />
ngữ pháp và/hoặc ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ,<br />
Женщина разрезала ножницами кусок phương tiện trong tiếng Việt là: bằng, qua, nhờ,<br />
ткани. (Người phụ nữ cắt mảnh vải bằng kéo.) với, dựa vào, dựa, thông qua,…<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
34 Số 15 - 9/2018<br />
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br />
<br />
<br />
<br />
- bằng: ăn bằng đũa, đi bằng nạng, đào bằng Xét một số ví dụ sau:<br />
cuốc, làm bằng tay, đá bóng bằng chân, đỡ bóng<br />
bằng ngực, ghi bàn bằng đầu,… (1) Cầu thủ số 10 đỡ bóng bằng ngực.<br />
<br />
- qua: biết tin qua báo đài, trao đổi thông tin (2) Con tôi cắt giấy bằng kéo.<br />
qua email, gửi ảnh qua zalo, gửi lời chúc qua thầy<br />
(3) Hắn giết người bằng dao.<br />
đến gia đình,…<br />
(4) Cô ấy viết báo cáo bằng máy tính bảng.<br />
- nhờ: đi học nhờ xe buýt, cầu vững nhờ dây<br />
cáp, lên núi nhờ cáp treo, nhờ giời mà mùa màng (5) Nó che miệng bằng tay.<br />
bội thu,…<br />
(6) Ông ta tố cáo cấp trên bằng thư nặc danh.<br />
- thông qua: làm việc thông qua internet, hội<br />
đàm thông qua phiên dịch, thể hiện lập trường Ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong các câu<br />
thông qua người phát ngôn,… trên được thể hiện bằng phương thức sử dụng hư từ<br />
bằng kết hợp với các danh từ biểu đạt ý nghĩa công<br />
- dựa/dựa vào: sống dựa vào lương hưu, thăng cụ để thực hiện các hành động của vị từ. Các hư từ<br />
tiến dựa vào quan hệ, sống dựa con cháu… đó luôn đứng sau vị từ. Tuy nhiên, nếu đảo danh<br />
từ mang ý nghĩa chỉ công cụ lên trước vị từ và kết<br />
- tựa/nương tựa: tuổi già nương tựa con cháu, hợp với một thực từ (chủ yếu là hai vị từ dùng và<br />
đứng tựa cửa,… lấy) chúng ta sẽ tạo ra được một cấu trúc câu mới<br />
vẫn mang ý nghĩa chỉ công cụ mà lại không cần sử<br />
Các hư từ trên biểu hiện ý nghĩa quan hệ về<br />
dụng đến hư từ bằng. Đó là:<br />
mặt công cụ giữa vị từ hành động và các bổ ngữ.<br />
Công cụ ở đây có thể là một sự vật, một vật thể (1’) Cầu thủ số 10 lấy ngực đỡ bóng.<br />
cụ thể (đũa, nạng, cuốc, báo đài, xe buýt, cáp<br />
treo,…), đó cũng có thể là những sự vật mang tính (2’) Con tôi dùng kéo cắt giấy.<br />
trừu tượng (zalo, internet, email, lương hưu, quan<br />
hệ, giời,…), đó cũng có thể là chính con người (3’) Hắn dùng dao giết người.<br />
hoặc một bộ phận cơ thể con người (phiên dịch,<br />
thầy, chân, tay, ngực, đầu,…) (4’) Cô ấy sử dụng máy tính bảng viết báo cáo.<br />
<br />
Một trong những đặc điểm bản chất của tín (5’) Nó dùng/lấy tay che miệng.<br />
hiệu ngôn ngữ là tính hình tuyến, nghĩa là các tín (6’) Ông ta dùng thư nặc danh tố cáo cấp trên.<br />
hiệu ngôn ngữ không thể đồng thời xuất hiện, mà<br />
phải lần lượt kế tiếp nhau trong chuỗi lời nói (Đỗ Các câu (1), (2), (3), (4), (5), (6) và (1’), (2’),<br />
Hữu Châu, Bùi Minh Toán, 2011, tr.87). Điều này (3’), (4’), (5’), (6’) có thể áp dụng để kiểm chứng<br />
có nghĩa là, trật tự sắp xếp các tín hiệu cũng có vai lẫn nhau trong việc xác định ý nghĩa ngữ pháp chỉ<br />
trò là một phương tiện biểu hiện, và để biểu hiện công cụ trong câu. Chúng đều có giá trị về nghĩa<br />
ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ, trật tự sắp xếp các và ngữ pháp, do đó có thể khẳng định, việc thay<br />
từ cũng được sử dụng với tư cách là một phương đổi trật tự từ (bằng cách đảo vị từ trung tâm ra<br />
thức. Phương thức trật tự từ biểu đạt ý nghĩa ngữ sau danh từ chỉ công cụ và không cần sử dụng hư<br />
pháp chỉ công cụ được sử dụng chủ yếu trong ngôn từ chỉ công cụ) là một phương thức ngữ pháp thể<br />
ngữ đơn lập như tiếng Việt mà rất hiếm khi được hiện ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong tiếng Việt.<br />
sử dụng trong ngôn ngữ có biến đổi hình thái như Có thể, việc đảo này chỉ áp dụng được cho nhóm<br />
tiếng Nga. những vị từ động có tiền giả định nét nghĩa đỏi<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 35<br />
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br />
<br />
<br />
hỏi công cụ mà hai vị từ dùng và lấy là điển hình. ngữ pháp chỉ công cụ là một phương thức chung<br />
Phương thức đảo như này hoàn toàn không xảy ra mà cả tiếng Nga lẫn tiếng Việt đều sử dụng với tần<br />
trong tiếng Nga. suất cao, còn việc dùng hư từ nào là chính để phục<br />
vụ cho biểu đạt ý nghĩa này lại là điểm khác biệt<br />
Như vậy, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong nhỏ giữa hai ngôn ngữ.<br />
tiếng Nga và tiếng Việt có điểm tương đồng và<br />
cũng có điểm dị biệt. Tiếng Nga và tiếng Việt là Tóm lại, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ là sự<br />
hai ngôn ngữ điển hình cho hai loại hình khác nhau phản ánh những kết quả của nhận thức và tư duy<br />
là loại hình ngôn ngữ hoà kết và loại hình ngôn vào ngôn ngữ, ở đây là hai ngôn ngữ khác loại<br />
ngữ đơn lập. Điều này lí giải một cách hiển nhiên hình là tiếng Nga và tiếng Việt. Trong cả hai ngôn<br />
về các điểm khác biệt trong các phương thức ngữ ngữ Nga và Việt, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ đều<br />
pháp nói chung và trong các phương thức thể hiện được diễn đạt bằng những hình thức chung có tính<br />
ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ nói riêng. Phương đồng loạt. Phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp<br />
thức phụ tố chủ yếu được sử dụng trong các ngôn chỉ công cụ trong tiếng Nga chủ yếu là phương<br />
ngữ có biến đổi hình thái, mà tiếng Nga là điển thức phụ tố, do đây là loại hình ngôn ngữ có biến<br />
hình, do vậy, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ trong đổi hình thái, còn phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ<br />
tiếng Nga cũng chủ yếu được thể hiện bằng phương pháp chỉ công cụ chỉ có trong tiếng Việt mà không<br />
thức phụ tố. Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ xuất hiện trong tiếng Nga là phương thức trật tự từ.<br />
đơn lập, từ không biến đổi hình thái. Mối quan hệ Tuy nhiên, trong cả tiếng Nga lẫn tiếng Việt vẫn có<br />
giữa các từ ở trong câu, chức năng cú pháp của các chung một phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp<br />
từ trong câu không được biểu hiện bằng hình thái chỉ công cụ, là phương thức hư từ. Tiếng Nga chủ<br />
của từ. Chính vì thế, trong tiếng Việt sẽ không tồn yếu là dùng các giới từ ở các cách, tiếng Việt dùng<br />
tại phương thức phụ tố với tư cách là một phương các hư từ mang ý nghĩa chỉ công cụ của hành động.<br />
thức ngữ pháp thể hiện ý nghĩa chỉ công cụ. Ứng dụng của việc nghiên cứu đối chiếu ý nghĩa<br />
ngữ pháp “công cụ” và các phương thức thể hiện<br />
Trong tiếng Nga “trật tự từ trước hết có vai trò chúng trong tiếng Nga và tiếng Việt là để phát hiện<br />
về tu từ, chứ không phải về ngữ pháp” (Đỗ Hữu những sự giống nhau và khác nhau, các điểm khác<br />
Châu, Bùi Minh Toán, 2011, tr.87), trái lại, trong biệt và tương đồng, làm cơ sở nghiên cứu các lỗi<br />
tiếng Việt, nếu ta thay đổi trật tự sắp xếp của các thường gặp trong việc dạy-học tiếng Nga và tiếng<br />
từ trong một câu thì trước hết là ý nghĩa ngữ pháp Việt như một ngoại ngữ.<br />
của các từ đó thay đổi; sau đó mới có thể là những<br />
chức năng phong cách học, tu từ học nào đó. Như Theo Nguyễn Thiện Nam (2001), trong quá<br />
vậy, ý nghĩa ngữ pháp chỉ công cụ thể hiện bằng trình học một ngoại ngữ thường phát sinh một số<br />
phương thức trật tự từ sẽ chủ yếu xảy ra trong tiếng dạng lỗi như: lỗi các yếu tố thuộc ngữ đoạn danh<br />
Việt mà không tồn tại trong tiếng Nga với tư cách từ, lỗi các yếu tố thuộc ngữ đoạn vị từ, lỗi thuộc<br />
là một phương thức ngữ pháp. một số hiện tượng ngữ pháp, lỗi giao thoa, lỗi dùng<br />
từ loại, lỗi trật tự từ, lỗi dùng giới từ, lỗi dùng từ<br />
Phương thức hư từ được sử dụng rộng rãi ở cả do giao thoa,… Trong số đó, lỗi thường xuyên mắc<br />
ngôn ngữ biến hình lẫn ngôn ngữ đơn lập, tức là phải của người Việt học tiếng Nga là lỗi về sử dụng<br />
hiện diện cả trong tiếng Nga lẫn tiếng Việt, cho dù giới từ chỉ công cụ. Đây là lỗi rất cơ bản, thường<br />
đây là hai ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau về loại xuyên xảy ra đối với người mới học do hiện tượng<br />
hình, về ngữ hệ, … Đây được coi là điểm tương trực dịch (literal translation), có nghĩa là: người<br />
đồng về phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp học dịch từng từ theo ngữ pháp tiếng mẹ đẻ (dựa<br />
chỉ công cụ trong cả hai ngôn ngữ, tuy nhiên, mỗi vào hiện tượng chuyển di). Khi học và dịch một<br />
ngôn ngữ lại có cách sử dụng hư từ riêng trong câu, một cụm từ có giới từ từ tiếng Nga sang tiếng<br />
việc biểu đạt. Việc dùng hư từ để biểu đạt ý nghĩa Việt, người học thường dịch quá sát nghĩa, hiểu<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
36 Số 15 - 9/2018<br />
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br />
<br />
<br />
<br />
quá sát nghĩa nên dẫn tới những cách hiểu và sử chấp nhận phần nào đó các câu lệch chuẩn của<br />
dụng chưa chuẩn do giới từ chỉ công cụ trong tiếng người học ngoại ngữ. Vì vậy, người dạy không nên<br />
Nga có mặt ở tất cả các cách. Ngược lại, khi học và quá sa đà vào việc tạo chuẩn cho người học trong<br />
chuyển dịch từ tiếng Việt sang tiếng Nga, việc dùng quá trình học thực hành tiếng, như thế sẽ làm mất<br />
hay không dùng giới từ cũng là điều mà người Nga đi tính tự nhiên trong giao tiếp bằng ngoại ngữ,<br />
học tiếng Việt thường xuyên mắc phải và tạo ra ảnh hưởng đến năng lực sử dụng ngoại ngữ trong<br />
những lệch chuẩn không đáng có. Trên thực tế đã quá trình thực hành. Việc tự khắc phục lỗi sử dụng<br />
có rất nhiều trường hợp vì hiểu và dịch sát nghĩa lệch chuẩn (ở đây là giới từ chỉ công cụ) nên để<br />
quá nên tạo ra những phương án dịch ngây thơ cho người học tự tìm hiểu qua từ điển và các sách<br />
kiểu như: стрелять из ружья (пулями) => bắn tra cứu ngữ pháp trong thời gian tự học ở nhà hay<br />
từ súng, кормить ребенка с ложечки (кашей) => trên thư viện, để cho người học tự nhận biết, sửa<br />
cho bé ăn cháo từ thìa, играть пьесу по нотам và hoàn thiện trong quá trình dịch (đặc biệt là biên<br />
=> đánh đàn theo ngón tay, разговаривать<br />
dịch vì gần như người biên dịch sẽ phải đọc lại bản<br />
по телефону => nói chuyện theo điện thoại,<br />
thảo lần cuối để chỉnh sửa, trau chuốt câu từ).<br />
ловить рыбу на удочку => câu cá đến cần câu,<br />
закутаться в одеяло => quấn người vào chăn, 3. KẾT LUẬN<br />
говорить через микрофон => nói chuyện thông<br />
qua tai nghe, вытирать руки о полотенце => lau Trong khuôn khổ của bài viết này, dưới góc<br />
tay về khăn, идти под зонтом => đi dưới ô, идти độ nghiên cứu đối chiếu một hiện tượng ngữ pháp<br />
с палкой => đi với nạng, ехать в автобусе => đi trong tiếng Nga và tiếng Việt, chúng tôi cố gắng<br />
trong xe buýt, спускаться на парашюте => nhảy nhận diện một số nét cơ bản của việc ứng dụng<br />
trên dù, читать книгу в очках => đọc sách trong kết quả nghiên cứu trong dạy và học ý nghĩa ngữ<br />
kính, плавать в ластах => bơi trong áo phao… pháp chỉ công cụ trong tiếng Việt và tiếng Nga,<br />
(Муравенко Е.В., 1988, tr.77). Nguyên nhân của phát triển tri thức ngữ pháp, rèn luyện kỹ năng<br />
các hiện tượng lệch chuẩn trên là: thông thường ngôn ngữ, ngăn ngừa và sửa lỗi trong quá trình<br />
trong tiếng Nga, các giới từ из và с ở cách 2 (sinh học, trong dịch thuật cũng như biên soạn từ điển.<br />
cách) có ý nghĩa chỉ nguồn xuất phát hành đồng;<br />
Việc có thể ứng dụng những vấn đề về đối chiếu<br />
giới từ по ở cách 3 (tặng cách) có ý nghĩa chỉ sự<br />
ngôn ngữ, cụ thể là đối chiếu ý nghĩa ngữ pháp<br />
vỗ, đập, đánh vào một vật nào đó; giới từ на và в<br />
chỉ công cụ trong hai ngôn ngữ như chúng tôi đã<br />
ở cách 4 (tân cách) thường có ý nghĩa chỉ hướng<br />
trình bày trên đây, là rõ ràng. Còn ứng dụng như<br />
hành động; giới từ через ở cách 4 mang ý nghĩa<br />
thế nào, ứng dụng cho địa hạt nghiên cứu nào là<br />
thông qua ai, nhờ vào cái gì đó; giới từ о ở cách 6<br />
(giới cách) chỉ đối tượng của suy nghĩ; giới từ под việc lựa chọn theo nhu cầu, nhiệm vụ và mục đích<br />
ở cách 5 (công cụ cách) chỉ địa điểm; giới từ с ở cụ thể của các nhà nghiên cứu, nhà sư phạm, của<br />
cách 5 chỉ sự cùng hành động; các giới từ в và на những người tham gia xây dựng từ điển và của<br />
ở cách 6 thường mang ý nghĩa chỉ địa điểm;… Khi chính những người học hai ngôn ngữ Nga và Việt.<br />
học người học đã không căn cứ vào các văn cảnh, Tài liệu tham khảo:<br />
tình huống giao tiếp cụ thể để có phương án dịch<br />
phù hợp, trái lại, chỉ căn cứ vào các ý nghĩa thông Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2011), Đại cương ngôn<br />
dụng của từng giới từ ở từng cách để dịch nên dẫn ngữ học (tập 1), NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.<br />
đến các hiện tượng lệch chuẩn như trên. Đoàn Hữu Dũng (2018), “Sự thể hiện ý nghĩa ngữ pháp<br />
chỉ công cụ trong tiếng Nga và tiếng Việt”, Tạp chí<br />
Vậy khắc phục hiện tượng này như nào? Hiện<br />
Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, số 13, tr.23-28.<br />
nay, theo quan điểm của chúng tôi, việc xuất hiện<br />
lỗi như trên là một hiện tượng hoàn toàn tự nhiên Đinh Văn Đức (2012), Ngôn ngữ học đại cương - Những<br />
trong quá trình học ngoại ngữ và người dạy cần nội dung quan yếu, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 37<br />
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br />
<br />
<br />
Đinh Văn Đức, Nguyễn Văn Chính, Đinh Kiều Châu liên quan”, Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Khoa<br />
(2016), Ngôn ngữ học ứng dụng (giáo trình), NXB học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.<br />
Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các<br />
Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh ngôn ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.<br />
Thuyết (2014), Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo<br />
I. M. Punkina (1983), Tóm lược ngữ pháp tiếng Nga,<br />
dục Việt Nam, Hà Nội.<br />
(Bùi Hiền dịch), NXB Tiếng Nga, Mát-xcơ-va.<br />
Bùi Hiền (1997), Phương pháp hiện đại dạy học ngoại<br />
ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Муравенко Е.В. (1988). Выражение<br />
инструментального значения падежными<br />
Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB и предложно-падежными формами//<br />
Giáo dục, Hà Nội. Идеографические аспекты русской грамматики/<br />
Nguyễn Thiện Nam (2001), “Khảo sát lỗi ngữ pháp Под. ред. В.А. Белошапковой и И.Г.<br />
tiếng Việt của người nước ngoài và những vấn đề Милославского. - М.: Изд-в МГУ, С. 75-94.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
A COMPARATIVE STUDY ON EXPRESSIONS OF INSTRUMENTAL MEANING<br />
IN RUSSIAN AND VIETNAMESE FROM THE PERSPECTIVE<br />
OF APPLIED LINGUISTICS<br />
DOAN HUU DUNG<br />
Abstract: Applied linguistics had already been discussed for many years. However, not until the 20th<br />
century was it studied, developed and expanded to become an important topic of research. Thanks to<br />
its late emergence, applied linguistics inherits various achievements in applying linguistic theory into<br />
reality, creating spoken and written produts and other related services. Within its limited framework,<br />
this article aims to: 1) clarify the definition of applied linguistics; 2) discuss whether contrastive<br />
linguistics could be regarded as an aspect of applied linguistics; 3) analyze instrumental meaning and<br />
its expression in Russian and Vietnamese<br />
Keywords: Applied lingguistics, contrastive linguistics, instruments, grammatical meaning, errors<br />
Received: 02/3/2018; Revised: 11/4/2018; Accepted for publication: 20/4/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
38 Số 15 - 9/2018<br />