intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đối chiếu giới từ địa điểm trong tiếng Đức vor (trước) hinter (sau) với tiếng Việt

Chia sẻ: ViPutrajaya2711 ViPutrajaya2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

62
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung tìm hiểu về những giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại trong tiếng Đức gồm những giới từ: “vor (trước)/ hinter (sau)”, đối chiếu với tiếng Việt. Qua đó, bài viết cho thấy sự giống nhau và khác nhau trong cách sử dụng những giới từ chỉ địa điểm mang nghĩa không gian (tri nhận) trong tiếng Đức và tiếng Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đối chiếu giới từ địa điểm trong tiếng Đức vor (trước) hinter (sau) với tiếng Việt

  1. Nghiên Tạp chí cứu Khoatrao họcđổi ● Research-Exchange - Viện of 63 Đại học Mở Hà Nội opinion (1/2020) 39-47 39 ĐỐI CHIẾU GIỚI TỪ ĐỊA ĐIỂM TRONG TIẾNG ĐỨC VOR (TRƯỚC)/ HINTER (SAU) VỚI TIẾNG VIỆT COMPARING LOCATIONAL PREPOSITION IN GERMAN VOR (BEFORE) / HINTER (AFTER) AND VIETNAMESE Nguyễn Thị Nương* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/7/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 2/01/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/01/2020 Tóm tắt: Bài báo tập trung tìm hiểu về những giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại trong tiếng Đức gồm những giới từ: “vor (trước)/ hinter (sau)”, đối chiếu với tiếng Việt. Qua đó, bài viết cho thấy sự giống nhau và khác nhau trong cách sử dụng những giới từ chỉ địa điểm mang nghĩa không gian (tri nhận) trong tiếng Đức và tiếng Việt. Những giới từ này không dễ sử dụng và thường gây nhầm lẫn và lúng túng cho người học. Vì vậy, chúng tôi hy vọng rằng những kết quả nghiên cứu của bài viết sẽ giúp người học hiểu biết rõ ràng hơn về cách sử dụng cũng như phân loại giới từ theo các đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của nó. Từ khóa: giới từ, tri nhận, tương đồng, khác biệt, tiếng Đức, tiếng Việt. Abstract: The article focuses on the prepositions of static locations in German including the prepositions: “vor (front) / hinter (after)”, in reference to Vietnamese. Thereby, the article shows the similarities and differences in the use of spatial prepositions with spatial meaning (cognition) in German and Vietnamese. These prepositions are not easy to use and are often confuse the learners. Therefore, we hope that the research results of the article will help learners to better understand the use and classification of prepositions according to their semantic and grammatical characteristics. Keywords: prepositions, cognition, similarities, differences, German, Vietnamese. 1. Đặt vấn đề Nam sang Đức làm việc tại các bệnh viện cũng như trại dưỡng lão thì tiếng Đức Hiện nay trong bối cảnh hội nhập, ngày càng trở nên phổ biến. Một người có hợp tác quốc tế, tiếng Đức trở thành một trình độ chuyên môn vững vàng, cùng với ngôn ngữ và phương tiện thật sự quan việc sử dụng tiếng Đức tốt giúp họ có ưu trọng và cần thiết. Đặc biệt trong lĩnh vực thế vượt trội hơn so với những người có hợp tác giữa Việt Nam và Đức về lĩnh vực trình độ chuyên môn và dễ dàng có công y học, hợp tác đưa điều dưỡng của Việt việc với thu nhập cao tại một nước phát * Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông
  2. 40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion triển là nước Đức. Vì vậy thông qua ngôn Nhưng ở đây tác giả chỉ đề cập đến ngữ, con người có thể bày tỏ ý kiến, trao đặc điểm những giới từ không gian là các đổi với nhau những giá trị vật chất cũng giới từ chỉ địa điểm tĩnh trong tiếng Đức như giá trị tinh thần và tìm hiểu về nền và đối chiếu với tiếng Việt. văn hóa cũng như những tập tục của đất Trong tiếng Đức cũng như tiếng nước mình. Hay nói cách khác, ngôn ngữ Việt, giới từ xuất hiện tương đối thường cũng chính là phương tiện để truyền tải và xuyên trong câu. Tuy nhiên, giới từ không gìn giữ những truyền thống tốt đẹp, giá trị, được sử dụng giống nhau trong các ngôn phong tục, văn hóa và tập quán của mỗi ngữ khác nhau vì sự khác nhau về văn hóa dân tộc. Mỗi đặc điểm ngôn ngữ của mỗi và các đặc điểm ngôn ngữ khác nhau. Việc quốc gia đều có những nét tương đồng và thiếu kiến thức sử dụng giới từ dẫn đến khác biệt và hàm chứa những nét văn hóa các tình huống hiểu nhầm. Ví dụ người đặc trưng. Chính những sự khác biệt về Việt Nam nói: Bức tranh treo trên trường đặc điểm ngôn ngữ, đặc biệt khi dùng các và thường được dịch sang tiếng Đức là giới từ chỉ không gian khi nói về sự vật Das Bild hängt auf der Wand (Bức tranh sự việc chính là rào cản ảnh hưởng đế quá treo trên trường), trong câu này nên được trình giao tiếp hoặc trong văn bản và dịch viết là Das Bild hängt an der Wand. (Bức thuật. Vì vậy, việc nghiên cứu so sánh đặc tranh treo trên trường) điểm giữa các ngôn ngữ nhằm mục đích chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt Nguyên do của những lỗi điển hình là việc làm cần thiết và có ý nghĩa góp này là người nói chỉ dịch đơn giản từ “trên” phần nâng cao hiệu quả giao tiếp. thành từ “auf” mà không biết rằng trong trường hợp này người Đức sử dụng cách diễn Đồng thời trong quá trình sử dụng đạt khác. Chính vì vậy việc hiểu chức năng ngôn ngữ giúp cho người đọc và người cũng như ý nghĩa của các loại hình từ vựng học nhận thấy cách sử dụng đúng trong là rất quan trọng. Khi tiếp nhận ngôn ngữ, câu cũng như hiểu rõ được các loại hình người học tiếng Đức thường gặp khó khăn giới từ, cấu trúc câu, cấu tạo từ, chức khi sử dụng giới từ chỉ không gian hay địa năng ngữ pháp và ngữ nghĩa của giới từ. điểm. Tuy nhiên cho đến ngày nay vẫn chưa Qua đó cũng giúp người dùng tránh hiểu có công trình nghiên cứu rõ ràng nào về chủ nhầm cách dùng giới từ trong tiếng Đức đề “giới từ chỉ không gian”, do đó chúng tôi và phân biệt được một cách rõ ràng trong lựa chọn chủ đề “Đối chiếu giới từ địa điểm các trường hợp và ngữ cảnh khác nhau. trong tiếng Đức vor (trước)/ hinter (sau) với Giới từ là từ loại chỉ mối liên quan tiếng Việt” để nghiên cứu làm rõ nghĩa hơn. giữa các từ, cụm từ trong câu. Giới từ 2. Nội dung trong tiếng Đức được phân loại và hệ thống thành các dạng bao gồm: giới từ chỉ 2.1. Giới từ chỉ địa điểm trong địa điểm, giới từ chỉ thời gian, giới từ chỉ tiếng Đức cách thức, nguyên nhân hoặc mục đích. Một nhóm từ với ý nghĩa địa điểm Giới từ dùng để chỉ sự tương quan về vị tạo thành phần chính trong giới từ tiếng trí, thời gian, kiểu cách, nguyên nhân giữa Đức. Theo Schröder, giới từ chỉ địa điểm các vật thể, sự vật, con người được nhắc trong tiếng Đức được chia thành hai nhóm. đến trong câu. Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại không mô tả
  3. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 41 sự thay đổi địa điểm, trong khi đó giới từ - Trên trục ngang (a) có giới từ: vor, chỉ hướng chuyển động lại mô tả sự thay hinter, gegenüber. đổi địa điểm. Tuy nhiên, không dễ để xác - Trên trục ngang (b) có giới từ định liệu một giới từ nhất định thuộc về một nhóm này hay nhóm nào khác, do đó neben. việc mô tả địa điểm của giới từ không phải Mối quan hệ ngang phụ thuộc chặt dễ dàng. Ở đây khái niệm địa điểm đóng chẽ vào các khía cạnh của người nhìn, có một vai trò quan trọng, khái niệm này liên nghĩa là tùy theo địa điểm mà người nhìn quan đến nhận thức. Nhận thức và mô tả đứng, một đối tượng được mô tả là vor địa điểm còn phụ thuộc vào các khía cạnh (trước) hoặc hinter (sau) đối tượng khác. của người nhận thức và hướng đến mặt Gegenüber (đối diện) cũng có thể được đất. Sau đó, các nhân tố này dẫn đến sự khác nhau khi sử dụng giới từ trong tiếng hiểu như là vor (trước) hai lần. Neben Đức và tiếng Việt. Phần quan trọng của (bên cạnh) được mô tả trên trục ở bên so luận văn là đề cập đến các giới từ thay đổi với trục-vor-hinter. mà ý nghĩa của chúng được xếp vào giới - Trên trục dọc (c) có các giới từ auf, từ chỉ địa điểm tĩnh tại hoặc giới từ chỉ über, oberhalb, unter, unterhalb. “Địa điểm phương hướng chuyển động bằng cách trong mối quan hệ auf, über, oberhalb, thay đổi cách. Ich war heute im Park (hôm unter, unterhalb được mô tả trên một trục, nay tôi ở công viên) khác với Ich gehe jetzt in den Park (Bây giờ tôi đang đi đến công ở đó các mối quan hệ được kết nối thông viên). Ví dụ một mô tả việc ở lại một khu qua trục dọc.”37 [Edb. (1988): 54]. vực, khi đối cách được sử dụng thì hướng Nhưng ở đây tác giả chỉ đề cập tới và sự mở rộng lên cái gì được mô tả. Ở các giới từ như: „Vor, hinter“ trong tiếng một số ngữ cảnh tặng cách cũng diễn tả Đức sử dụng cho trục này sự chuyển động tuy nhiên chỉ trong không gian giới hạn. Trong câu Ich gehe im Park - Vor (trước) đi với một danh từ với spazieren (tôi đi dạo trong công viên) chỉ nghĩa là vật thể đó tồn tại trước vật thể ra rằng chủ ngữ Ich chuyển động nhưng được đối chiếu, ví dụ: khu vực Park mà không dời khỏi đó. Nun muss er vor dem Gericht stehen. 2.1.1. Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại (Bây giờ nó đang đứng trước mặt). Hầu hết giới từ chỉ địa điểm tĩnh - Hinter (sau) đi với một danh từ tại đi với tặng cách. Theo mô hình của với nghĩa là vật thể đó tồn tại sau vật thể Würfels von Schröder có sự phân chia tiếp được đối chiếu, ví dụ: của giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại [Vgl. Edb. Er sitzt hinter dem Baum. (Nó (1988): 26] đứng sau cái cây). Mối tương quan giữa vật thể đối chiếu với các vật thể đi với giới từ tương quan với vật thể đối chiếu được trình bày như sơ đồ sau:
  4. 42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 2.1.2 Giới từ Vor/ hinter (trước/ sau) xác định thông qua tần nhìn. Nếu cái gì đó trong tầm nhìn ngược lại của tòa nhà Để giải thích mối quan hệ địa điểm này thì ta dùng hinter. Vor (trước) mô tả của vor (trước) và hinter (sau) ta nên hiểu rằng một đối tượng đứng trong tầm nhìn khái niệm “tầm nhìn” vì về nguồn gốc nó của đối tượng khác, trong khi đó hinter nói về hệ thống trước sau của con người. (sau) mô tả một đối tượng thấy ở mặt kia Benveniste cho rằng con người được cho của tầm nhìn của đối tượng khác. Khoảng như là cột mốc cho sự hình thành ngôn cách giữa mối quan hệ dẫn đến các mối ngữ và cột mốc này cần được nhìn thấy quan hệ khác, cụ thể là: direkt vor (phía khi định hướng không gian. [Ly Toan trước trực tiếp) và direkt hinter (phía sau Thang (2005): 93; Eisenberg, P. (2006): trực tiếp). Đối với direkt vor (phía trước 194] “Tất cả các điểm ngoài tòa nhà này trực tiếp) một đối tượng đứng trực tiếp trong phạm vi lối vào thuộc tầm nhìn của trước một đối tượng khác. Đối với direkt tòa nhà” [Mansour, M. A. (1988): 28], hinter (phía sau trực tiếp) không có Lutzeier quan niệm. Vor (trước) liên quan khoảng cách thứ ba giữa hai đối tượng. đến phần bên trước của tòa nhà, mà được [Vgl. Edb. (1988): 29] Trong diễn đạt này Garage (nhà để cây” có thể đảm nhiệm hai vị trí hoặc là ở xe) được mô tả thông qua giới từ hinter (sau) mặt trước ngôi nhà hoặc giữa ngôi nhà và như là vị trí của mặt sau ngôi nhà. Ở đây người nhìn. với điều kiện rằng mặt trước của ngôi nhà Đối với những đối tượng mặt trước cần được nhận biết, mặt trước nhà là mặt mà và mặt sau không rõ ràng thì vor (trước) hướng ra đường. [Vgl. Weinrich, H. (2005): và hinter (sau) được hiểu theo từng 630] Vor (trước) được phân tích ngược lại. hướng đối với đối tượng tham chiếu. [Vgl. Eisenberg lại tìm thấy một cách giải Mansour, M. A. (1988): 32] thích khác. Đối với những vật mà không Ví dụ: Sie sitzt hinter den Baum (Cô xác định được trước và sau thì cách ta ngồi dưới cái cây) thức định hướng là “chỉ xuất tương tự” Vị trí của người nhìn đóng vai trò [Eisenberg, P. (2006): 1994] quan trọng trong việc định vị đối tượng. Ví dụ: Der Baum steht vor dem [Vgl. Weinrich, H. (2005): 630]. Trong Haus (Cái cây đứng trước ngôi nhà), “cái ví dụ sau đây, hai giới từ có thể thay đổi
  5. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 43 cho nhau tùy theo người nhìn đứng đâu: Ví dụ: Das Gesicht hinter der Maske “Wir Bankangestellte können uns hinter (Khuôn mặt đằng sau chiếc mặt nạ) unseren Schaltern nicht unterhalten, wenn vor den Schaltern Kunden warten” Der Neid hinter seinen freundlichen (Chúng tôi, nhân viên ngân hàng, không Worten thể nói chuyện sau quầy giao dịch khi (Sự đố kỵ đằng sau lời nói thân mật trước quầy giao dịch khách hàng đang của anh ta) đợi.) [Mansour, M. A. (1988): 22] Trái ngược với vor (trước) và hinter Đối với hinter (sau) không phải (sau) truyền tải cảm giác đe dọa thông qua luôn luôn định vị chính xác đối tượng sự nhận thức của cơ thể, theo đó vor hợp liên quan đến một đối tượng khác, mà với một động từ phản thân như là cơ sở. diễn đạt rằng đối tượng được định vị bị [Vgl. Weinrich, H. (2005): 643] giấu trước tầm nhìn của người nhìn. [Vgl. Ví dụ: Die Mutter schützt das Kind Edb. (1988): 31] vor dem Hund Ví dụ: Ich verriegelte die Tür des (Người mẹ bảo vệ đứa trẻ trước Badezimmers hinter mir. con chó) (Tôi khóa cái cửa phòng tắm sau tôi) Ngoài ra vor (trước) và hinter (sau) Vor (trước) cũng xảy ra với đối tượng có thể kết hợp với her để diễn đạt rằng tham chiếu mà bao gồm nhiều người. cả hai đối tượng chuyển động cùng một hướng. [Vgl Mansour, M. A. (1988): 34] [Vgl. Weinrich, H (2005): 643] Ví dụ: Die Kinder laufen der Mutter Ví dụ: Nun muss sie vor dem Gericht hinterher. stehen (Những đứa trẻ chạy đằng sau mẹ) (Cô ta hiện đang đứng trước tòa) 2.2. Giới từ chỉ địa điểm trong Tuy nhiên cả hai giới từ vor (trước) tiếng Việt và hinter (sau) không được sử dụng bởi tất cả đối tượng. Đối với những đối tượng Phù hợp với giới từ được phân không có chiều dọc làm đối tượng tham tích trong tiếng Đức, các giới từ chỉ chiếu, vor (trước) và hinter (sau) không địa điểm trong tiếng Việt sau đây được được sử dụng. Trong trường hợp này các chúng tôi nghiên cứu như: trên, dưới, diễn đạt diesseits và jenseits là phù hợp. trong, ngoài, trước, sau, giữa, bên, lên, [Vgl. Mansour, M. A. (1988): 32f] xuống, ra, vào. Ví dụ: Die Frau sitzt hinter dem 2.2.1 Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại Fluss (Người phụ nữ ngồi sau dòng sông) Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại trong Giải thích tiếp theo của hinter (sau) tiếng Việt xuất hiện trước danh từ, đại từ là, mặt sau mà hinter (sau) diễn đạt trong nhân xưng, từ phiếm và nêu ra hành động/ nhiều tình huống được coi như là cản trở sự kiện diễn ra ở đâu. Các giới từ sau thuộc sự nhìn. Do đó có nhiều cách diễn đạt ẩn loại này là: trên, dưới, trước, sau. dụ. [Vgl. Weinrich, H (2005): 631] 2.2.2. Giới từ "trước, sau" (vor, hinter)
  6. 44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Giới từ trước đứng trước danh từ và đại từ nhân xưng và diễn rả một đối tượng thấy ở mặt trước của đối tượng khác. Đối tượng tham chiếu có điều kiện là phải xác định được đâu là mặt trước và mặt sau. Hướng chuyển động của con người thông thường đi lên trước. Do đó mặt trước và mặt sau của một người được xác định. Trước mắt chúng tôi là biển cả. (Vor uns liegt das Meer.) Nhà được xác định mặt trước là mặt có cửa và hướng ra đường. Mặt khác mà được xây song song với mặt trước được gọi là mặt sau. Chiếc ô tô đỗ trước nhà (Das Auto wird vor dem Haus geparkt) Dĩ nhiên không thể xác định mặt trước và mặt sau của tất cả các đồ vật. Trong trường hợp này một đối tượng đứng trước hoặc sau một đối tượng khác phụ thuộc vào mối quan hệ không gian giữa người nhìn, đối tượng tham chiếu và đối tượng được định vị. Lý Toàn Thắng cho rằng người Việt Nam thường sử dụng chiến lược “ego-facing” để mô tả mối quan hệ không gian trước và sau của đối tượng, có nghĩa là đối tượng mà ở gần người nhìn/người nói hơn, thì đứng trước đối tượng khác. Cậu bé đứng sau gốc cây Cậu bé đứng trước gốc cây (Der Junge steht hinter dem Baum) (Der Junge stehr vor dem Baum) Trong ví dụ này, đối tượng cụ thể là khác ngoài ở cạnh gốc cây. Ý nghĩa này cậu bé trong tiếng Việt được định vị khá không được hiểu trong tiếng Việt mà phải chi tiết thông qua gốc cây. Trong tiếng được diễn đạt thông qua từ gốc. Đặc điểm Đức ta thường nói cậu bé đứng sau/trước này thường xuất hiện khi sử dụng giới từ cái cây, mặc dù ta hiểu rằng trong trường chỉ địa điểm trong tiếng Việt, đặc biệt là hợp này cái cây biểu tượng cho gốc cây, giới từ trước và sau. Trong một số trường vì cậu bé dĩ nhiên không thể lơ lửng trên hợp thậm chí có sự thay đổi ý nghĩa nếu trong không khí và ta thấy không thể ở đâu đặc điểm chi tiết này được loại bỏ.
  7. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 45 Thông qua từ mặt trong ví dụ (1) của tôi dựa trên các thiếu sót về so sánh ta có thể hiểu rằng chị ấy và tôi đứng đối đối chiếu giữa tiếng Đức và tiếng Việt nói diện nhau và có lẽ nói chuyện với nhau, chung và giới từ chỉ địa điểm trong hai trong khi đó ở ví dụ (2) người nghe tự giới ngôn ngữ nói riêng. Phù hợp với mục đích thiệu rằng chị ấy và tôi đứng ở một hàng nghiên cứu, các kết quả của nghiên cứu và “chị ấy” chỉ cho “tôi” cái lưng. viết bài báo được tóm tắt sau đây: Những đặc điểm về sự giống nhau và khác nhau Giới từ trước /sau được sử dụng của giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức theo cách nhìn thông qua trên/dưới. đối chiếu với tiếng Việt. Ví dụ 3a: Ba lô trên lưng (Rucksack Giới từ trong tiếng Đức là một phạm auf dem Rücken) trù từ loại căn bản, đứng trước danh từ, Ví dụ 3b Ba lô sau lưng (Rucksack cụm danh từ hoặc đại từ, để biểu thị mối auf dem Rücken) quan hệ giữa những từ này với những Ví dụ (4a): Huân chương trên ngực từ khác trong câu. Do đặc điểm về vị (Medaille vor der Brust) trí, giới từ tiếng Đức dùng thuật ngữ Präpositionalgruppe tức là “nhóm từ Ví dụ (4b): Huân chương trước đứng trước”. ngực (Medaille vor der Brust) Việc phân loại các giới từ trong tiếng Trong các ví dụ (3a) và (4a) lưng Đức căn bản dựa vào hai tiêu chí là ngữ và ngực được coi là một mặt phẳng mà nghĩa và ngữ pháp. Phân loại theo ngữ ta có thể dựa những đồ vật vào. Cả hai bộ nghĩa chỉ thuần túy phân thành các nhóm phận cơ thể đều thuộc phần trên của con nhỏ theo nội dung ý nghĩa, ít có tác dụng người do vậy theo nguyên tắc “hình thái sử dụng. Tuy nhiên cách phân loại 361 tiêu chuẩn”, chúng ta sử dụng giới từ trên. giới từ tiếng Đức của Helbig, G./ Buscha, Ngược lại lưng và ngực trong ví dụ (3b) J (2001) thành các nhóm nhỏ hơn dựa vào và (4b) như là các bộ phận của đối tượng ý nghĩa mang nhiều giá trị khoa học. Cách có mặt trước và mặt sau. Lưng là ở mặt phân loại theo ngữ pháp gắn liền với phạm sau và cần giới từ sau. Ngực thuộc mặt trù cách tức là giới từ đòi hỏi các từ đi sau trước và cần giới từ trước. nó theo các cách: cách 4 (Akkusativ) là 3. Kết luận đối cách ; cách 3 (Dativ) là tặng cách và Khi nghiên cứu về các giới từ trong cách 2 (Genitiv) là sở hữu cách có ý nghĩa tiếng Đức thì động lực nghiên cứu các giới thiết thực, đặc biệt cho việc dạy và học từ chỉ địa điểm “vor (trước)/ hinter (sau)” tiếng Đức với tư cách là một ngoại ngữ. trong hệ thống giới từ chỉ không gian Giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt và tiếng Việt giống nhau ở cách phân loại
  8. 46 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion và mặt ngữ nghĩa. Giới từ chỉ địa điểm ở [4]. Nguyễn Văn Hiệp (2013) công bố hai ngôn ngữ được chia thành hai nhóm là bài viết dưới tiêu đề Ngữ nghĩa của “RA” giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại và giới từ chỉ “VÀO” trong tiếng Việt nhìn từ góc độ phương hướng chuyển động. nghiệm thân. [5]. Nguyễn Cảnh Hoa. Nhận xét về sự khác Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại diễn nhau của một vài giới từ tiếng Việt và tiếng tả mối quan hệ không gian không có sự Anh. Hội thảo khoa học. Hội NNH Việt Nam, thay đổi địa điểm hoặc không hướng đến Hà Nội. 1998. điểm đích. Ngược lại giới từ chỉ phương [6]. Đỗ Việt Hùng (2001): Từ điển giải thích hướng chuyển động nêu ra rằng một đối thuật ngữ ngôn ngữ học. Tái bản lần 3. Nxb tượng chuyển động hoặc được chuyển GD, Hà Nội. động từ một nơi đến một nơi khác. Trong hai ngôn ngữ, đối với từng tình huống nói, [7]. Nguyễn Lai (2001): Ngữ nghĩa nhóm từ chỉ hướng vận động tiếng Việt hiện đại: quá một hoặc nhiều giới từ chỉ địa điểm nhất trình hình thành và phát triển, NXB Khoa học định được sử dụng để diễn tả mối quan hệ xã hội. không gian giữa các đối tượng. Trong hầu hết trường hợp việc chuyển nghĩa mang [8]. Nguyễn Lai (2012) bài báo Sự hình thành cấu trúc vận động không gian vào Nam (từ lại những câu nói phù hợp, tuy nhiên vì góc nhìn tạo nghĩa của hoạt động nhận thức) nhận thức không gian và việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm khác nhau nên dẫn đến văn [9]. Hà Quang Năng (2001): Từ điển giải bản bị sai hoặc hiểu sai, không hiểu. thích thuật ngữ ngôn ngữ học. Tái bản lần 3. Nxb GD, Hà Nội. Nhận thức về không gian mà được miêu tả thông qua chính giới từ chuyển [10]. Lê Văn Thanh (2003) Luận án Tiến sĩ đổi tiếng Đức và bản dịch của chúng sang Ngữ văn với đề tài Ngữ nghĩa của các giới từ tiếng Việt cũng mang những điểm giống chỉ không gian trong tiếng Anh (trong sự đối nhau và sự khác nhau. Trong bài báo này chiếu với tiếng Việt) tôi đã nghiên cứu và đã làm rõ nghĩa hơn [11]. Lê Văn Thanh. Giới từ “in” – một cách những giới từ chỉ địa điểm vor (trước) và tri nhận không gian lí thú của người Anh. hinter (sau) mang nghĩa không gian trong NN&ĐS. 5/2002. tiếng Đức và đối chiếu với tiếng Việt. [12]. Lê Văn Thanh & Lý Toàn Thắng. Ba Tài liệu tham khảo: giới từ at, on, in (thử nhìn từ góc độ cơ chế tri A. Tài liệu tiếng Việt nhận không gian trong sự so sánh đối chiếu với tiếng Việt). NN.9/2002 [1]. Nguyễn Đức Dân: Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ.2005 [13]. Lý Toàn Thắng (1994): Ngôn ngữ và sự tri nhận không gian. NN.4/1994. [2]. Nguyễn Đức Dân. Tri nhận và ẩn dụ về các từ định hướng không gian tiếng Việt. Bài [14]. Lý Toàn Thắng (2005): Ngôn ngữ học báo. 2005. tri nhận. Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt. Nxb KHXH, Hà Nội. [3]. Trần Quang Hải. Thử tìm một mô hình để dịch các giới ngữ chỉ quan hệ định vị không [15]. Lý Toàn Thắng (2015): Ngôn ngữ học tri gian từ tiếng Việt sang tiếng Anh và ngược lại. nhận những nội dung quan yếu.
  9. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 47 B. Tài liệu tiếng Đức chiếu của giới từ chỉ địa điểm và thời gian trong tiếng Đức và tiếng Ả rập. Luận án nhậm [16]. Angelika Wöllstein-Leisten; Axel chức để đạt được học vị tiến sỹ của Khoa Triết Heilmann; Peter Stepan; Sten Vikner học của Trường Đại học Albert-Ludwigs zu (2006): Deutsche Satzstruktur. Grundlagen Freiburg i. Br., Freiburg. der syntaktischen Analyse. Stauffenburg, Tübingen. [27]. Musan, R. (2009): Phân tích thành phần câu. Tái bản lần thứ 2. Nhà xuất bản đại học [17]. Beerbom, C. (1992): Modalpartikeln Winter, Heidelberg. als Übersetzungsproblem: eine kontrastive Studie zum Sprachenpaar Deutsch –Spanisch. [28]. Pafel, J. (2011): Nhập môn cú pháp. Cơ Frankfurt am Main; Bern; New York; Paris: sở - Cấu trúc – Lý thuyết. Nhà xuất bản J.B. Lang. Metzler, Weinar. [18]. Boetther, W (2009): Hiểu ngữ pháp. 1 – [29]. Schröder, J. (1986): Từ điển giới từ tiếng Wort. Nhà xuất bản Max Niemeyer, Tübingen Đức. Nhà xuất bản Enzyklopädie, Leipzig. Eisenberg, P. (2006): Tổng quan ngữ pháp [30]. Sommerfeldt, K./Starke G. (1998): Nhập tiếng Đức – Câu – tái bản lần thứ 3, Nhà xuất môn ngữ pháp trong tiếng Đức hiện đại - Ấn bản J. B. Metzler, Stuttgart. bản được biên tập mới lần thứ 3 với sự hỗ [19]. Daniel Kehlmann, Die Vermessung trợ của Werner Hackel. Nhà xuất bản Max der Welt (2006): Đo thế giới. Nhà xuất bản Niemeyer, Tübingen. Rowohlt, Hamburg. [31]. Weinrich Harald (2005): Textgrammatik [20]. Eisenberg Peter (2006): Grundriss der der deutschen Sprache. 3. Revidierte Auflage. deutschen Grammatik – Der Satz – 3. Auflage, Hildesheim/ Zürich/ New York: Georg Olms J. B. Metzler Verlag, Stuttgart Verlag. [21]. Helbig, G./ Buscha, J. (2001): Ngữ [32]. Weinrich. H. (2005): Ngữ pháp văn bản pháp tiếng Đức. Sổ tay cho người nước của ngôn ngữ Đức. Ấn bản được chỉnh sửa lần ngoài. Langenscheidt, Berlin/München/Wien/ thứ 3. Nhà xuất bản Georg Olms, Hildesheim/ Zürick/ New York. Zürich/ New York. [22]. Hentschel, E./ Weydt, H. (2003): Sổ tay [33]. Wolfgang Boettcher (2009): Grammatik ngữ pháp tiếng Đức – Phiên bản được biên tập verstehen. I – Wort. Tübingen: Max Niemeyer Verlag. hoàn toàn mới lần thứ 3. Walter de Gruyter, Berlin/New York. [34]. Wolfgang Boettcher (2009): Grammatik verstehen. II – Einfacher Satz. Tübingen: Max [23]. Jochen Schröder (1986): Lexikon Niemeyer Verlag. deutscher Präpositionen. Enzyklopädie Verlag. Leipzig. [35]. Wöllstein-Leisten, A./Heilmann, A./ Stepan, P. Sten Vikner (2006): Cấu trúc [24]. Ludger Hoffmann (2009): Handbuch câu tiếng Đức. Cơ sở phân tích cú pháp. der deutschen Wortarten. Walter de Gruyter, Stauffenburg, Tübingen. Berlin/ New York. Địa chỉ tác giả: Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông [25]. Ludger Hoffmann (2009): Sổ tay từ loại tiếng Đức. Walter der Gruyter, Berlin/ New Email: nuongnguyen.vpbox@gmail.com York. [26]. Masour, M. A. (1988): Phân tích đối
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2