intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đóng góp của chuyển dịch cơ cấu đến tăng trưởng năng suất lao động tổng thể ở Việt Nam

Chia sẻ: Ngọc Ngọc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

104
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này tập trung vào đánh giá đóng góp của chuyển dịch cơ cấu lao động đến tăng trưởng năng suất lao động tổng thể ở Việt Nam trong giai đoạn 1987 - 2016. Sử dụng kỹ thuật phân tích chuyển dịch tỷ trọng, bài viết xem xét thay đổi cơ cấu trong ba ngành chính. Kết quả cho thấy đóng góp của chuyển dịch cơ cấu mặc dù là tích cực nhưng còn khá khiêm tốn. Khi bóc tách đóng góp này thành tác động động và tĩnh thì thể hiện đóng góp tích cực của tác động “tĩnh”, còn tác động “động” lại kìm hãm tăng trưởng năng suất lao động.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đóng góp của chuyển dịch cơ cấu đến tăng trưởng năng suất lao động tổng thể ở Việt Nam

12,Tr.<br /> Số111-122<br /> 4, 2018<br /> Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Quy Nhơn, ISSN: 1859-0357, Tập 12, Số 4,Tập<br /> 2018,<br /> ĐÓNG GÓP CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU ĐẾN<br /> TĂNG TRƯỞNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TỔNG THỂ Ở VIỆT NAM<br /> PHẠM THỊ HƯỚNG*, VÕ BÁ THIÊN<br /> Sinh viên Khoa Kinh tế và Kế toán, Trường Đại học Quy Nhơn<br /> TÓM TẮT<br /> Bài viết này tập trung vào đánh giá đóng góp của chuyển dịch cơ cấu lao động đến tăng trưởng<br /> năng suất lao động tổng thể ở Việt Nam trong giai đoạn 1987 - 2016. Sử dụng kỹ thuật phân tích chuyển<br /> dịch tỷ trọng, bài viết xem xét thay đổi cơ cấu trong ba ngành chính. Kết quả cho thấy đóng góp của chuyển<br /> dịch cơ cấu mặc dù là tích cực nhưng còn khá khiêm tốn. Khi bóc tách đóng góp này thành tác động động<br /> và tĩnh thì thể hiện đóng góp tích cực của tác động “tĩnh”, còn tác động “động” lại kìm hãm tăng trưởng<br /> năng suất lao động.<br /> Từ khóa: Chuyển dịch cơ cấu, năng suất lao động, SSA.<br /> ABSTRACT<br /> <br /> Contribution of Structure Transformation to the Overall<br /> Labor Productivity Growth in Vietnam<br /> This paper focuses on assessing the contribution of labor structure transformation to the overall<br /> productivity growth in Vietnam in the period from 1987 to 2016. Using the density transformation analysis,<br /> the paper examines the structural change in the three main economic sectors. The results show that the<br /> contribution of structure transformation to the overall labor productivity is positive but less significant.<br /> In term of the static impact, the contribution is positive. However, the dynamic impact inhibits the labor<br /> productivity growth.<br /> Keywords: Structure transformation, labor productivity, SSA.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Giới thiệu<br /> <br /> Các nghiên cứu gần đây về tăng trưởng kinh tế đã chuyển từ việc giải thích các xu hướng<br /> tăng trưởng bình quân dài hạn sang nghiên cứu các yếu tố quyết định tăng tốc và giảm tốc tăng<br /> trưởng, do sự bất ổn lớn trong mức tăng trưởng trong nước. Rất ít quốc gia có mức tăng trưởng<br /> cao ổn định trong thời gian dài. Thay vào đó, kiểu mẫu điển hình hơn là các quốc gia thường trải<br /> qua các giai đoạn tăng trưởng, trì trệ, hoặc suy giảm khác nhau. Nghiên cứu về các yếu tố quyết<br /> định tăng trưởng thì việc sử dụng từng giai đoạn cụ thể thường phát hiện nhiều vấn đề hơn so với<br /> việc sử dụng mức trung bình trong một khoảng thời gian dài. Điều này đặt ra câu hỏi là các thành<br /> phần nào trong nền kinh tế đóng góp nhiều nhất cho tăng tốc và giảm tốc trong tăng trưởng. Ví<br /> dụ, Jones và Olken (2008) cho rằng phân bổ lại lao động cho các ngành sản xuất là nguồn gốc làm<br /> tăng tốc và giảm giảm tốc tăng trưởng ở nhiều nước đang phát triển. Do thiếu dữ liệu ngành, họ<br /> Email: hng.pham66@gmail.com<br /> Ngày nhận bài: 15/3/2018; Ngày nhận đăng: 22/6/2018<br /> *<br /> <br /> 111<br /> <br /> Phạm Thị Hướng, Võ Bá Thiên<br /> không thể kiểm tra giả thuyết này. Một trong những yếu tố quan trọng đóng góp vào quá trình tăng<br /> trưởng kinh tế là việc gia tăng năng suất lao động (NSLĐ). Sự thay đổi NSLĐ chịu ảnh hưởng<br /> bởi 3 yếu tố: thay đổi NSLÐ trong nội bộ ngành, các hiệu ứng thay đổi trong việc phân bổ lại<br /> lao động giữa các ngành, tức là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động (CDCCLÐ) và ảnh hưởng<br /> tương tác của CDCCLÐ với thay đổi NSLÐ trong nội bộ ngành. Việc đánh giá vai trò riêng biệt<br /> của các yếu tố này đối với NSLÐ là quan trọng bởi qua đó sẽ giúp các nhà quản lý thấy được quá<br /> trình gia tăng NSLÐ chủ yếu là dựa trên yếu tố nào.<br /> Trong bài nghiên cứu này, thông qua phương pháp phân tích chuyển dịch tỷ trọng chúng tôi<br /> muốn cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tầm quan trọng của các thành phần khác nhau trong<br /> việc tạo ra sự tăng trưởng năng suất lao động tổng hợp ở Việt Nam trong giai đoạn 1987 - 2016.<br /> Với việc tính toán cho từng giai đoạn kế hoạch 5 năm cũng sẽ phần nào giải thích kết quả của việc<br /> điều chỉnh chính sách, trong đó có chính sách ngành. Bởi việc điều chỉnh đó sẽ tạo ra sự di chuyển<br /> lao động giữa các ngành trong nền kinh tế, từ đó tác động đến năng suất của bản thân các ngành<br /> cũng như năng suất lao động tổng thể thông qua thành phần chuyển dịch cơ cấu.<br /> Cấu trúc bài viết gồm 5 mục chính. Sau phần giới thiệu ở mục 1, tổng quan một số nghiên<br /> cứu liên quan đến chủ đề bài viết được trình bày trong mục 2. Mục 3 mô tả phương pháp phân<br /> tích chuyển dịch tỷ trọng. Tiếp theo là mục 4 với các kết quả thực nghiệm và cuối cùng, mục 5 là<br /> một số kết luận.<br /> 2.<br /> <br /> Tổng quan nghiên cứu<br /> <br /> Định lượng đóng góp của CDCCLĐ lên tăng trưởng năng suất lao động bằng phương pháp<br /> phân tích chuyển dịch tỷ trọng (SSA) đã được nghiên cứu ứng dụng ở nhiều quốc gia, khu vực<br /> khác nhau. Đây là một cách tiếp cận khá đơn giản nhưng lại rất hiệu quả. Timmer và Szirmai<br /> (2000) xem xét vai trò của sự thay đổi cơ cấu lao động trong việc giải thích sự tăng trưởng năng<br /> suất lao động tổng hợp trong lĩnh vực sản xuất của bốn nước châu Á trong giai đoạn 1963 - 1993.<br /> Phân tích chuyển dịch tỷ trọng được sử dụng để đo lường tác động của sự thay đổi cả lao động<br /> và đầu vào vốn. Kết quả không ủng hộ giả thuyết về CDCC các nguồn lực có đóng góp vào tăng<br /> trưởng NSLĐ cũng như năng suất nhân tố tổng hợp. Tăng trưởng NSLĐ chủ yếu được thúc đẩy<br /> bởi việc cải thiện năng suất nội bộ ngành.<br /> Shigh (2004) tập trung vào tác động của thay đổi công nghệ và cơ cấu đối lao động với tăng<br /> trưởng NSLĐ tổng hợp trong ngành sản xuất của Hàn Quốc, tác giả chia quy mô công ty thành 8<br /> nhóm trong giai đoạn 1970 - 2000 và sử dụng phương pháp SSA để đo lường tác động của sự thay<br /> đổi cả lao động và đầu vào vốn. Các kết quả cho thấy thay đổi cơ cấu trung bình đã dẫn đến tăng<br /> trưởng năng suất trong những năm 1970 và mô hình này bị đảo ngược sau đó. Các công ty vừa và<br /> nhỏ năng động hơn trong việc phân bổ lại nguồn lực; tuy nhiên, các công ty có quy mô lớn trong<br /> ngành chế tạo đã tác động tích cực hơn đến năng suất do việc tái phân bổ.<br /> Với mục đích có được một thước đo mức độ quan trọng của việc phân bổ lại các phân<br /> ngành, hay sự thay đổi về cơ cấu, của các doanh nghiệp đối với năng suất tổng thể, Isaksson<br /> (2009) đã thực hiện nghiên cứu cho 3 nhóm nước gồm các nước công nghiệp hóa, các nước có nền<br /> kinh tế chuyển đổi và các nước đang phát triển. Kết luận rút ra từ việc phân tích các tài liệu thực<br /> 112<br /> <br /> Tập 12, Số 4, 2018<br /> nghiệm của tác giả là quá trình tái phân bổ có đóng góp tương đối quan trọng cho năng suất ở các<br /> nước đang phát triển và ít hơn ở các nước công nghiệp hóa, từ đó dẫn đến các hàm ý về chính sách<br /> khác nhau. Tuy nhiên, những kết luận như vậy đã không có được sự ủng hộ từ việc phân tích dữ<br /> liệu qua phương pháp SSA thực hiện bởi tác giả. Trên thực tế, các nước tương đối nghèo có lợi ít<br /> nhất cũng như các nền kinh tế tiên tiến từ những nỗ lực đổi mới của doanh nghiệp, ở những nước<br /> này thì hiệu quả thay đổi cơ cấu góp phần rất ít vào hiệu suất tổng thể. Tác giả cũng đưa ra những<br /> hàm ý chính sách sâu sắc từ kết luận này, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển<br /> năng lực cho các hoạt động sáng tạo.<br /> Dựa trên số liệu chéo của 38 quốc gia thuộc nhiều châu lục trong giai đoạn 1990 - 2005,<br /> McMillan và Rodrik (2011) đã phân chia các nền kinh tế thành 9 ngành để xem xét những đóng<br /> góp vào tăng trưởng năng suất của CDCC giữa các ngành và của việc tăng năng suất nội ngành<br /> sử dụng SSA. Các tác giả đưa ra bằng chứng cho thấy CDCC từ các ngành có năng suất thấp<br /> sang các ngành có năng suất cao hơn là chìa khóa cho sự tăng trưởng, tác động đến gia tăng năng<br /> suất có sự khác nhau giữa các khu vực. Đối với khu vực châu Á là tác động tích cực, còn với<br /> khu vực châu Phi và Mỹ La Tinh là tác động tiêu cực do lao động không đáp ứng được các yêu<br /> cầu chuyên môn.<br /> Cũng tiếp cận từ phương pháp SSA, Chansomphou và Ichihashi (2013) tìm hiểu các hình<br /> thái thay đổi cơ cấu, tăng trưởng năng suất lao động và hội tụ ở các nước BRIC. Ban đầu, họ sử<br /> dụng SSA để điều tra đóng góp của dịch chuyển nội ngành, các tác động tĩnh và động đối với<br /> tăng trưởng năng suất lao động. Sau đó, họ sử dụng các bài kiểm định hội tụ để kiểm tra liệu sẽ<br /> có sự hội tụ trong từng lĩnh vực kinh tế ngay cả với các mô hình thay đổi cơ cấu hiện có ở mỗi<br /> quốc gia. Kết quả của họ cho thấy sự tăng trưởng năng suất lao động nội ngành chính là nguồn<br /> gốc tăng trưởng NSLĐ tổng hợp, trong khi tác động của di chuyển lao động vẫn tồn tại (tác<br /> động dịch chuyển) nhưng không đáng kể. Trong số các nước BRIC, họ thấy rằng trong giai đoạn<br /> 1980 - 2008, Trung Quốc có tỷ lệ tăng trưởng năng suất lao động cao nhất, theo sau đó là Ấn Độ<br /> và Nga, trong khi Braxin có mức tăng trưởng thấp nhất. Tiếp đó, họ sử dụng phân tích tỷ trọng<br /> dịch chuyển cho mức độ phân tách ngành. Kết quả cho thấy BRIC có những thay đổi cấu trúc khác<br /> nhau. Tuy nhiên, họ quan sát thấy rằng ở Braxin, Nga và Ấn Độ, hầu hết các ngành dịch vụ đều<br /> có tăng trưởng năng suất lao động nội ngành cao (tác động dịch chuyển nội bộ) và di chuyển lao<br /> động chủ yếu trong lĩnh vực này, trong khi ở Trung Quốc, tăng trưởng tập trung trong các ngành<br /> công nghiệp.<br /> Tiếp cận chủ đề này với phương pháp SSA ở Việt Nam, điển hình là nghiên cứu của<br /> Nguyễn Thị Tuệ Anh (2007). Tác giả đã sử dụng dữ liệu của 20 ngành cấp 1 trong giai đoạn<br /> 1991 - 2006 ở Việt Nam. Kết luận được rút ra là trong nhịp tăng NSLĐ tổng thể của nền kinh<br /> tế có phần đóng góp quan trọng của CDCCLĐ. Tác động của CDCC chủ yếu đến từ tác động<br /> tĩnh, tức là nhờ di chuyển lao động từ ngành có mức NSLĐ thấp hơn sang ngành có mức NSLĐ<br /> cao hơn. Mặc dù trong tổng thể nền kinh tế, tác động động của CDCC là bất lợi cho tăng trưởng<br /> NSLĐ nhưng qua phương pháp SSA cho thấy nhiều ngành được hưởng lợi từ cấu phần động<br /> và đó cũng là các ngành phát triển năng động. Nghiên cứu gần đây của Giang Thanh Long<br /> và cộng sự (2015) lại sử dụng số liệu thống kê của 9 ngành kinh tế chủ yếu trong giai đoạn<br /> 2001 - 2012. Kết quả phân tích chỉ rõ, ở giai đoạn này thì tác động tĩnh của CDCC lao động<br /> 113<br /> <br /> Phạm Thị Hướng, Võ Bá Thiên<br /> có đóng góp tích cực vào tăng trưởng NSLĐ, trong đó các ngành công nghiệp chế biến chế tạo<br /> và xây dựng có đóng góp nhiều nhất. Ảnh hưởng tiêu cực từ tác động động do CDCC lao động<br /> đến tăng trưởng NSLĐ được tìm thấy trong ngành nông - lâm - thủy sản và ngành tài chính - tín<br /> dụng. Những kết luận này cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Vũ Thị Hương và Nguyễn<br /> Thị Minh (2016). Phân tích dưới một góc độ khác, Nguyễn Thị Cẩm Vân đã sử dụng “mô hình<br /> cơ bản” được đề xuất bởi Sundrum (1990) và được điều chỉnh sau đó bởi Cornwall (1990) dựa<br /> trên tiếp cận từ phía cung và phía cầu và nền kinh tế chia thành 3 khu vực: nông nghiệp, công<br /> nghiệp, dịch vụ. Giai đoạn nghiên cứu là 1995 - 2014. Theo kết quả của nghiên cứu này thì chỉ<br /> có thời kỳ 2000 - 2010 là CDCC đóng vai trò then chốt đối với tăng trưởng NSLĐ tổng thể, ở<br /> các thời kỳ còn lại thì tăng trưởng NSLĐ nội bộ các ngành là động lực tạo ra sức bật cho tăng<br /> trưởng NSLĐ của nền kinh tế.<br /> Qua tổng quan những nghiên cứu đã thực hiện ở trên thấy rằng, việc sử dụng phương pháp<br /> SSA để phân tích đóng góp của CDCCLĐ vào NSLĐ tổng thể được áp dụng khá rộng rãi ở nhiều<br /> nền kinh tế khác nhau, trong đó có cả nước phát triển, kém phát triển và đang phát triển, và đã<br /> cung cấp các kết quả hỗn hợp. Đối với nền kinh tế Việt Nam thì vấn đề này cũng đã được một<br /> số tác giả nghiên cứu. Kết quả thu được phụ thuộc nhiều vào việc lựa chọn phương pháp, phân<br /> chia các ngành và giai đoạn nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ sử dụng cách phân<br /> chia nền kinh tế thành 3 ngành lớn là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, và với một giai đoạn<br /> nghiên cứu dài hơn.<br /> 3.<br /> <br /> Phương pháp phân tích chuyển dịch tỷ trọng (Shift - Share Analysis, SSA)<br /> <br /> Để đo lường sự đóng góp của sự thay đổi cơ cấu đến tăng trưởng NSLĐ, điều này là rất<br /> quan trọng để phân biệt giữa đóng góp của sự thay đổi giữa các ngành và đóng góp của tăng<br /> trưởng năng suất trong nội bộ ngành. Trong phân tích tác động của sự thay đổi cấu trúc, một cách<br /> tốt nhất nên phân tích những tác động của sự thay đổi cả về vốn và lao động lên năng suất nhân tố<br /> tổng hợp, trường hợp này được gọi là “đo lường đầy đủ”. Tuy nhiên, do thiếu dữ liệu, trong nhiều<br /> trường hợp, các phân tích tập trung vào sự thay đổi của một yếu tố đầu vào (lao động), trường hợp<br /> này được gọi là “đo lường một phần”.<br /> Phương pháp SSA lần đầu tiên được giới thiệu bởi Fabricant (1942), ông ta đã đo nhu cầu<br /> lao động trên một đơn vị sản lượng. Kể từ đó, nó đã được áp dụng rộng rãi trong phân tích tăng<br /> trưởng kinh tế, mặc dù sự chú ý sau đó đã chuyển sang vấn đề về tăng trưởng năng suất.<br /> Mô hình SSA phân tách tăng trưởng năng suất thành các nguồn khác nhau. Phương pháp<br /> này làm nổi bật tác động của sự thay đổi của yếu tố đầu vào từ phía cung. Nội dung của phương<br /> pháp SSA như sau:<br /> Giả sử nền kinh tế được chia thành n ngành. Gọi PP là mức năng suất của nền kinh tế, được<br /> xác định bởi tổng giá trị đầu ra (YP) trên tổng số lao động (LP) của nền kinh tế. Như vậy, PP = YP/LP.<br /> Pi, Si tương ứng là năng suất ngành/khu vực i và tỷ trọng lao động làm việc trong ngành/<br /> khu vực i (i = 1, 2,…, n) thì<br /> 114<br /> <br /> Tập 12, Số 4, 2018<br /> <br /> là tổng giá trị đầu ra ngành/khu vực i, là số lao động làm việc trong ngành/ khu vực i.<br /> Giả sử đầu ra của ngành/khu vực không bị ảnh hưởng bởi số lao động di chuyển khỏi<br /> ngành/khu vực. Khi đó, mức năng suất của tổng thể nền kinh tế được xác định bởi:<br /> <br /> với<br /> <br /> ∑( )(<br /> <br /> Tốc độ tăng năng suất của tổng thể nền kinh tế (<br /> <br /> )<br /> <br /> ∑<br /> <br /> ) của năm so với năm gốc (<br /> <br /> ):<br /> <br /> Ta có<br /> ∑<br /> <br /> Do đó,<br /> <br /> ∑<br /> ∑<br /> <br /> (<br /> <br /> ∑(<br /> ∑<br /> <br /> )<br /> <br /> ∑(<br /> <br /> )<br /> (<br /> <br /> )<br /> <br /> )<br /> <br /> Như vậy, tăng trưởng NSLÐ tổng hợp có thể được phân rã thành tăng trưởng năng suất<br /> trong nội bộ ngành/ khu vực (thành phần thứ nhất ở bên phải của (3) mà chúng ta gọi là “hiệu<br /> ứng nội bộ ngành/ khu vực”) và các hiệu ứng thay đổi trong việc phân bổ lại lao động giữa các<br /> ngành/ khu vực (thành phần thứ hai, mà chúng ta gọi là “hiệu ứng chuyển dịch”). Hiệu ứng nội<br /> bộ ngành/ khu vực là tích cực khi tăng trưởng năng suất lao động trong ngành/ khu vực i là tích<br /> cực và là tiêu cực khi tăng trưởng năng suất lao động trong i là tiêu cực. Ðóng góp của hiệu ứng<br /> chuyển dịch cũng có thể là tích cực hay tiêu cực, tùy thuộc vào việc một lĩnh vực được mở rộng<br /> hoặc thu hẹp lại.<br /> Dựa trên phương pháp của Fabricant, Ark (1995) đã đề xuất tách phần tác động của chuyển<br /> dịch cơ cấu thành hai tác động riêng biệt như sau:<br /> Công thức (2) được viết lại:<br /> <br /> Và khi đó<br /> ∑<br /> <br /> ∑(<br /> <br /> )<br /> <br /> ∑(<br /> <br /> (<br /> <br /> )<br /> <br /> ∑<br /> <br /> (<br /> <br /> )<br /> )<br /> <br /> ∑(<br /> ∑<br /> <br /> )(<br /> (<br /> <br /> )(<br /> <br /> )<br /> )<br /> <br /> Thành phần đầu tiên ở vế bên phải của phương trình (4) biểu thị hiệu ứng nội bộ như đã nói<br /> ở trên. Thành phần thứ hai là tác động của CDCC do di chuyển lao động từ ngành có mức năng<br /> suất thấp sang ngành có mức năng suất cao hơn và ta gọi là tác động chuyển dịch “tĩnh”. Thành<br /> phần cuối cùng là tác động bởi sự di chuyển lao động từ ngành có tốc độ tăng NSLÐ thấp hơn<br /> sang các ngành có tốc độ tăng năng suất cao hơn, ta gọi đây là tác động chuyển dịch “động”. Như<br /> <br /> <br /> <br /> ͷ<br /> <br /> 115<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2