12,Tr.<br />
Số111-122<br />
4, 2018<br />
Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Quy Nhơn, ISSN: 1859-0357, Tập 12, Số 4,Tập<br />
2018,<br />
ĐÓNG GÓP CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU ĐẾN<br />
TĂNG TRƯỞNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TỔNG THỂ Ở VIỆT NAM<br />
PHẠM THỊ HƯỚNG*, VÕ BÁ THIÊN<br />
Sinh viên Khoa Kinh tế và Kế toán, Trường Đại học Quy Nhơn<br />
TÓM TẮT<br />
Bài viết này tập trung vào đánh giá đóng góp của chuyển dịch cơ cấu lao động đến tăng trưởng<br />
năng suất lao động tổng thể ở Việt Nam trong giai đoạn 1987 - 2016. Sử dụng kỹ thuật phân tích chuyển<br />
dịch tỷ trọng, bài viết xem xét thay đổi cơ cấu trong ba ngành chính. Kết quả cho thấy đóng góp của chuyển<br />
dịch cơ cấu mặc dù là tích cực nhưng còn khá khiêm tốn. Khi bóc tách đóng góp này thành tác động động<br />
và tĩnh thì thể hiện đóng góp tích cực của tác động “tĩnh”, còn tác động “động” lại kìm hãm tăng trưởng<br />
năng suất lao động.<br />
Từ khóa: Chuyển dịch cơ cấu, năng suất lao động, SSA.<br />
ABSTRACT<br />
<br />
Contribution of Structure Transformation to the Overall<br />
Labor Productivity Growth in Vietnam<br />
This paper focuses on assessing the contribution of labor structure transformation to the overall<br />
productivity growth in Vietnam in the period from 1987 to 2016. Using the density transformation analysis,<br />
the paper examines the structural change in the three main economic sectors. The results show that the<br />
contribution of structure transformation to the overall labor productivity is positive but less significant.<br />
In term of the static impact, the contribution is positive. However, the dynamic impact inhibits the labor<br />
productivity growth.<br />
Keywords: Structure transformation, labor productivity, SSA.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Giới thiệu<br />
<br />
Các nghiên cứu gần đây về tăng trưởng kinh tế đã chuyển từ việc giải thích các xu hướng<br />
tăng trưởng bình quân dài hạn sang nghiên cứu các yếu tố quyết định tăng tốc và giảm tốc tăng<br />
trưởng, do sự bất ổn lớn trong mức tăng trưởng trong nước. Rất ít quốc gia có mức tăng trưởng<br />
cao ổn định trong thời gian dài. Thay vào đó, kiểu mẫu điển hình hơn là các quốc gia thường trải<br />
qua các giai đoạn tăng trưởng, trì trệ, hoặc suy giảm khác nhau. Nghiên cứu về các yếu tố quyết<br />
định tăng trưởng thì việc sử dụng từng giai đoạn cụ thể thường phát hiện nhiều vấn đề hơn so với<br />
việc sử dụng mức trung bình trong một khoảng thời gian dài. Điều này đặt ra câu hỏi là các thành<br />
phần nào trong nền kinh tế đóng góp nhiều nhất cho tăng tốc và giảm tốc trong tăng trưởng. Ví<br />
dụ, Jones và Olken (2008) cho rằng phân bổ lại lao động cho các ngành sản xuất là nguồn gốc làm<br />
tăng tốc và giảm giảm tốc tăng trưởng ở nhiều nước đang phát triển. Do thiếu dữ liệu ngành, họ<br />
Email: hng.pham66@gmail.com<br />
Ngày nhận bài: 15/3/2018; Ngày nhận đăng: 22/6/2018<br />
*<br />
<br />
111<br />
<br />
Phạm Thị Hướng, Võ Bá Thiên<br />
không thể kiểm tra giả thuyết này. Một trong những yếu tố quan trọng đóng góp vào quá trình tăng<br />
trưởng kinh tế là việc gia tăng năng suất lao động (NSLĐ). Sự thay đổi NSLĐ chịu ảnh hưởng<br />
bởi 3 yếu tố: thay đổi NSLÐ trong nội bộ ngành, các hiệu ứng thay đổi trong việc phân bổ lại<br />
lao động giữa các ngành, tức là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động (CDCCLÐ) và ảnh hưởng<br />
tương tác của CDCCLÐ với thay đổi NSLÐ trong nội bộ ngành. Việc đánh giá vai trò riêng biệt<br />
của các yếu tố này đối với NSLÐ là quan trọng bởi qua đó sẽ giúp các nhà quản lý thấy được quá<br />
trình gia tăng NSLÐ chủ yếu là dựa trên yếu tố nào.<br />
Trong bài nghiên cứu này, thông qua phương pháp phân tích chuyển dịch tỷ trọng chúng tôi<br />
muốn cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tầm quan trọng của các thành phần khác nhau trong<br />
việc tạo ra sự tăng trưởng năng suất lao động tổng hợp ở Việt Nam trong giai đoạn 1987 - 2016.<br />
Với việc tính toán cho từng giai đoạn kế hoạch 5 năm cũng sẽ phần nào giải thích kết quả của việc<br />
điều chỉnh chính sách, trong đó có chính sách ngành. Bởi việc điều chỉnh đó sẽ tạo ra sự di chuyển<br />
lao động giữa các ngành trong nền kinh tế, từ đó tác động đến năng suất của bản thân các ngành<br />
cũng như năng suất lao động tổng thể thông qua thành phần chuyển dịch cơ cấu.<br />
Cấu trúc bài viết gồm 5 mục chính. Sau phần giới thiệu ở mục 1, tổng quan một số nghiên<br />
cứu liên quan đến chủ đề bài viết được trình bày trong mục 2. Mục 3 mô tả phương pháp phân<br />
tích chuyển dịch tỷ trọng. Tiếp theo là mục 4 với các kết quả thực nghiệm và cuối cùng, mục 5 là<br />
một số kết luận.<br />
2.<br />
<br />
Tổng quan nghiên cứu<br />
<br />
Định lượng đóng góp của CDCCLĐ lên tăng trưởng năng suất lao động bằng phương pháp<br />
phân tích chuyển dịch tỷ trọng (SSA) đã được nghiên cứu ứng dụng ở nhiều quốc gia, khu vực<br />
khác nhau. Đây là một cách tiếp cận khá đơn giản nhưng lại rất hiệu quả. Timmer và Szirmai<br />
(2000) xem xét vai trò của sự thay đổi cơ cấu lao động trong việc giải thích sự tăng trưởng năng<br />
suất lao động tổng hợp trong lĩnh vực sản xuất của bốn nước châu Á trong giai đoạn 1963 - 1993.<br />
Phân tích chuyển dịch tỷ trọng được sử dụng để đo lường tác động của sự thay đổi cả lao động<br />
và đầu vào vốn. Kết quả không ủng hộ giả thuyết về CDCC các nguồn lực có đóng góp vào tăng<br />
trưởng NSLĐ cũng như năng suất nhân tố tổng hợp. Tăng trưởng NSLĐ chủ yếu được thúc đẩy<br />
bởi việc cải thiện năng suất nội bộ ngành.<br />
Shigh (2004) tập trung vào tác động của thay đổi công nghệ và cơ cấu đối lao động với tăng<br />
trưởng NSLĐ tổng hợp trong ngành sản xuất của Hàn Quốc, tác giả chia quy mô công ty thành 8<br />
nhóm trong giai đoạn 1970 - 2000 và sử dụng phương pháp SSA để đo lường tác động của sự thay<br />
đổi cả lao động và đầu vào vốn. Các kết quả cho thấy thay đổi cơ cấu trung bình đã dẫn đến tăng<br />
trưởng năng suất trong những năm 1970 và mô hình này bị đảo ngược sau đó. Các công ty vừa và<br />
nhỏ năng động hơn trong việc phân bổ lại nguồn lực; tuy nhiên, các công ty có quy mô lớn trong<br />
ngành chế tạo đã tác động tích cực hơn đến năng suất do việc tái phân bổ.<br />
Với mục đích có được một thước đo mức độ quan trọng của việc phân bổ lại các phân<br />
ngành, hay sự thay đổi về cơ cấu, của các doanh nghiệp đối với năng suất tổng thể, Isaksson<br />
(2009) đã thực hiện nghiên cứu cho 3 nhóm nước gồm các nước công nghiệp hóa, các nước có nền<br />
kinh tế chuyển đổi và các nước đang phát triển. Kết luận rút ra từ việc phân tích các tài liệu thực<br />
112<br />
<br />
Tập 12, Số 4, 2018<br />
nghiệm của tác giả là quá trình tái phân bổ có đóng góp tương đối quan trọng cho năng suất ở các<br />
nước đang phát triển và ít hơn ở các nước công nghiệp hóa, từ đó dẫn đến các hàm ý về chính sách<br />
khác nhau. Tuy nhiên, những kết luận như vậy đã không có được sự ủng hộ từ việc phân tích dữ<br />
liệu qua phương pháp SSA thực hiện bởi tác giả. Trên thực tế, các nước tương đối nghèo có lợi ít<br />
nhất cũng như các nền kinh tế tiên tiến từ những nỗ lực đổi mới của doanh nghiệp, ở những nước<br />
này thì hiệu quả thay đổi cơ cấu góp phần rất ít vào hiệu suất tổng thể. Tác giả cũng đưa ra những<br />
hàm ý chính sách sâu sắc từ kết luận này, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển<br />
năng lực cho các hoạt động sáng tạo.<br />
Dựa trên số liệu chéo của 38 quốc gia thuộc nhiều châu lục trong giai đoạn 1990 - 2005,<br />
McMillan và Rodrik (2011) đã phân chia các nền kinh tế thành 9 ngành để xem xét những đóng<br />
góp vào tăng trưởng năng suất của CDCC giữa các ngành và của việc tăng năng suất nội ngành<br />
sử dụng SSA. Các tác giả đưa ra bằng chứng cho thấy CDCC từ các ngành có năng suất thấp<br />
sang các ngành có năng suất cao hơn là chìa khóa cho sự tăng trưởng, tác động đến gia tăng năng<br />
suất có sự khác nhau giữa các khu vực. Đối với khu vực châu Á là tác động tích cực, còn với<br />
khu vực châu Phi và Mỹ La Tinh là tác động tiêu cực do lao động không đáp ứng được các yêu<br />
cầu chuyên môn.<br />
Cũng tiếp cận từ phương pháp SSA, Chansomphou và Ichihashi (2013) tìm hiểu các hình<br />
thái thay đổi cơ cấu, tăng trưởng năng suất lao động và hội tụ ở các nước BRIC. Ban đầu, họ sử<br />
dụng SSA để điều tra đóng góp của dịch chuyển nội ngành, các tác động tĩnh và động đối với<br />
tăng trưởng năng suất lao động. Sau đó, họ sử dụng các bài kiểm định hội tụ để kiểm tra liệu sẽ<br />
có sự hội tụ trong từng lĩnh vực kinh tế ngay cả với các mô hình thay đổi cơ cấu hiện có ở mỗi<br />
quốc gia. Kết quả của họ cho thấy sự tăng trưởng năng suất lao động nội ngành chính là nguồn<br />
gốc tăng trưởng NSLĐ tổng hợp, trong khi tác động của di chuyển lao động vẫn tồn tại (tác<br />
động dịch chuyển) nhưng không đáng kể. Trong số các nước BRIC, họ thấy rằng trong giai đoạn<br />
1980 - 2008, Trung Quốc có tỷ lệ tăng trưởng năng suất lao động cao nhất, theo sau đó là Ấn Độ<br />
và Nga, trong khi Braxin có mức tăng trưởng thấp nhất. Tiếp đó, họ sử dụng phân tích tỷ trọng<br />
dịch chuyển cho mức độ phân tách ngành. Kết quả cho thấy BRIC có những thay đổi cấu trúc khác<br />
nhau. Tuy nhiên, họ quan sát thấy rằng ở Braxin, Nga và Ấn Độ, hầu hết các ngành dịch vụ đều<br />
có tăng trưởng năng suất lao động nội ngành cao (tác động dịch chuyển nội bộ) và di chuyển lao<br />
động chủ yếu trong lĩnh vực này, trong khi ở Trung Quốc, tăng trưởng tập trung trong các ngành<br />
công nghiệp.<br />
Tiếp cận chủ đề này với phương pháp SSA ở Việt Nam, điển hình là nghiên cứu của<br />
Nguyễn Thị Tuệ Anh (2007). Tác giả đã sử dụng dữ liệu của 20 ngành cấp 1 trong giai đoạn<br />
1991 - 2006 ở Việt Nam. Kết luận được rút ra là trong nhịp tăng NSLĐ tổng thể của nền kinh<br />
tế có phần đóng góp quan trọng của CDCCLĐ. Tác động của CDCC chủ yếu đến từ tác động<br />
tĩnh, tức là nhờ di chuyển lao động từ ngành có mức NSLĐ thấp hơn sang ngành có mức NSLĐ<br />
cao hơn. Mặc dù trong tổng thể nền kinh tế, tác động động của CDCC là bất lợi cho tăng trưởng<br />
NSLĐ nhưng qua phương pháp SSA cho thấy nhiều ngành được hưởng lợi từ cấu phần động<br />
và đó cũng là các ngành phát triển năng động. Nghiên cứu gần đây của Giang Thanh Long<br />
và cộng sự (2015) lại sử dụng số liệu thống kê của 9 ngành kinh tế chủ yếu trong giai đoạn<br />
2001 - 2012. Kết quả phân tích chỉ rõ, ở giai đoạn này thì tác động tĩnh của CDCC lao động<br />
113<br />
<br />
Phạm Thị Hướng, Võ Bá Thiên<br />
có đóng góp tích cực vào tăng trưởng NSLĐ, trong đó các ngành công nghiệp chế biến chế tạo<br />
và xây dựng có đóng góp nhiều nhất. Ảnh hưởng tiêu cực từ tác động động do CDCC lao động<br />
đến tăng trưởng NSLĐ được tìm thấy trong ngành nông - lâm - thủy sản và ngành tài chính - tín<br />
dụng. Những kết luận này cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Vũ Thị Hương và Nguyễn<br />
Thị Minh (2016). Phân tích dưới một góc độ khác, Nguyễn Thị Cẩm Vân đã sử dụng “mô hình<br />
cơ bản” được đề xuất bởi Sundrum (1990) và được điều chỉnh sau đó bởi Cornwall (1990) dựa<br />
trên tiếp cận từ phía cung và phía cầu và nền kinh tế chia thành 3 khu vực: nông nghiệp, công<br />
nghiệp, dịch vụ. Giai đoạn nghiên cứu là 1995 - 2014. Theo kết quả của nghiên cứu này thì chỉ<br />
có thời kỳ 2000 - 2010 là CDCC đóng vai trò then chốt đối với tăng trưởng NSLĐ tổng thể, ở<br />
các thời kỳ còn lại thì tăng trưởng NSLĐ nội bộ các ngành là động lực tạo ra sức bật cho tăng<br />
trưởng NSLĐ của nền kinh tế.<br />
Qua tổng quan những nghiên cứu đã thực hiện ở trên thấy rằng, việc sử dụng phương pháp<br />
SSA để phân tích đóng góp của CDCCLĐ vào NSLĐ tổng thể được áp dụng khá rộng rãi ở nhiều<br />
nền kinh tế khác nhau, trong đó có cả nước phát triển, kém phát triển và đang phát triển, và đã<br />
cung cấp các kết quả hỗn hợp. Đối với nền kinh tế Việt Nam thì vấn đề này cũng đã được một<br />
số tác giả nghiên cứu. Kết quả thu được phụ thuộc nhiều vào việc lựa chọn phương pháp, phân<br />
chia các ngành và giai đoạn nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ sử dụng cách phân<br />
chia nền kinh tế thành 3 ngành lớn là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, và với một giai đoạn<br />
nghiên cứu dài hơn.<br />
3.<br />
<br />
Phương pháp phân tích chuyển dịch tỷ trọng (Shift - Share Analysis, SSA)<br />
<br />
Để đo lường sự đóng góp của sự thay đổi cơ cấu đến tăng trưởng NSLĐ, điều này là rất<br />
quan trọng để phân biệt giữa đóng góp của sự thay đổi giữa các ngành và đóng góp của tăng<br />
trưởng năng suất trong nội bộ ngành. Trong phân tích tác động của sự thay đổi cấu trúc, một cách<br />
tốt nhất nên phân tích những tác động của sự thay đổi cả về vốn và lao động lên năng suất nhân tố<br />
tổng hợp, trường hợp này được gọi là “đo lường đầy đủ”. Tuy nhiên, do thiếu dữ liệu, trong nhiều<br />
trường hợp, các phân tích tập trung vào sự thay đổi của một yếu tố đầu vào (lao động), trường hợp<br />
này được gọi là “đo lường một phần”.<br />
Phương pháp SSA lần đầu tiên được giới thiệu bởi Fabricant (1942), ông ta đã đo nhu cầu<br />
lao động trên một đơn vị sản lượng. Kể từ đó, nó đã được áp dụng rộng rãi trong phân tích tăng<br />
trưởng kinh tế, mặc dù sự chú ý sau đó đã chuyển sang vấn đề về tăng trưởng năng suất.<br />
Mô hình SSA phân tách tăng trưởng năng suất thành các nguồn khác nhau. Phương pháp<br />
này làm nổi bật tác động của sự thay đổi của yếu tố đầu vào từ phía cung. Nội dung của phương<br />
pháp SSA như sau:<br />
Giả sử nền kinh tế được chia thành n ngành. Gọi PP là mức năng suất của nền kinh tế, được<br />
xác định bởi tổng giá trị đầu ra (YP) trên tổng số lao động (LP) của nền kinh tế. Như vậy, PP = YP/LP.<br />
Pi, Si tương ứng là năng suất ngành/khu vực i và tỷ trọng lao động làm việc trong ngành/<br />
khu vực i (i = 1, 2,…, n) thì<br />
114<br />
<br />
Tập 12, Số 4, 2018<br />
<br />
là tổng giá trị đầu ra ngành/khu vực i, là số lao động làm việc trong ngành/ khu vực i.<br />
Giả sử đầu ra của ngành/khu vực không bị ảnh hưởng bởi số lao động di chuyển khỏi<br />
ngành/khu vực. Khi đó, mức năng suất của tổng thể nền kinh tế được xác định bởi:<br />
<br />
với<br />
<br />
∑( )(<br />
<br />
Tốc độ tăng năng suất của tổng thể nền kinh tế (<br />
<br />
)<br />
<br />
∑<br />
<br />
) của năm so với năm gốc (<br />
<br />
):<br />
<br />
Ta có<br />
∑<br />
<br />
Do đó,<br />
<br />
∑<br />
∑<br />
<br />
(<br />
<br />
∑(<br />
∑<br />
<br />
)<br />
<br />
∑(<br />
<br />
)<br />
(<br />
<br />
)<br />
<br />
)<br />
<br />
Như vậy, tăng trưởng NSLÐ tổng hợp có thể được phân rã thành tăng trưởng năng suất<br />
trong nội bộ ngành/ khu vực (thành phần thứ nhất ở bên phải của (3) mà chúng ta gọi là “hiệu<br />
ứng nội bộ ngành/ khu vực”) và các hiệu ứng thay đổi trong việc phân bổ lại lao động giữa các<br />
ngành/ khu vực (thành phần thứ hai, mà chúng ta gọi là “hiệu ứng chuyển dịch”). Hiệu ứng nội<br />
bộ ngành/ khu vực là tích cực khi tăng trưởng năng suất lao động trong ngành/ khu vực i là tích<br />
cực và là tiêu cực khi tăng trưởng năng suất lao động trong i là tiêu cực. Ðóng góp của hiệu ứng<br />
chuyển dịch cũng có thể là tích cực hay tiêu cực, tùy thuộc vào việc một lĩnh vực được mở rộng<br />
hoặc thu hẹp lại.<br />
Dựa trên phương pháp của Fabricant, Ark (1995) đã đề xuất tách phần tác động của chuyển<br />
dịch cơ cấu thành hai tác động riêng biệt như sau:<br />
Công thức (2) được viết lại:<br />
<br />
Và khi đó<br />
∑<br />
<br />
∑(<br />
<br />
)<br />
<br />
∑(<br />
<br />
(<br />
<br />
)<br />
<br />
∑<br />
<br />
(<br />
<br />
)<br />
)<br />
<br />
∑(<br />
∑<br />
<br />
)(<br />
(<br />
<br />
)(<br />
<br />
)<br />
)<br />
<br />
Thành phần đầu tiên ở vế bên phải của phương trình (4) biểu thị hiệu ứng nội bộ như đã nói<br />
ở trên. Thành phần thứ hai là tác động của CDCC do di chuyển lao động từ ngành có mức năng<br />
suất thấp sang ngành có mức năng suất cao hơn và ta gọi là tác động chuyển dịch “tĩnh”. Thành<br />
phần cuối cùng là tác động bởi sự di chuyển lao động từ ngành có tốc độ tăng NSLÐ thấp hơn<br />
sang các ngành có tốc độ tăng năng suất cao hơn, ta gọi đây là tác động chuyển dịch “động”. Như<br />
<br />
<br />
<br />
ͷ<br />
<br />
115<br />
<br />