intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Tăng cường kĩ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn Việt Nam Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng '

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

120
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lượng gỗ tiêu dùng trong nước năm 1993 được thống kê như sau: xưởng xẻ sử dụng trên 2 triệu m3 gỗ tròn; sản xuất ván MDF sử dụng 70,000 m3, sản xuất ván dăm sử dụng 140,000 m3. Nhu cầu quốc gia về gỗ chủ yếu được cung cấp từ rừng tự nhiên và nhập khẩu trong khi gỗ rừng trồng (bao gồm cả gỗ cao su) giữ một vai trò khiêm tốn do rừng trồng cung cấp một lượng nhỏ cho gỗ xẻ. Công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam giữ một vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức sản xuât...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dự án nghiên cứu nông nghiệp: Tăng cường kĩ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn Việt Nam Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng '

  1. Ministry of Agriculture & Rural Development CARD Project Report 027/06/VIE Tăng cường kĩ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ vùng nông thôn Việt Nam Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Pham Duc Chien, Philip Blackwell and Peter Vinden Tháng 4, 2010
  2. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. Mụ c l ụ c 1. Thị trường gỗ nội địa của Việt Nam....................................................................... 3 2. Công nghiệp rừng và công nghệ chế biến gỗ .......................................................... 4 3. Cung cấp gỗ của Việt Nam.................................................................................... 5 3.1. .................................................................................... 5 Đất rừng Việt Nam 3.2. .................................................................................... 6 Sản xuất gỗ trong nước 3.3. Sản xuất gỗ xẻ và thương mại ............................................................................... 7 3.4. Sản xuất đồ mộc và thương mại ............................................................................. 8 3.5. Sản xuất ván gỗ và thương mại .............................................................................. 8 3.6. Sản xuất giấy và bột giấy và thương mại ................................................................ 9 3.7. Sản xuất ván dăm và thương mại ......................................................................... 10 3.8. Nhập khẩu gỗ và tiêu dùng ở Việt Nam................................................................ 10 3.9. .................................................................................. 11 Nhập khẩu gỗ Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 2 of 11
  3. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. 1. Thị trường gỗ nội địa Việt nam Lượng gỗ tiêu dùng trong nước năm 1993 được thống kê như sau: xưởng xẻ sử dụng trên 2 triệu m3 gỗ tròn; sản xuất ván MDF sử dụng 70,000 m3, sản xuất ván dăm sử dụng 140,000 m3. Nhu cầu quốc gia về gỗ chủ yếu được cung cấp từ rừng tự nhiên và nhập khẩu trong khi gỗ rừng trồng (bao gồm cả gỗ cao su) giữ một vai trò khiêm tốn do rừng trồng cung cấp một lượng nhỏ cho gỗ xẻ. Công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam giữ một vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức sản xuât của ngành lâm nghiệp. Lâm sản Việt Nam rất đa dạng, gồm rất nhiều chủng loại, từ các sản phẩm mới qua sơ chế như ván xẻ, ván sàn, gỗ dán và ván dăm tới các sản phẩm đã qua nhiều khâu chế biến khác như bàn uống trà, giường, tủ, ghế sofas và các sản phẩm đồ mộc khác. Bảng 1 trình bày công suất của ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt nam giai đoạn 2001- 2005. Gỗ xẻ là sản phẩm quan trọng nhất về số lượng sau đó là ván dăm cũng chiếm tỷ trọng lớn. Tứ năm 2005 công nghiệp đồ gỗ của Việt Nam tăng lên mạnh mẽ và điều này chắc chắn đòi hỏi nhu cầu nguyên liệu ngày càng cao. Với hầu hết các loại sản phẩm, công suất thiết kế hầu hết vượt nhiều so với sản xuất thực tế do thiếu nguồn cung cấp nguyên liệu trong vài thập kỷ qua. Bảng 1: Công suất công nghiệp chế biến gỗ và sản phẩm của Việt Nam 2001-2005 Sản phẩm Công suất Sức sản xuất 3 2,165,000 m3 Gỗ xẻ 4,000,000 m 144,000 m3 84,000 m3 MDF 150,000 m3 60,000 m3 Gỗ dán 970,000 m3 30,000 m3 Giấy Bột giấy 682,000 t 642,000 t 1,042,000 m3 products Đồ mộc - Ván dăm - 1,800,000 bone dry tonnes 80,000 m3 Cột chống lò - (Nguồn: Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, 2005) Bảng 2 cho thấy tiêu dùng quốc gia trong năm 2005 vượt so với năm 2003 với hầu hết các sản phẩm gỗ và giá trị xuất khẩu tăng với tốc độ cao phản ánh giá trị của ngành ngày càng tăng đặc biệt là trong xuất khẩu. Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 3 of 11
  4. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. Bảng 2: Lượng tiêu thụ gỗ năm 2003 và 2005 Tiêu thụ 2003 2005 Tiêu thụ gỗ nội địa và xuất khẩu (‘000m3) 7,420 10,063 Gỗ lớn trong công nghiệp chế biến gỗ và xây dựng 4,561 5,373 Gỗ nhỏ cho sản xuất và và dăm cho xuất khẩu 1,649 2,032 Gỗ nhỏ cho sản xuất giấy 1,150 2,568 Cột chống lò 60 90 Giá trị xuất khẩu lâm sản (triệu US$) 721 1,700 Sản phẩm gỗ 567 1,500 LSNG 154 200 Tiêu thụ gỗ củi (triệu m3) 25 25 2. Công nghiệp rừng và công nghệ chế biến gỗ Hiện tại, Việt Nam có khoảng 1.200 cơ sở chế biến gỗ trong đó khoảng 24% là thuộc nhà nước, 10,4% thuôc liên doanh và 65,6% là doanh nghiệp tư nhân. Công nghệ sử dụng ở ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt nam đã được cải thiện trong những năm gần đây tuy rằng vẫn còn là khoảng cách lớn nếu so sánh với các nước phát triển. Trong tương lai, nếu không có máy móc mới hoặc công nghệ hiện đại, các sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ rất khó canh tranh ở thị trường quốc tế. Tổng công suất của công nghiệp xẻ gỗ Việt Nam vào khoảng 3 tới 4 triệu m3 trên năm. Trong năm 2003, sản phẩm MDF là 54,000 m3 mặc dù gần đây một nhà máy công suất 60,000 m3 được xây dựng. Công suất sản xuât ván dăm vào khoảng 80,000m3 trong năm 2003 và 2001, 6 nhà máy sản xuất ván lạng được xây dựng. Phần lớn các cơ sở cưa xẻ đều nhỏ, sức sản xuất hạn chế. Nhìn chung, đầu tư thấp, các cơ sở xẻ chỉ đáp ứng nhu cầu hạn chế về sản phẩm, chất lượng không đảm bảo cho thị trường sản phẩm chất lượng cao. Tuy nhiên, các xưởng xẻ đã tạo việc làm cho nhiều lao động vùng nông thôn trong đó có rất nhiều người tham gia việc khai thác nhưng không có việc vì không đúng vụ. Công nghệ chế biến gỗ bao gồm nhiều các lĩnh vực khác, từ khai thác tới sản phẩm lâm sản được chế biến có chất lượng cao. Những năm trước, gỗ tròn được xẻ bằng cưa đĩa hoặc cưa vòng. Cả hai loại cưa này có năng suất thấp, hiệt quả thấp và tỷ lệ gỗ phế loại cao. Những năm gần đây, cưa vòng đứng điều khiển bằng điện đã được sử dụng ở rất nhiều nước, và cũng rất nhiều nước áp dụng công nghệ kỹ thuật số để thiết kế các sơ đồ xẻ trước khi xẻ. Tuy nhiên, công nghệ này chưa được áp dụng ở Việt Nam. Liên quan tới việc sấy gỗ, nhìn chung có 4 phương pháp chủ yếu để sấy gỗ (1) Sấy lạnh, (2) sấy bằng khí nóng, (3) sấy bằng hơi nóng và (4) hong phơi. Sấy bằng hơi nóng là phương pháp được sử dụng nhiều nhất Việt Nam. Nhìn chung, việc đầu tư cho thiết bị chế biến gỗ và lâm sản ở Việt Nam còn khá hạn chế, chưa theo kịp được các công nghệ kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là ở phía bắc. Tỷ lệ tiêu dùng cho các quá trình và sản phẩm khác nhau như sau: • Thiết bị xẻ và chế biến gỗ cơ bản chiếm khoảng 40% tổng năng lực chế biến, bao gồm cưa vòng, cưa đĩa sản xuất tại Việt Nam, bào một mặt... nhập từ Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng Hoà Czech. Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 4 of 11
  5. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. • Thiết bị chế biến gỗ các khâu cuối để thành sản phẩm độ mộc chiếm khoảng 50% tổng năng lực chế biến, bao gồm máy bào 3-4 mặt, cưa xẻ 1-2 chiều, cưa cắt mộng, thiết bị khoan đa dụng, máy đánh bòng, và buồng sấy. Trong những năm gần đây, phần lớn được nhập công nghệ hiện đại dây chuyền từ Nhật Bản, Pháp, Đài Loan và Hàn Quốc. • Dây chuyền sản xuất ván ép chiếm khoảng 10% năng lực chế biến gỗ. Một số dây chuyền được lắp đặt đồng bộ, tuy nhiên có rất nhiều các dây chuyền sử dụng máy móc thiết bị lỗi thời. Tổng năng lực chế biến gỗ khoảng 4 triệu m3 gỗ tròn trên 1 năm, nhưng chỉ có 2 triệu • 3 m trên năm là thực sự được chế biến. Đầu tư cho công nghiệp sản xuất giấy đã tăng lên. Tuy nhiên, nhìn chung công nghiệp giấy Việt Nam có quy mô nhỏ và sử dụng công nghệ lạc hậu. Các nhà máy sản xuất giấy cũng gây ô nhiễm rất lớn, đặc biệt là các nhà máy không sản xuất bột giấy gỗ, và giấy sản xuất ở Việt Nam có chất lượng thấp, không cạnh tranh được với giấy nhập khẩu cả về chất lượng và giá cả. Những năm gần đây, đầu tư mới của ngành đã cho phép nhập các thiết bị hiện đại, nhưng chất lượng sản phẩm vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu cho xuất khẩu và còn nhiều các vấn đề khác cũng cần phải giải quyết. Hiện tại có gần 300 nhà máy sản xuất giấy ở Việt Nam, nhưng năng lực sản xuất lại dưới 20,000 tonnes. Nếu muốn có thể cạnh tranh được, quy mô của các nhà máy này cần lớn hơn gấp 10 lần so với mức độ trung bình hiệnt tại. Ví dụ, các nhà máy mới xây dựng ở Thái lan, Trung Quốc và Indonesia có công suất trên 500,000 tonnes. Trong năm 2003, Việt Nam sản xuất gần 640,000 tonnes bột giấy và sử dụng khoảng 2.6 triệu m3 gỗ. Nguyên liệu chính cho các công ty này là bột giấy, giấy phế loại và tre trúc, và trong năm 2003 tỷ lệ sử dụng ước tính: 80% bộ gỗ và 20% bột không phải từ gỗ và giấy phế loại. Nhu cầu về bộ giấy (từ gỗ) nhập khẩu đã dần tăng lên do nhu cầu về đầu vào chất lượng cao đã tăng lên. 3. Cung cấp gỗ của Việt Nam 3.1. Đất rừng của Việt Nam Năm 2005, chính phủ Việt Nam quy hoạch 19.02 triệu ha đất cho lâm nghiệp. Đất dành cho lâm nghiệp được chia làm 3 loại chính: Rừng sản xuất là 7.1 triệu ha, rừng phòng hộ là 9.47 triệu ha, và rừng đặc dụng là 2.32 triệu ha. Rừng sản xuất là nguồn cung cấp gỗ chủ yếu, cả từ rưng tự nhiên và rừng trồng. Trong năm 2006, Chính phủ Việt Nam quy hoạch lại việc sử dụng đât tự nhiên của đất nước. Có 16.24 triệu ha đất tự nhiên là đất rừng. Hơn thế nữa, diện tích rừng sản xuất nhận được sự ưu tiên trong đợt phân loại này. Như được trình bày trong Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam 2006-2020, 8.4 triệu ha hay 51.72% diện tích đất rừng được phân loại cho rừng sản xuất. Trong khi đó, rừng phòng hộ có mức độ ưu tiên giảm đi so với đợt quy hoạch trước đó. Diện tích đất rừng quy hoạch cho rừng phòng hộ giảm xuống từ 9.47 triệu ha xuống còn 5.68 triệu ha. Diện tích rừng sản xuất lớn nhất nằm ở phía đông bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên với tổng diện tích vào khoảng 75% tổng diện tích đất dành cho rừng sản xuất. Trong đó diện tích đất rừng tự nhiên 3.1 triệu ha, rừng trồng 1.4 triệu ha và 2.6 triệu ha là đất chưa sử dụng, đất chưa có rừng che phủ. Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 5 of 11
  6. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. Mục tiêu của chính phủ là tăng diện tích che phủ của rừng từ 12.6 triệu ha năm 2005 lên tới 15.6 triệu ha vào năm 2020, mà chủ yếu là tăgn diện tích rừng trồng sản xuất từ 4.48 triệu ha lên tới 7.78 triệu ha. Để đạt được mục tiêu đề ra, chinh phủ đã ban hành rất nhiều chính sách khuyến khích người dân trồng rừng. Các chính sách bao gồm giao đất giao rừng, chia sẻ lợi ích, sắp xếp lại các lâm trường quốc doanh, quy hoạch sử dụng các loại rừng, xây dựng các khu chế biến gỗ, xoá bỏ các rào cản lưu thông và bán gỗ cho người trồng rừng. 3.2. Sản xuất gỗ trong nước Nhận rõ các thách thức của việc mất rừng, Chính phủ đã thực hiện một loạt các giải pháp nhằm hạn chế khai thác rừng. Năm 1992, Chính phủ đã ban hành chính sách cấm xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ, sau đó là cấm khai thác để sản xuất ván dăm năm 1997, và giảm mạnh lượng gỗ khai thác hàng năm từ rừng tự nhiên (AAC) xuống còn 300,000 m3 trên năm trong năm 1999 (Barney 2005). Năm 2003, khai thác hợp pháp rừng tự nhiên đã dừng hẳn ở phía bắc Việt Nam, đồng bằng sông Hồng, và đông nam đồng bằng sông Cửu Long (Brown and Durst 2003). Tuy nhiên, các phân tích chỉ ra rằng khai thác thực tế vượt xa rất nhiều so với AAC. Ví dụ, Waggener (2001) ước lượg lượng gỗ lớn với đường kính (>30cm) lưu chuyển vào khoảng 1.35 triệu m3. Lượng gỗ này bao gồm cả từ khai thác trái phép tới các hoạt động khai thác kinh doanh và từ khai thác ở quy mô nhỏ tới việc khai thác trắng để sản xuất nông nghiệp (Barney 2005). Cùng với việc giảm khai thác từ rừng tự nhiên, Việt Nam thực hiện chương trình tăng cường việc sử dụng gỗ từ rừng trồng. Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (5MHRP) được bắt đầu từ năm 1998 bao bồm việc tái tạo lại rừng ở nhứng nơi đất bị thoái hoá, tăng cường thực thi pháp luật, và tái tạo rừng tự nhiên từ các khu rừng đã khai thác. Việc trồng rừng mới gặp trở ngại do thiếu đất thích hợp, và chương trình 5MHRP rất chú trọng tới các vùng phía bắc nơi mà có một số nhà máy chế biến gỗ quy mô (PTMFPV 2008). Theo MARD, năm 2020, rừng trồng sẽ có thể cung cấp 20 triệu m3 gỗ (PTMFPV 2008). Sản xuất gỗ nội địa đã tăng lên khoảng 10% hàng năm từ năm 2000 (xem bảng 3 phía dưới). Đó là do mức độ cung cấp gỗ từ rừng trồng tăng lên đáng kể nên đã bù đắp lại được sự suy giảm của việc giảm khai thác từ rừng tự nhiên. Trong khi lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên giảm đi từ 1.8 triệu m3 năm 1997 xuống còn 180,000 m3 năm 2008. Lượng gỗ tròn khai thác từ rừng trồng tăng từ 1.9 triệu m3 tới 3.38 triệu m3 cũng cùng thời gian trên. Bảng 3. Khai thác từ rừng tự nhiên Đơn vị: m3 1991- 1996-2000 2001-2005 2006 2007 2008 2009 1995 3.583.000 2.248.000 1.275.000 150.000 150.000 180.000 250.000 (Nguồn: Cục Lâm nghiệp, 2009) Hàng năm, hàng chục ngàn ha rừng tự nhiên của Việt Nam bị chặt hạ vì các lý do khác nhau, như để xây dựng nhà máy thuỷ điện, thuỷ lợi, sản xuất nông nghiệp hoặc cho các đồn điền cây công nghiệp (cao su, cà phê …). Thực tế, hàng triệu m3 gỗ được khai thác từ rừng do mục đích chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên, không có số liệu về lượng gỗ được khai thác từ các hoạt động này. Trong báo cáo này, lượng gỗ khai táhc từ chuyển đổi mục đích sử dụng rừng được ước tính như sau: Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 6 of 11
  7. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. Bảng 4. Diện tích rừng tự nhiên bị chuyển đổi mục đích sử dụng và lượng gỗ khai thác N ăm Diện tích (ha) Gỗ khai thác (m3) 2003 22.235 1.111.750 2004 24.916 1.245.800 2005 15.973 798.650 2006 18.449 922.450 2007 11.461 573.050 2008 21.189 1.059.450 Nguồn: Cục Kiểm Lâm, 2009 Vùng đông bắc sản xuất một lượng gỗ rừng trồng lớn, tiếp đó là đồng bằng sông Mêkong và vùng Bắc Trung Bộ. Năm 2008, Vùng Đông bắc sản xuất 943,000 m3 chiếm 30% lượng gỗ khai thác được; Đồng bằng sông Mêkông sản xuất 608,000 m3 chiếm18.7% lượng gỗ khai thác và Bắc Trung bộ sản xuất 560,000 m3 chiếm 17.2% lượng gỗ khai thác. 6 tỉnh sản xuất gỗ quan trọng nhất là Tuyen Quang, Yen Bai, Quang Ngai, Phu Tho, Gia Lai và Binh Dinh. Năm 2008, 6 tỉnh nhày sản xuất 1.1 triệu m3 chiếm 33.4% gỗ Việt Nam sản xuất. Sự chuyển đổi từ rừng tự nhiên sang rừng trồng đã thay đổi cấu trúc các loại gỗ khai thác của Việt Nam. Đầu tiên, có một sự thay đổi về loài cây, từ các loài cây bản địa sang cây nhập nội trồng rừng. Ước tính khoảng 75% gỗ khai thác từ rừng trồng keo và bạch đàn. Tỷ lệ gỗ keo có thể sẽ đóng vai trò chủ yếu trong tương lai, là kết quả của việc phần lớn diện tích trồng rừng sử dụng các loài keo. Thứ hai, đường kính gỗ tròn đã tăng lên. Số liệu từ tỉnh Phú Thọ chỉ ra rằng rừng trồng keo và bạch đàn nhìn chung khai thác từ tuổi 7 hoặc 8 khi mà phần lớn cây rừng có đường kính dưới 25 cm. 3.3. Sản xuất gỗ xẻ và thương mại Phần lớn các xưởng xẻ ở Việt Nam là tư nhân, và mặc dù thiếu các số liệu chính xác, số cơ sở cưa xẻ có thể trên 10.000. Phần lớn các cơ sở xẻ được xây dựng sau năm 2003, và công suất xẻ gỗ biến động từ 100 m3 tới vài ngàn m3. Sức sản xuất thực tế và công suất thiết kế đã tăng lên đang kể trong thập niên vừa qua, và đã đạt được 5.3 và 6.0 triệu m3 (Bảng 5). Các số liệu thực tế có thể lớn hơn vì một số thông tin đã không được cập nhật cả về thực tế sản xuất cũng như công suất thiết kế. Bảng 5: Sản xuất gỗ xẻ, và tổng năng lực sản xuất, 1995 tới 2008 (1000 m3) Tổng Công ty Công ty tư Công ty vốn Tổng sản công Năm nhà nước nhân nước ngoài phẩm suất thiết kế 1995 500 1,092 14 - 1,606 2000 244 1,519 1 2,500 1,764 2001 186 1,849 1 2,500 2,036 2002 86 2,580 1 2,667 3,000 2003 75 3,171 45 3,500 3,291 2004 83 2,918 8 3,700 3,009 2005 66 3,162 3 4,000 3,231 2006 60 4,239 24 5,000 4,323 2007 53 4,371 17 5,500 4,441 2008 51 5,263 15 6,000 5,329 Nguồn: Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp 2006 – 2020, 2006, GSO 2009 Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 7 of 11
  8. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. 3.4. Sản xuất đồ mộc và thương mại Sản xuất đồ mộc cho thị trường trong nước và xuất khẩu chiếm một tỷ trọng lớn trong công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam. Từ năm 2000, sản xuất đồ mộc của Việt Nam đã thay đổi từ các cơ sở sản xuất nhỏ sản xuất đồ mộc cho thị trường trong nước tới quy mô công nghiệp phục vụ xuất khẩu, và Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu đồ mộc lớn thứ 4 trên thế giới. Chi phí rẻ cho lao động của Việt Nam và sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất đã thu hut các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Một điều chắc chắn là sự gia nhập WTO của Việt nam sẽ tăng cường cơ hội phát triển của công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam (ITT0 2007). Nhìn chung, sản phẩm đồ gỗ là một trong những sản phẩm xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đứng thứ 5 sau dầu thô, dệt may, dầy dép và hải sản. Xuất khẩu tăng trung bình hàng năm khoảng 43% giữa năm 2000 và 2008 và đạt mức doanh thu 2.8 tỷ USD năm 2008. Việt Nam có khoảng 1.900 công ty sản xuất đồ mộc. Các nhà máy sản xuất đồ mộc chủ yếu tập trung tại 3 khu vực: Tam giác kinh tế Thành phố Hồi Chí Minh - Đồng Nai – Bình Dương là khung chế biến, sản xuất đồ mộc lớn nhất nước; Tây Nguyên và Miền Trung; và Hà Nội và các vùng lân cận (VET 20/10/2006). Theo tờ Thời báo kinh tế Việt Nam, ngành chế biến gỗ sử dụng 170,000 lao động trong năm 2006. Một số công ty chế biến gỗ có quy mô rất lớn và được đưa lên sàn chứng khoán quốc gia, và có thể bao gồm cả đầu tư nước ngoài (VET 11/06/2007). Trong số 421 công ty có vốn đầu tư nước ngoài, 183 (43%) có vốn đầu tư từ Đài Loan (MPI 2008). Đồ gỗ và đồ thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có thị trường ở trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới (VET 20/10/2006), nhưng chủ yếu là thị trường Mỹ, Châu Âu, Nhật bản chiém tới trên 80% thị phần. Xuất khẩu sang Mỹ năm 2007 đạt 42% của tổng lượng xuất khẩu, dựa vào văn bản ký kết quan hệ giữa 2 nước từ năm 2001. 3.5. Sản xuất ván gỗ và thương mại (Wood based panel production and trade) Tiêu dùng nội địa ván sản xuất từ gỗ vượt xa khả năng cung cấp, và một lượng lớn ván MDF, ván dăm và ván ép sử dụng trong xây dựng ở Việt Nam là được nhập khẩu. Trong năm 2008, tiêu dùng nội địa MDF, ván dăm và ván ép là 245,700 m3 và xấp xỷ 46% là do trong nước sản xuất. Chính phủ có kế hoạch mở rộng sản xuất các loại ván gỗ và Chiến lược phát triển lâm nghiệp chỉ ra rằng tới năm 2010 có 21 nhà máy sản xuất ván dăm với khả năng sản xuất 538,000 m3 sản phẩm trong một năm và 10 nhà máy sản xuất ván sợi với tổng công suất là 375,000 m3 trong một năm. Bảng 6: Sử dụng sản phẩm ván gỗ, nhập khẩu, năng lực và sản xuất năm 2003, 2005, và 2008 1. MDF (m3) 2003 2005 2008 Tiêu dùng 40,100 49,100 182,200 Nhập khẩu 10,100 13,300 105,000 Công suất sản xuất nội địa 54,000 80,000 169,000 Sản xuất nội địa thực 30,000 35,800 77,000 2. Ván dăm (m3) 2003 2005 2008 Tiêu dùng 80,000 95,500 102,000 Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 8 of 11
  9. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. Nhập khẩu 20,000 31,500 45,000 Công suất sản xuất nội địa 80,000 80,000 80,000 Sản xuất nội địa thực 60,000 64,000 57,000 3. Ván ép (m3) 2003 2005 2008 Tiêu dùng 11,000 13,000 35,000 Nhập khẩu 11,000 13,000 18,000 Công suất sản xuất nội địa 0 0 70,000 Sản xuất nội địa thực 0 0 45,500 4. Ván (m3) 2003 2005 2008 Tiêu dùng 120,000 Nhập khẩu 7700 Công suất sản xuất nội địa 230,000 Sản xuất nội địa thực 200,800 Nguồn: Chiến lược phát triển lâm nghiệp 2006 – 2020; GSO, 2008; and others 3.6. Sản xuất bột giấy, giấy và thương mại MARD (2006) liệt kê 64 nhà sản xuất ván gỗ và giấy, tập trung ở miền đông bắc, đồng bằng sông Hồng, và vùng Đông Nam. Đóng vai trò quan trọng nhất ngành giấy và bột giấy Việt Nam là Tổng công ty giấy Việt Nam (Vinapimex), trong năm 2005 có 20 công ty con với tổng công suất năm là 171,000 tonnes (Paperloop, cited in Barney 2005). Công ty con lớn nhất của Vinapimex là Bapaco, đóng tại Bãi Bằng, Phú Thọ, gần Hà Nội. Nhà máy được xây dựng năm 1982 và sản xuất chủ yếu giấy in và giấy viết, cung cấp chủ yếu cho nhu cầu nội địa. Nhà máy có một dây chuyền sản xuất bột giấy với công suất hàng năm là 70,000 tonnes đã hong phơi và 2 dây chuyên sản xuất giấy với công suất 100,000 tpa. Hai nhà máy lớn khác sản xuất bột giấy của Vinapimex là Tan Mai và Dong Nai gần TP. HCM và 3 nhà máy này chiếm tới 50% sản phẩm của Việt Nam (ADB 2000). Phần còn lại gồm có 37 nhà máy khác do tỉnh quản lý hoặc do công ty tư nhân. Các nhà máy này có quy mô nhỏ nên khả năng cạnh tranh bị hạn chế. Số liệu của FAO chỉ ra có một sự nhảy vọt về lượng sản xuất giấy giữa các năm 1998 và 2004 và sau đó khá ổn định ở con số 900,000 tonnes qua năm 2006. Tỷ trọng lớn nhất của sản phẩm bao gồm các sản phẩm giấy đóng gói và tấm. Theo Thời báo kinh tế Việt Nam, ngành giấy và bột giấy của Việt Nam đã sẵn sàng cho sự phát triển của giai đoạn 2006 tới 2010. Mục tiêu của Hiệp hội giấy Việt Nam là mở rộng khả năng sản xuất bột giấy hàng năng tới 1 triệu tonnes và 2 triệu tấn giấy. Hiệp hội ước tính khoảng USD 1.15 tỷ sẽ được huy động để xây dựng các nhà máy giấy và bột giấy mới, và thêm vào đó khoảng USD 710 triệu sẽ được sử dụng cho việc mở rộng và nâng cấp các nhà máy hiện có. Phần lớn nguồn vốn sẽ tới từ các thoả thuận liên kết liên doanh (VET 26/10/2006). Đầu năm 2007, Hiệp hội giấy Việt Nam dự báo sản xuất quốc gia sẽ đạt 1.13 triệu tấn giáy và 905,000 tonnes bột giấy cho năm (VET 24/01/2007). Phần lớn giấy và bộ giấy sản xuất ở Việt Nam phục vụ nhu cầu nội địa của đất nước, và giấy xuất khẩu chỉ đạt 30,000 tonnes trong năm 2006 (FAO 2008). Chỉ có một nhà xuất khẩu có ý nghĩa là Bapaco, nhà máy xuất khẩu khoảng 20,000 tonnes giấy trong 1 năm. Các nhà sản xuất giấy và bột giấy của Việt Nam không thể đáp ứng được giá cả do các nhà sản xuất chính của Indonesia và Thái Lan xây dựng, như là APP, APRIL, Phoenix/Siam Pulp and Advance Agro. Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 9 of 11
  10. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. 3.7. Sản xuất dăm gỗ và thương mại Trong thập niên cuối, sản xuất dăm gỗ cho xuất khẩu đã tăng lên. Năng lực sản xuất dăm gỗ đã tăng lên từ khoảng 635,000 BDT năm 2005 (Barney 2005) tới 1.8 triệu tonnes năm 2009 (MARD 2009). Sự chuyển hướng của dăm gỗ cho công nghiệp giấy và bột giấy nội địa tới thị trường ngoài nước bộc lộ sự những khiếm khuyết của ngành sản xuất giấy trong nước (Roda and Rathi 2006). Cũng không giống gỗ tròn và gỗ đã sơ chế, dăm gỗ được miễn thuế khi xuất khẩu. Điều này sẽ dấn tới việc các nhà xuất khẩu dăm gỗ có thể trả giá cao hơn giá được xác ở cổng các nhà máy bột giấy nội địa. Theo Barney (2005) các nhà máy dăm gỗ ở Việt Nam thường là liên doanh giữa các cơ quan lâm nghiệp của tỉnh với đối tác nước ngoài. Nhà sản xuất dăm gỗ thường có xu hướng ký hợp đồng lâu dài với đối tác nước ngoài trong liên doanh, và gồm có các đối tác đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Theo số liệu của FAO, Nhật Bản là nhà nhập khẩu chính dăm gỗ từ Việt Nam từ thập niên trước; tuy nhiên, từ năm 2003 Trung Quốc cũng trở thành nhà nhập khẩu dăm gỗ lớn, và xu hướng này tiếp túc tới sau 2006 Trung Quốc nhiều khả năng sẽ trở thành nhà nhập khẩu dăm gỗ quan trọng nhất của Việt Nam. Hàn Quốc là thị trường thứ yếu xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam, và các nước khác là thị trường nhỏ hơn. Trong năm 2006, một lượng lớn dăm gỗ xuất khẩu sang một số nước khác, mà không phải là Nhật Bản hay Trung Quốc. 3.8. Nhập và sử dụng gỗ ở Việt Nam Sản xuất đồ mộc đã trở thành một ngành công nghiệp chính của Việt Nam và là một bộ phận tiêu thụ gỗ xẻ chủ yếu của Việt Nam. Các sản phẩm quan trọng khác bao gồm ván gỗ, giấy và bột giấy và sản xuất gỗ dăm. Trong năm 2008, công nghiệp gỗ Việt Nam sử dụng 11 triệu m3, trong đó 57% được xử dụng cho công nghiệp xẻ cho sản xuất đồ mộc nội thất và ngoài trời, 18% cho sản xuất ván gỗ, ván MDF và ván dăm, 24% cho sản xuất giấy và bột giấy, và 1% được sử dụng cho chống lò (Bảng 7). Bảng 7: Lượng gỗ tròn sử dụng ở Việt Nam, nguồn và sản phẩm cuối cùng (2003, 2005 and 2008) 2003 2005 2008 1. Tổng lượng gỗ tròn sử dụng (mill. m3) 8.8 10 11 - Gỗ tròn nội địa 55% 49% 47% - Gỗ tròn nhập khẩu 45% 51% 53% 2. Sản phẩm cuối cùng - Gỗ xử dụng cho sản xuất đồ mộc nội thất và 51.6% 53.4% 57.3% ngoài trời, và gỗ xẻ cho xây dựng - Gỗ xử dụng để sản xuất ván gỗ, ván MDF và 18.7% 20.2% 24.2% ván dăm - Gỗ xử dụng cho sản xuất giấy và bột giấy 29.1% 25.5% 17.6% - Gỗ sử dụng để chống lò 0.7% 0.9% 0.9% Nguồn: Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam, 2006 – 2020; GSO, 2007 and 2008, FOMIS 2006, và phỏng vấn Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 10 of 11
  11. Project Report  027/06VIE  Tăng cường kỹ năng và cải tiến công nghệ cho các xưởng xẻ quy mô nhỏ ở vùng nông thôn Việt Nam. 3.9. Nhập khẩu gỗ Một đặc điểm dễ nhận biết của ngành chế biến gỗ Việt Nam là nhu cầu sử dụng gỗ vượt xa rất nhiều khả năng cung cấp nội địa từ rừng tự nhiên và rừng trồng. Theo MARD, 1.4 triệu ha rừng trồng của Việt Nam có thể cung cấp 30.6 triệu m3 gỗ tròn, nhưng lượng gỗ này chỉ đủ cung cấp cho công nghiệp giấy và ván sàn. Do vậy, Việt Nam cần nhập khẩu rất nhiều gỗ. Theo ITTO, một phần rất lớn các sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam được sản xuất từ gỗ nhập từ các nước láng giềng như Laos, Cambodia, and Myanmar, từ gỗ tròn hoặc gỗ xẻ từ đối tác khu vực như Malaysia hoặc Indonesia, hoặc gỗ xẻ từ một số các nước khác. Theo Hiệp hội công nghiệp gỗ và thủ công mỹ nghệ TP. Hồ Chí Minh, một số liệu được thể hiện như sau: Bảng 8. Mười nhàn cung cấp gỗ chính cho công nghiệp gỗ Việt Nam trong năm 2007 và 11 tháng của 2008 Đơn vị: Triệu. US$ Quốc gia Brazil Cambodia China Laos New Malaysia Myanmar Taiwan Thailand USA Zealand 2007 49 73 104 85 46 135 52 44 63 97 11 tháng 40 49 101 106 43 152 57 25 53 107 của 2008 Nguồn: Handicraft and Wood Industry Association of Ho Chi Minh City, 2009 Bảng 9. Giá trị của gỗ nhập khẩu và nguyên liệu cho chế biến gỗ ở Việt Nam Year 2004 2005 2006 2007 2008 Value (mil. US$) 522 667 760 1.022 1.095 Nguồn: VIFORES, 2009 Nhu cầu thị trường gỗ xẻ nội địa (kích thước, xếp loại), đánh giá chất lượng Page 11 of 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0