intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dự thảo Luật Tố cáo sửa đổi và vấn đề tố cáo nặc danh, mạo danh

Chia sẻ: ViAnkanra2711 ViAnkanra2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

28
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tố cáo là một trong những quyền hiến định của công dân. Năm 2011, Quốc hội đã ban hành Luật Tố cáo nhằm bảo đảm quyền tố cáo của công dân. Tuy nhiên, qua 7 năm triển khai thi hành, Luật Tố cáo năm 2011 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Hiện nay, Quốc hội đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Tố cáo năm 2011. Trên cơ sở nghiên cứu Dự thảo Luật Tố cáo sửa đổi, bài viết phân tích về vấn đề tố cáo nặc danh, mạo danh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dự thảo Luật Tố cáo sửa đổi và vấn đề tố cáo nặc danh, mạo danh

  1. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT DỰ THẢO LUẬT TỐ CÁO SỬA ĐỔI VÀ VẤN ĐỀ TỐ CÁO NẶC DANH, MẠO DANH Cao Vũ Minh* * TS. Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khóa: Hiến pháp, tố cáo, tố cáo nặc Tố cáo là một trong những quyền hiến định của công dân. Năm danh, mạo danh 2011, Quốc hội đã ban hành Luật Tố cáo nhằm bảo đảm quyền tố cáo của công dân. Tuy nhiên, qua 7 năm triển khai thi hành, Luật Lịch sử bài viết: Tố cáo năm 2011 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Hiện nay, Quốc Nhận bài : 23/05/2018 hội đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Tố cáo năm 2011. Trên cơ Biên tập : 29/05/2018 sở nghiên cứu Dự thảo Luật Tố cáo sửa đổi, bài viết phân tích về Duyệt bài : 01/06/2018 vấn đề tố cáo nặc danh, mạo danh. Article Infomation: Abstract Keywords: Constitution, denunciation, Denunciation is one of the constitutional rights of citizens. In 2011, anonymity, impersonation the National Assembly promulgated the Law on Denunciation to ensure the citizens’rights to denounce. However, for a period of Article History: 7 years on the enforcement, the Law on Denunciations of 2011 Received : 23 May 2018 has revealed a number of shortcomings and inadequacies. At Edited : 29 May 2018 present, the National Assembly considers the amendments and Approved : 01Jun 2018 supplements to the Law on Denunciations. Based on the draft law on denunciation, the article analyzes the issue of anonymity, impersonation. 1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Tố tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã cáo năm 2011 hội, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà Tố cáo là việc công dân báo cho cơ nước. Với ý nghĩa đó, Nhà nước tôn trọng và quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết có những thiết chế nhằm bảo đảm cho công về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, dân thực hiện quyền này trên thực tế, xứng tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe đáng với tầm vóc là một quyền hiến định. dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, Luật Tố cáo năm 2011 được ban hành và đi quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ vào cuộc sống đã tạo ra hành lang pháp lý quan, tổ chức. Đồng thời, thông qua việc thông thoáng cho việc thực hiện quyền tố thực hiện quyền tố cáo, công dân đã trực tiếp cáo của công dân trên thực tế. Tuy nhiên, Số 11(363) T6/2018 37
  2. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT với sự phát triển không ngừng của các quan lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ hệ xã hội, Luật Tố cáo năm 2011 dần bộc lộ chức, gồm: nhiều bất cập, khiếm khuyết. a) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; cứu về những hạn chế, bất cập của Luật Tố b) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về cáo năm 20111. Do đó, sửa đổi, bổ sung Luật quản lý nhà nước trong các lĩnh vực”. Tố cáo năm 2011 là vấn đề cấp thiết. Bên Tuy nhiên, việc đưa ra định nghĩa cạnh đó, trong mối tương quan với “luật như trên là không chính xác và có nhiều gốc” - Hiến pháp năm 2013 - thì Luật Tố hạn chế. Cụ thể, Dự thảo Luật đã không sử cáo năm 2011 là “luật phái sinh”. Do đó, về dụng chính xác thuật ngữ pháp lý. Vi phạm nguyên tắc, “luật phái sinh” phải phù hợp pháp luật phải thỏa mãn các điều kiện như: i. với “luật gốc”. Trong bối cảnh Hiến pháp hành vi trái pháp luật; ii. nguy hiểm cho xã năm 2013 đã có hiệu lực thi hành thì Luật Tố hội, iii. có lỗi; iv. chủ thể có năng lực trách cáo năm 2011 cũng phải có những sửa đổi, nhiệm pháp lý3. Như vậy, có thể khẳng định, bổ sung sao cho phù hợp các quy định trong vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật. Hiến pháp năm 2013. Hiện nay, các cơ quan Do đó, không thể sử dụng thuật ngữ “hành có thẩm quyền đang trình Quốc hội xem xét, vi vi phạm pháp luật”, bởi như đã trình bày thông qua Dự thảo Luật Tố cáo sửa đổi. Trên “vi phạm pháp luật” trước hết đã là hành vi cơ sở nghiên cứu Dự thảo Luật Tố cáo sửa và tất nhiên đây là hành vi trái pháp luật. đổi trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 (sau đây Đáng tiếc là ngay từ khái niệm, Dự thảo gọi là Dự thảo Luật)2, chúng tôi có một số ý Luật đã nhiều lần sử dụng thuật ngữ “hành kiến về khái niệm tố cáo đặt trong mối tương vi vi phạm pháp luật”. quan với vấn đề tố cáo nặc danh và tố cáo mạo danh. Ngoài ra, từ khái niệm này, Dự thảo Luật đã xác định không chính xác về đối 2. Về khái niệm “tố cáo” trong Dự thảo tượng tố cáo. Theo đó, đối tượng tố cáo phải Luật Tố cáo sửa đổi là hành vi trái pháp luật chứ không phải là Khoản 1 Điều 2 Dự thảo Luật quy hành vi vi phạm pháp luật như quy định tại định: “Tố cáo là việc cá nhân theo quy định Điều 2 Dự thảo. Vi phạm pháp luật là một của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá loại sự kiện pháp lý đặc biệt. Đó là hành vi nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm (hành động hoặc không hành động) do các pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá chủ thể pháp luật (cá nhân hoặc tổ chức) thực nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hiện (một cách cố ý hoặc vô ý) trái với các hại đối với lợi ích của Nhà nước, quyền và yêu cầu của quy phạm pháp luật, xâm hại 1 Cao Vũ Minh, Một số bất cập trong các quy định của Luật Tố cáo năm 2011 và hướng hoàn thiện, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4, 2016; Nguyễn Thị Hồng Thúy, Quy định về bảo vệ người tố cáo ở một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam, Tạp chí Thanh tra số 3, 2018; Hồ Thị Thu An, Áp dụng pháp luật tố cáo và giải quyết tố cáo - thực trạng và hướng hoàn thiện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 18, 2011. 2 h t t p : / / d u t h a o o n l i n e . q u o c h o i . v n / D u T h a o / L i s t s / D T _ D U T H A O _ L U AT / V i e w _ D e t a i l . aspx?ItemID=1297&TabIndex=1&LanID=1298. 3 Trường Đại học Luật Hà Nội, Lê Minh Tâm (chủ biên), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 497 - 499. 38 Số 11(363) T6/2018
  3. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ4. có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành Nói cách khác, vi phạm pháp luật là hành vi chính, hành vi hành chính của cơ quan hành trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực chính nhà nước, của người có thẩm quyền trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ5. Vi quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi phạm pháp luật phải chứa đựng yếu tố “hành có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi trái pháp luật”. Ngược lại, có “hành vi trái vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, pháp luật” thì chưa chắc đã là vi phạm pháp lợi ích hợp pháp của mình”. Luật Khiếu nại luật. Thẩm quyền kết luận có vi phạm pháp năm 2011 rất chính xác khi sử dụng thuật luật hay không là thuộc về các cơ quan nhà ngữ “khi có căn cứ cho rằng quyết định nước. Công dân không có quyền kết luận về hoặc hành vi đó là trái pháp luật”. Rõ ràng, hành vi vi phạm pháp luật để báo cho cơ với khả năng của mình, công dân chỉ có thể quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết. nhận diện được hành vi trái pháp luật, còn Có chăng, công dân chỉ có thể nhận diện về vi phạm pháp luật phải trải qua nhiều công hành vi trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, đoạn khác nhau từ chứng minh, điều tra, xét cá nhân để tố cáo, còn kết luận về vi phạm xử… mới có thể đưa ra kết luận cuối cùng. pháp luật phải thuộc về cơ quan nhà nước Thiết nghĩ, đó là công việc của cơ quan nhà có thẩm quyền. Nếu so sánh với quy định nước có thẩm quyền chứ không phải của tương ứng trong Hiến pháp năm 2013 thì công dân. khái niệm tố cáo trong Dự thảo Luật cũng Điểm c khoản 2 Điều 9 Dự thảo Luật không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp quy định người tố cáo phải “chịu trách năm 2013. Hiến pháp năm 2013 quy định: nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của “Mọi người có quyền tố cáo với cơ quan, tổ mình”. Với khái niệm “tố cáo” vừa nêu, Dự chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc thảo Luật không những không bảo vệ người làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá tố cáo mà còn có thể hạn chế quyền tố cáo nhân”. Như vậy, theo Hiến pháp năm 2013, của công dân. Thật vậy, nếu công dân không chỉ cần công dân xác định được hành vi trái chắc chắn chứng minh được hành vi vi phạm pháp luật là đã có thể thực hiện việc tố cáo pháp luật mà tiến hành tố cáo thì nguy cơ của mình. phải “chịu trách nhiệm trước pháp luật về Nếu so sánh khái niệm “tố cáo” trong nội dung tố cáo của mình” là rất cao. Với Dự thảo Luật với khái niệm “khiếu nại” được khả năng, nhân lực, vật lực của mình, công quy định trong Luật Khiếu nại năm 2011 thì dân không thể làm thay Nhà nước trong việc sẽ thấy rõ sự bất cập này. Khoản 1 Điều 2 chứng minh có hay không vi phạm pháp Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “Khiếu luật. Nếu không thể chứng minh được có vi nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc phạm pháp luật thì rõ ràng công dân sẽ e cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này ngại trong việc thực hiện quyền tố cáo. “Mũ quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân ni che tai”, “nhắm mắt làm ngơ” là những 4 Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2003, tr. 389. 5 Hoàng Thị Kim Quế, Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2015, tr. 392. Số 11(363) T6/2018 39
  4. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT trạng thái có thể xảy ra nếu bắt buộc công không rõ họ tên hoặc sử dụng họ tên của dân phải chứng minh có vi phạm pháp luật người khác để tố cáo. mới được thực hiện quyền tố cáo, bởi nếu Từ thực tế này, Điều 25 Dự thảo Luật không chứng minh được vi phạm pháp luật đã “mạnh dạn” quy định về tiếp nhận, xử lý thì công dân có thể phải chịu trách nhiệm thông tin tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ của trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình. người tố cáo hoặc sử dụng họ tên của người Theo chúng tôi, “tố cáo” là khái niệm khác để tố cáo. Nghiên cứu tên của Điều 25 rất quan trọng của Dự thảo Luật. Do đó, khái Dự thảo Luật, có thể thấy, ngoài tố cáo chính niệm này cần được chuẩn hóa trên cơ sở loại danh (xác định cụ thể được họ tên, địa chỉ trừ những hạn chế vừa nêu. Theo chúng tôi, của người tố cáo) thì có hai trường hợp xảy khái niệm “tố cáo” cần phải được quy định ra: i. không rõ họ tên, địa chỉ của người tố chính xác như sau: cáo; ii. sử dụng họ tên của người khác để tố “Tố cáo là việc cá nhân theo quy định cáo. Chúng tôi cho rằng, tuy không nói rõ của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhưng trường hợp “không rõ họ tên, địa chỉ nhân có thẩm quyền biết về hành vi trái của người tố cáo” thì đây là tố cáo nặc danh, pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá còn “sử dụng họ tên của người khác để tố nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt cáo” thì đây là tố cáo mạo danh. hại đối với lợi ích của Nhà nước, quyền và Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam thì lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ “nặc danh” (nặc: giấu, danh: tên) là “giấu chức, gồm: tên”6, “mạo danh” là (mạo: giả dối, danh: a) Tố cáo hành vi trái pháp luật trong tên) là “giả tên của người khác” 7. Như vậy, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; có thể hiểu, tố cáo nặc danh tức là người thực b) Tố cáo hành vi trái pháp luật về quản hiện việc tố cáo giấu đi tên, họ cũng như lý nhà nước trong các lĩnh vực”. các thông tin cá nhân khác của mình. Do đó, trong đơn tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ của 3. Vấn đề tố cáo nặc danh, mạo danh người tố cáo. Trong khi đó, tố cáo mạo danh trong Dự thảo Luật là việc người thực hiện tố cáo không dùng Theo quy định của Dự thảo Luật, khi tên, tuổi, thông tin của mình khi điền vào tiến hành tố cáo, người tố cáo có nghĩa vụ trong đơn tố cáo mà dùng danh nghĩa của cung cấp họ, tên, địa chỉ của mình. Nói cách một chủ thể khác. khác, các thông tin cá nhân của người tố cáo phải được cung cấp cho các chủ thể giải Qua phân tích trên, có thể thấy tố cáo quyết tố cáo. Tuy nhiên, trong một số trường nặc danh, mạo danh có những điểm tương hợp, người tố cáo vì muốn che giấu thông tin đồng với tố cáo chính danh. Cụ thể: cá nhân nên các thông tin này không được Xét về mặt bản chất: tố cáo cho dù là cung cấp thông qua việc tố cáo. Người tố nặc danh, mạo danh thì cũng chính là việc cáo có thể thực hiện việc che giấu thông tin chủ thể tố cáo chuyển tải thông tin về hành cá nhân thông qua các hình thức tố cáo mà vi trái pháp luật đến chủ thể có thẩm quyền 6 Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 1225. 7 Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Sđd, tr. 1138. 40 Số 11(363) T6/2018
  5. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT giải quyết tố cáo. Sự khác biệt cơ bản là cách thức tố cáo mà chủ thể tố cáo muốn trong tố cáo chính danh thì chủ thể có thẩm thực hiện. Do đặc trưng tố cáo nặc danh, quyền giải quyết tố cáo xác định được rõ mạo danh là chủ thể tố cáo không cung cấp ràng, chính xác về người tố cáo. Ngược lại, những thông tin cá nhân nên nhiều chủ thể trong tố cáo nặc danh thì không thể xác định đã lợi dụng các hình thức tố cáo này để tố chính xác, rõ ràng người tố cáo do các thông cáo với mục đích xuyên tạc, vu khống và tin của người bị tố cáo bị giấu đi (nặc danh) nhằm trốn tránh trách nhiệm của người tố hay bị mạo nhận (mạo danh). cáo trước pháp luật. Xét về đối tượng: đối tượng của tố cáo Tố cáo nặc danh, mạo danh ngoài các chính danh là hành vi trái pháp luật của cá đặc điểm chung như đã phân tích ở trên thì nhân cơ quan, tổ chức gây thiệt hại hoặc đe giữa chúng còn có sự khác biệt nhất định. dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của Theo đó, trong đơn tố cáo nặc danh người tố Nhà nước, cá nhân, tổ chức. Tương tự, khi cáo giấu các thông tin tên tuổi, địa chỉ, nơi tiến hành tố cáo nặc danh, mạo danh, đối công tác và các thông tin khác. Do đó, khi tượng tố cáo cũng là các hành vi mà các chủ tiếp nhận đơn tố cáo nặc danh, các chủ thể thể tố cáo nặc danh, mạo danh cho rằng đó là giải quyết tố cáo chỉ thấy có nội dung tố cáo trái pháp luật của các chủ thể khác. mà không có thông tin về người tố cáo. Đối Xét về mục đích: mục đích của tố cáo với đơn tố cáo nặc danh, chủ thể có thẩm chính danh là hướng đến việc truy cứu trách quyền giải quyết tố cáo không cần tiến hành nhiệm các chủ thể có hành vi vi phạm nhằm liên lạc với người tố cáo do không có thông bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích tin gì từ phía người tố cáo. của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức bị hành Khác với tố cáo nặc danh, đối với tố vi trái pháp luật gây thiệt hại hoặc đe dọa cáo mạo danh, ngoài nội dung tố cáo thì vẫn gây thiệt hại. Như vậy, mục đích của tố cáo có thông tin cá nhân của người tố cáo. Các không chỉ xuất phát từ việc bảo vệ quyền, thông tin đó có thể là họ tên, địa chỉ, nghề lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức mà nghiệp, nơi công tác. Mặc dù các thông tin còn hướng đến mục đích ngăn chặn, chấm cá nhân được đưa ra không phải của chính dứt hành vi vi phạm, buộc những chủ thể người tố cáo nhưng để biết được điều này thì thực hiện vi phạm pháp luật phải gánh chịu chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải chế tài theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, thực hiện việc xác minh theo những thông trên thực tế, không phải mọi tố cáo của các tin được ghi trong đơn tố cáo. Sau quá trình chủ thể cũng hướng đến việc truy cứu trách nghiên cứu, xác minh thì chủ thể có thẩm nhiệm đối với vi phạm pháp luật mà một số quyền giải quyết tố cáo mới xác định được chủ thể dùng việc tố cáo với mục đích xấu người đứng tên trong đơn tố cáo không phải nhằm đưa ra thông tin thiếu chính xác, sai là chủ thể đã thực hiện hành vi tố cáo. Nói sự thật nhằm xuyên tạc, vu khống, gây rối cách khác, người thực hiện hành vi tố cáo an ninh, trật tự, làm ảnh hưởng đến uy tín, chỉ lấy thông tin của chủ thể bị mạo danh danh dự, nhân phẩm của người khác. Tố cáo để làm thông tin của mình. Do đó, mặc dù nặc danh, mạo danh cũng bao hàm cả hai đã tiến hành nghiên cứu, xác minh, chủ thể mục đích trên bởi xét cho cùng tố cáo nặc có thẩm quyền giải quyết tố cáo vẫn không danh, mạo danh cũng chỉ là một trong những thể xác định chính xác người đã tố cáo. So Số 11(363) T6/2018 41
  6. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT với tố cáo nặc danh thì tố cáo mạo danh gây việc thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền tốn kém thời gian, công sức, tiền bạc hơn rất hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm nhiều khi giải quyết. quyền để tiến hành việc thanh tra, kiểm tra Dựa trên những phân tích ở trên, phục vụ cho công tác quản lý”. chúng ta hoàn toàn có thể xác định được Trên cơ sở nghiên cứu Dự thảo Luật, đâu là tố cáo nặc danh, đâu là tố cáo mạo chúng tôi cho rằng, nhà làm luật nên có sự danh. Việc xác định được chính xác loại tố phân biệt cụ thể giữa tố cáo nặc danh với tố cáo không những giúp chúng ta hiểu được cáo mạo danh. Đây là hai loại tố cáo khác bản chất của từng loại tố cáo mà nó còn góp nhau. Do đó, cơ chế pháp lý điều chỉnh cũng phần xác định những quy tắc pháp lý điều phải có sự phân biệt rõ ràng. Theo chúng tôi, chỉnh đối với mỗi loại tố cáo. Do đó, để có nhà làm luật nên thừa nhận tố cáo nặc danh thể bảo đảm quyền tố cáo cũng như thực và không chấp nhận đối với tố cáo mạo danh hiện tốt hoạt động tố cáo thì việc xác định bởi những lý do sau: được chính xác các loại tố cáo là một việc Thứ nhất, Điều 8 Dự thảo Luật quy làm không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn định những hành vi bị nghiêm cấm trong tố có ý nghĩa thực tiễn. cáo và giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, Điều Khác với sự “phớt lờ” tố cáo nặc danh, 8 Dự thảo Luật không quy định tố cáo nặc mạo danh của Luật Tố cáo năm 2011, Dự danh là một hành vi bị nghiêm cấm. Điều thảo Luật đã “mạnh dạn” quy định về tố cáo đó có nghĩa, cơ sở pháp lý cho sự tồn tại nặc danh, mạo danh. Như đã trình bày, Điều của tố cáo nặc danh là hiện hữu. Khác với 25 Dự thảo Luật quy định: tố cáo nặc danh, khoản 10 Điều 8 Dự thảo “1. Khi nhận được thông tin có nội Luật nghiêm cấm hành vi “sử dụng họ tên dung tố cáo nhưng không rõ họ tên, địa chỉ của người khác để tố cáo”. Một khi đã là của người tố cáo hoặc qua kiểm tra, xác điều cấm của pháp luật thì đơn tố cáo mạo minh không xác định được người tố cáo hoặc danh cho dù có chứa những thông tin, nội người tố cáo sử dụng họ tên của người khác dung rõ ràng, cụ thể thì cũng không thể để tố cáo thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có hợp pháp bởi thực chất đây là hành vi “gắp thẩm quyền không giải quyết tố cáo theo quy lửa bỏ tay người”, “ném đá giấu tay”. Bên định của Luật này. cạnh đó, muốn biết được đó có phải là tố 2. Trường hợp thông tin tố cáo quy cáo mạo danh hay không thì trước đó chủ định tại khoản 1 Điều này có nội dung rõ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo đã phải ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc có tài liệu, bằng chứng cụ thể về hành vi vi để xác minh, tìm hiểu. Đây là điều không phạm pháp luật, có cơ sở để thẩm tra, xác thể khuyến khích trong bối cảnh chủ thể giải minh thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận tiến hành quyết tố cáo luôn quá tải về công việc8. Đối 8 Trong khi việc giải quyết đơn tố cáo chính danh đã khó khăn, phức tạp, tốn nhiều thời gian, công sức thì liệu các chủ thể có thẩm quyền chấp nhận phân chia nguồn lực xem xét, xác minh, tìm kiếm người tố cáo mạo danh để rồi nhận được kết quả “vô ích” là không đúng người đã thực hiện việc tố cáo trên thực tế. Thay vì tốn nhiều thời gian, công sức tìm kiếm những thông tin không có ích liên quan đến tố cáo mạo danh, đối với tố cáo nặc danh, chủ thể có thẩm quyền không cần tìm kiếm, xác minh thông tin nhân thân mà tập trung vào giải quyết ngay đơn tố cáo (nếu có nội dung, thông 42 Số 11(363) T6/2018
  7. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT với tố cáo nặc danh - tố cáo mà chủ thể giấu quan, cá nhân gây mất đoàn kết nội bộ; iv. tên và các thông tin cá nhân - thì chủ thể có cơ chế xử lý đối với tố cáo nặc danh chưa thẩm quyền giải quyết tố cáo sẽ không mất hữu hiệu, đa số vẫn chưa được xử lý một công sức, thời gian tìm hiểu. Các chủ thể có cách triệt để do không thể xác định được thẩm quyền chỉ tập trung vào giải quyết tố danh tính của người thực hiện việc tố cáo9. cáo (nếu có nội dung, thông tin rõ ràng, có Tuy nhiên, các lập luận trên chưa thật tài liệu, bằng chứng cụ thể). Do đó, việc giải sự thuyết phục và toàn diện bởi những lý do quyết tố cáo nặc danh cũng sẽ nhanh và hiệu sau: quả hơn so với tố cáo mạo danh. Thứ nhất, bỏ qua các yếu tố tiêu cực, Thứ hai, việc mạo danh một người tố cáo nặc danh là một nguồn thông tin quan khác để tố cáo chưa kể tố cáo đó là đúng hay trọng để có thể phát hiện và xử lý đối với sai sự thật thì cũng gây ảnh hưởng đến người những vi phạm pháp luật. Nếu không thừa bị mạo danh. Người bị mạo danh dù không nhận và tạo khuôn khổ pháp lý cho tố cáo thực hiện việc tố cáo nhưng vẫn có thể phải nặc danh thì vô hình trung chúng ta đã bỏ chịu sự trả thù, đe dọa, trù dập từ người bị qua một kênh thông tin quan trọng phản hồi tố cáo. Ngoài ra, nếu như đó là tố cáo sai sự về vi phạm pháp luật. Hơn nữa, trong cơ chế thật thì người bị mạo danh có thể phải gánh hiện nay, việc bảo vệ người tố cáo vẫn chưa chịu những hậu quả pháp lý bất lợi - những hoàn thiện, thực thi pháp luật tố cáo còn hậu quả không phải do hành vi vi phạm của nhiều hạn chế thì loại bỏ tố cáo nặc danh người đó gây ra. Do đó, không nên chấp cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ một công nhận hình thức tố cáo mạo danh bởi nếu cụ, phương tiện để xử lý những vi phạm thực sự người tố cáo muốn giấu thông tin pháp luật. cá nhân của mình thì hoàn toàn có thể thực Thứ hai, theo quy định pháp luật thì hiện việc tố cáo thông qua hình thức tố cáo thẩm quyền giải quyết tố cáo liên quan đến nặc danh. cán bộ, công chức đa phần thuộc về người Việc thừa nhận tố cáo nặc danh vẫn đứng đầu cơ quan, tổ chức. Trên thực tế, lợi còn nhiều tranh cãi. Trong thực tế có rất dụng quy định pháp luật không chấp nhận nhiều lý do được viện dẫn nhằm bảo vệ đối với tố cáo nặc danh nên những người cho quy định: “không thừa nhận tố cáo nặc đứng đầu thường né tránh việc giải quyết danh” như: i. đa số các tố cáo nặc danh đều đơn tố cáo nặc danh. Lý do cũng dễ hiểu là tố cáo không đúng sự thật; ii. chấp nhận bởi việc giải quyết tố cáo, mà đặc biệt là tố tố cáo nặc danh sẽ gây khó khăn cho các cơ cáo tham nhũng liên quan đến cán bộ, công quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo, gây chức do mình quản lý có thể dẫn đến tình hỗn loạn đối với hoạt động tố cáo và giải trạng “lợi bất cập hại” là chính bản thân quyết tố cáo; iii. đa số các tố cáo nặc danh mình cũng bị “vạ lây” vì có thể bị quy kết thường được thực hiện vào giai đoạn bầu cử, vào hành vi “buông lỏng quản lý”, “thiếu bổ nhiệm hoặc dùng để đe dọa, uy hiếp cơ trách nhiệm dẫn đến cấp dưới vi phạm phạm tin rõ ràng, có tài liệu, bằng chứng cụ thể). Điều này sẽ làm cho tiến độ và hiệu quả giải quyết tố cáo được bảo đảm. 9 Phạm Thị Huệ, Một số vấn đề xử lý tố cáo nặc danh hiện nay. Truy cập http://thanhtra.edu.vn/category/detail/632-mot- so-van-de-ve-xu-ly-to-cao-nac-danh-giai-doan-hien-nay.html, ngày 21/5/2018. Số 11(363) T6/2018 43
  8. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT luật”. Chấp nhận đối với tố cáo nặc danh sẽ Cuối cùng, tuy Luật Khiếu nại năm khắc phục được thực trạng này, buộc những 2011 không cho phép tố cáo nặc danh nhưng người đứng đầu phải xử lý vi phạm pháp luật trên thực tế, các quy định pháp luật hiện hành nói chung và những hành vi tham nhũng nói đã ít nhiều thừa nhận vấn đề này. Cụ thể, riêng trong nội bộ cơ quan mình. Đây cũng khoản 4 Điều 54 Nghị định số 59/2013/NĐ- là lý do mà nhiều đại biểu Quốc hội chấp CP ngày 17/06/2013 của Chính phủ quy định nhận vấn đề tố cáo nặc danh10. chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng thừa nhận: “đối với những tố Thứ ba, chấp nhận tố cáo nặc danh có cáo không rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo thể khắc phục các bất cập xoay quanh các nhưng nội dung tố cáo rõ ràng, bằng chứng quy định về bảo vệ người tố cáo. Luật Tố cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cáo năm 2011 và cả Dự thảo Luật quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền người tố cáo có quyền được giữ bí mật về nghiên cứu, tham khảo thông tin được cung thông tin cá nhân và việc giữ bí mật thông cấp để phục vụ công tác phòng, chống tham tin cá nhân là nghĩa vụ của người người giải nhũng”. Quy định này đã thể hiện sự thừa quyết khiếu nại. Tuy nhiên, cơ chế giữ bí nhận đối với đơn thư tố cáo nặc danh liên mật này vẫn chưa phát huy được hiệu quả, quan đến phòng, chống tham nhũng. Trong vẫn có nhiều trường hợp thông tin người tố trường hợp này, rõ ràng đã có sự mâu thuẫn cáo bị tiết lộ ra ngoài từ sự vô ý hay thậm chí giữa Luật Tố cáo năm 2011 và Nghị định số là cố ý của các cơ quan có thẩm quyền giải 59/2013/NĐ-CP. Tuy Nghị định số 59/2013/ quyết tố cáo11. Vì vậy, nếu như chấp nhận NĐ-CP có giá trị pháp lý thấp hơn Luật Tố việc tố cáo nặc danh thì thông tin của người cáo năm 2011 nhưng trên thực tế nếu liên tố cáo sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. quan đến tố cáo tham nhũng thì cơ quan nhà nước vẫn chấp nhận tố cáo nặc danh. Đặc Thứ tư, xuất phát từ tâm lý “được vạ biệt, cách quy định như trong Nghị định số thì má đã sưng” nên hiện nay nhiều người 59/2013/NĐ-CP tỏ ra hợp lý và phù hợp với chưa dũng cảm thực hiện việc tố cáo chính tinh thần của Công ước Liên hiệp quốc về danh. Thêm vào đó, người bị tố cáo thường chống tham nhũng hơn so với Luật Tố cáo là người có chức vụ, quyền hạn nên việc năm 2011. Điều này càng trở nên có ý nghĩa người tố cáo lo sợ bị trả thù, trù dập là hoàn trong bối cảnh cơ chế bảo vệ người tố cáo ở toàn có thể cảm thông. Khi cơ chế bảo vệ nước ta vừa yếu lại vừa thiếu. người tố cáo và những người thân của họ Chấp nhận tố cáo nặc danh không chưa hoàn thiện, tình trạng trả thù, trù dập, đồng nghĩa với việc tất cả đơn thư tố cáo đe dọa vẫn hiện hữu thì thừa nhận tố cáo nặc nặc danh đều được xem xét giải quyết. Theo danh là một giải pháp hữu hiệu. Khi tố cáo đó, chỉ những tố cáo nặc danh thỏa mãn đầy nặc danh thì các thông tin cá nhân của người đủ các điều kiện luật định thì mới được thụ tố cáo không hiện hữu, do đó, người tố cáo lý giải quyết. Theo chúng tôi, nhằm phát huy không lo ngại bị trả thù, trù dập, đe đọa. ưu điểm cũng như hạn chế nhược điểm của 10 Tổng Thư ký Quốc hội (Quốc hội khóa XIV), Báo cáo số 1718/BC-TTKQH tổng hợp ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức về dự án Luật Tố cáo (sửa đổi), ngày 16/5/2018, tr. 15. 11 Tuổi trẻ online, Để lộ người tố cáo, chủ tịch Đồng Tháp phạm luật nghiêm trọng, ngày 9/6/017. Truy cập: http://tu- oitre.vn/tin/phap-luat/20170609/de-lo-nguoi-to-cao-chu-tich-dong-thap-pham-luat-nghiem-trong/1328538.html, ngày 21/5/2018. 44 Số 11(363) T6/2018
  9. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT tố cáo nặc danh, pháp luật nên quy định theo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hướng chấp nhận những tố cáo nặc danh có biết về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ nội dung rõ ràng, có chứng cứ, có thể kiểm quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc tra xác minh. Đồng thời, nhà làm luật cũng đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, phải đưa ra những tiêu chí cụ thể, rõ ràng để quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ các cơ quan chức năng có thể dựa vào đó quan, tổ chức”. nhằm xem xét thụ lý, giải quyết một tố cáo Từ khái niệm này, cá nhân, tổ chức có nặc danh. thể phân biệt được đâu là tố cáo nặc danh, Trên cơ sở thừa nhận tố cáo nặc danh, đâu là tố cáo mạo danh. Bên cạnh việc đưa Dự thảo Luật cần đưa ra các khái niệm cũng ra khái niệm tố cáo nặc danh, tố cáo mạo như xác định quy chế pháp lý liên quan đến danh, pháp luật cũng cần phải đưa ra những tố cáo nặc danh, mạo danh. Hiện nay, Luật quy chế pháp lý đối với từng loại tố cáo Tố cáo năm 2011 chỉ quy định “người tố nhằm tạo ra cơ chế xử lý hiệu quả đối với cáo có có nghĩa vụ nêu rõ họ tên, địa chỉ từng loại tố cáo. Theo đó, Điều 25 Dự thảo của mình” và không đưa ra khái niệm về tố Luật nên được thiết kế như sau: cáo nặc danh, mạo danh. Dự thảo Luật có đề cập đến tố cáo nặc danh và tố cáo mạo danh “Điều 25. Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo nhưng vẫn đi theo các quy định của Luật Tố nặc danh và tố cáo mạo danh cáo năm 2011 là không đưa ra khái niệm thế 1. Khi nhận được thông tin tố cáo mạo nào là tố cáo nặc danh, mạo danh. Việc đưa danh thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm ra các khái niệm về tố cáo nặc danh, mạo quyền không giải quyết tố cáo theo quy định danh trong pháp luật tố cáo là rất cần thiết của Luật này. và phải được định nghĩa cụ thể tại Điều 2 2. Trường hợp nhận được thông tin tố Dự thảo Luật về giải thích từ ngữ. Theo đó, cáo nặc danh nhưng có nội dung rõ ràng về Điều 2 Dự thảo Luật về Giải thích từ ngữ có người có hành vi trái pháp luật, có tài liệu, thể quy định: bằng chứng cụ thể về hành vi trái pháp luật, “Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cơ quan, được hiểu như sau: tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết … tố cáo nghiên cứu, xem xét, quyết định giải quyết theo quy định của Luật này. Trường Tố cáo nặc danh là việc người tố cáo hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết thì giấu đi tên, họ, địa chỉ cũng như các thông tin cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận thông tin cá nhân khác của mình để báo cho cơ quan, tố cáo có trách nhiệm thông báo với cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, có thẩm quyền để giải quyết”12. cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây 4. Kết luận thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích Tố cáo nặc danh chưa bao giờ là vấn đề hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. mới nhưng cũng không bao giờ là cũ. Ngay Tố cáo mạo danh là việc một người từ những năm đầu tiên sau khi cách mạng tố cáo sử dụng tên, họ, địa chỉ cũng như các thành công, Nhà nước Việt Nam đã có sự thông tin cá nhân của một người khác để báo quan tâm đặc biệt đến vấn đề tố cáo nặc danh. 12 Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa VIV, Báo cáo số 264/BC-UBTVQH14 giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi), ngày 04/5/2018, tr. 10. (Xem tiếp trang 57) Số 11(363) T6/2018 45
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2