intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Khuôn Lùng (1945-2015): Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Khuôn Lùng (1945-2015): Phần 1 được biên soạn gồm các nội dung chính sau: Khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội của xã Khuôn Lùng; Nhân dân các dân tộc xã Khuôn Lùng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống đế quốc Mỹ (1945 - 1975). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Khuôn Lùng (1945-2015): Phần 1

  1. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ KHUÔN LÙNG LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ KHUÔN LÙNG (1945 - 2015) Xuất bản năm 2015 1
  2. CHỈ ĐẠO NỘI DUNG BAN THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY XÃ KHUÔN LÙNG CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN NGUYỄN VĂN ĐỊNH - BÍ THƯ ĐẢNG ỦY BIÊN SOẠN: Đ/c Lý Văn Bền Phó bí thư Đảng ủy Đ/c Hoàng Trung Đức Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã Đ/c Hoàng Văn Liêm Cán bộ Văn phòng Đảng ủy Đ/c Hoàng Thành Chung Cán bộ Ban Tuyên giáo Đảng ủy Đ/c Bùi Xuân Trung Chuyên viên Văn phòng Huyện ủy 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Huyện ủy và kế hoạch số 07-KH/BTG, ngày 28/10/2010 của Ban Tuyên giáo Huyện ủy Xín Mần về công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ cơ sở, Đảng ủy xã Khuôn Lùng biên soạn cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Khuôn Lùng (1945 - 2015). Nội dung cuốn sách nhằm giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Khuôn Lùng giai đoạn 1945 - 2015. Với 70 năm thành lập chính quyền và 66 năm kể từ khi thành lập Đảng bộ xã Khuôn Lùng; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng của xã đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử, khi thuận lợi, lúc khó khăn, song cuối cùng cũng giành được những thắng lợi vẻ vang. Tuy trải qua nhiều biến động của lịch sử, nhân dân các dân tộc xã Khuôn Lùng vẫn kiên định, sắt son, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tiếp bước cha anh, đoàn kết xung quanh Đảng để cống hiến sức người, sức của cho cách mạng, cho cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền của dân tộc và quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Thông qua chặng đường truyền thống cách mạng của xã để giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc, nhất là thế hệ trẻ xã Khuôn Lùng, luôn tự hào truyền thống vẻ vang của quê hương; từ đó biết thừa kế và phát huy tinh thần cách mạng của các thế hệ cha anh, đoàn kết thống 3
  4. nhất trong toàn Đảng bộ, lãnh đạo nhân dân quyết tâm vượt mọi khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ cách mạng hiện nay và mai sau. Trong quá trình sưu tầm tài liệu, nghiên cứu, biên soạn cuốn sách, chúng tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện ủy, các đồng chí cán bộ lão thành cách mạng, các nhân chứng lịch sử, các tổ chức, cá nhân và nhân dân các dân tộc trong xã. Đến nay cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Khuôn Lùng (1945 - 2015) đã hoàn thành và ra mắt bạn đọc. Mặc dù, tiểu ban nghiên cứu, biên soạn đã có nhiều cố gắng, song do thời gian có hạn, việc sưu tầm tài liệu gặp khó khăn nên cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong các đồng chí và bạn đọc góp ý kiến bổ sung để lần xuất bản sau, nội dung cuốn sách được hoàn chỉnh hơn. Ban Thường vụ Đảng ủy chân thành cảm ơn và xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 09 năm 2015 TM. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ KHUÔN LÙNG BÍ THƯ Nguyễn Văn Định 4
  5. Chương I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI CỦA XÃ KHUÔN LÙNG 1. Điều kiện tự nhiên Xã Khuôn Lùng cách trung tâm huyện Xín Mần khoảng 43 km về phía Nam của huyện. Phía Bắc tiếp giáp với xã Nà Chì và một phần của xã Quảng Nguyên; phía Đông giáp với xã Tiên Nguyên - huyện Quang Bình; phía Nam giáp với Tân Nam - huyện Quang Bình; phía Tây tiếp giáp với xã Bản Rịa - huyện Quang Bình. Nằm trong vùng thung lũng, được bao bọc bởi các dãy núi cao, nhiều khe suối và sông. Tổng diện tích đất tự nhiên toàn xã là 39,342 km2, trong đó diện tích đất nông nghiệp 3.597,36 ha, đất trồng cây hàng năm 579,81 ha, còn lại các loại đất khác; đặc biệt với diện tích 1.203,03 ha đất rừng tự nhiên và 2.637,05 ha đất lâm nghiệp, Khuôn Lùng có nhiều tiềm năng cho việc phát triển lâm nghiệp và các loại cây công nghiệp dài ngày; trên rừng có hệ động, thực vật phong phú và đa dạng về chủng loại. Thảm thực vật gồm có nhiều gỗ quý; song, đến nay, do sự khai thác quá mức của con người cùng với sự biến đổi bất thường của thời tiết, khí hậu đã làm ảnh hưởng tương đối lớn đến sự đa dạng về số lượng của hệ động thực vật tự nhiên nơi đây, có nhiều loài dường như không còn trên địa bàn, như: hổ, báo, gấu, vv… Hiện nay, rừng trên địa bàn xã chủ yếu là rừng tái sinh. Để bù lại sự khai thác bừa bãi, 5
  6. không có kế hoạch trước đây, đồng thời thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển, bảo vệ rừng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong xã đã và đang tăng cường phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, đẩy mạnh giao đất, giao rừng đến hộ gia đình, từ đó góp phần tạo nên độ che phủ rừng trên địa bàn xã. Hệ thống sông suối của xã Khuôn Lùng phân bổ tương đối đồng đều, hầu như thôn nào cũng có, lớn nhất là con sông Nậm Thê, được bắt nguồn từ hai dòng chảy, một dòng từ đỉnh Bản Bó thuộc xã Nà Chì và một dòng từ các đỉnh Nậm Lỳ, Nậm Lặc, Trung Thành và Sơn Thành thuộc xã Quảng Nguyên, khi chạy qua địa phận thôn phố Nà Chì thì hợp thành dòng chính, chạy dọc qua xã Khuôn Lùng có chiều dài khoảng 2,183 km rồi chảy qua địa phận xã Tân Nam, hợp với sông Con. Với con sông Nậm Thê và các con suối nhỏ chảy qua các thôn bản, góp phần tạo thuận lợi cho công tác sản xuất nông nghiệp, xây dựng thủy điện vừa và nhỏ, phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân; tuy nhiên, các con suối cũng làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, thủy sản, nhất là vào mùa mưa đi lại khó khăn do bị lũ quét, lũ ống. Khí hậu, thời tiết của xã Khuôn Lùng thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa Miền Bắc Việt Nam. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 230c, độ ẩm thích hợp cho sự phát triển của các loại thực vật. Trước đây, thời tiết, khí hậu ôn hòa rất thuận lợi cho sản xuất và đời sống của nhân dân, tuy nhiên trong những năm gần đây do biến động bất thường của thời tiết, khí hậu giá rét về mùa đông, mưa lũ về mùa hè, đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất của nhân dân. 6
  7. Hệ thống giao thông đường bộ của Khuôn Lùng phát triển chậm, nằm trên tuyến đường chính Xín Mần - Yên Bình, đã góp phần tạo điều kiện phát triển thương mại - dịch vụ và du lịch. Tuy nhiên, các tuyến đường mòn, đường lâm nghiệp đi lại nối liền với các thôn bản với nhau, nhiều năm đã dần xuống cấp. Tất cả những điều kiện tự nhiên đó đã tạo nên những khó khăn, thách thức không nhỏ trên con đường phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và quốc phòng - an ninh của xã... 2. Điều kiện xã hội Khuôn Lùng là tên gọi mới của địa phương, ra đời trên dưới một thế kỷ. Trong chặng đường dài lịch sử của thời dựng nước, vùng đất này là một phần của Châu Vị Xuyên thuộc trấn Tuyên Quang của Nhà nước Đại Việt, vào năm Minh Mệnh thứ 16 (1821) thời nhà Nguyễn, châu Vị Xuyên được chia thành 2 huyện: Huyện Vị Xuyên thuộc phủ Tương Yên, huyện Vĩnh Tuy thuộc phủ Yên Bình. Dưới thời pháp thuộc, Khuôn Lùng nằm trong tổng Yên Bình là một trong 6 tổng1 của Châu Bắc Quang thuộc tỉnh Hà Giang; từ khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Khuôn Lùng thuộc tiểu khu Yên Bình của huyện Bắc Quang. Thời kỳ này, mảnh đất Khuôn Lùng là một vùng rộng lớn2, với 11 thôn bản, gồm: thôn Phiêng Lang, Khâu Rom, Bản Rịa, Bản 1 Gồm các tổng: Trinh Tường, Hướng Minh, Bằng Hành, Tiên Yên, Yên Bình, Yên Long. 2 Bao gồm các xã: Quảng Nguyên, Nà Chì thuộc huyện Xín Mần và xã Bản Rịa, Tân Nam của huyện Quang Bình ngày nay. 7
  8. Măng, Bản Thìn, Bản Vẽ, Khâu Lầu, Nà Chì, Nà Ràng, Nà Chõ, Nậm Tráng. Ngày 15/12/1962, thực hiện quyết định số 221-CP của Hội đồng Chính phủ, cùng với việc chia và sát nhập 3 thôn: Nậm Lỳ, Bản Quảng và Lùng Chún thuộc xã Tiên Nguyên sát nhập vào xã Khuôn Lùng, đồng thời chia xã Khuôn Lùng thành 4 xã mới, gồm: Khuôn Lùng3, Nà Chì, Quảng Nguyên, Bản Rịa. Đến năm 1983, thực hiện quyết định số 136-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, xã Khuôn Lùng thuộc huyện Xín Mần. Năm 1988, Khuôn Lùng được chia thành 02 xã mới: Khuôn Lùng4 và Tân Nam. Hiện nay, Khuôn Lùng có 6 thôn bản, với 11 chi bộ đảng sinh hoạt trực thuộc Đảng bộ, với 252 đảng viên, Đảng bộ có 19 đồng chí Ban Chấp hành, 7 đồng chí Thường vụ Đảng ủy. Hàng năm kết nạp được từ 5 - 7 quần chúng ưu tú vào Đảng. Các chi bộ và đảng viên trong Đảng bộ là nòng cốt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, quyết tâm phấn đấu tổ chức, xây dựng xã Khuôn Lùng ngày một đoàn kết, dân chủ, giàu đẹp, văn minh. Xã Khuôn Lùng có 4 dân tộc anh em cùng sinh sống, gồm dân tộc Tày chiếm 72,63%, dân tộc dao chiếm 12,2%, Mông chiếm 5,14%, còn lại dân tộc kinh. Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê huyện Xín Mần, tính đến năm 2013, xã Khuôn Lùng có 2.770 người. Từ bao đời nay, đồng bào các dân tộc trong xã luôn giữ vững truyền thống đoàn kết, Với 4 thôn: Nà Ràng, Nà Chõ, Nậm Tráng và Lùng Chún. 3 Với 6 thôn: Nà Ràng, Trung Thành, Làng Thượng, Xuân Hòa, Nậm 4 Phang, Phiêng Lang. 8
  9. gắn bó với những đức tính cần cù, chịu khó, dũng cảm đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tích cực khai phá, cải tạo đất đai, tạo ra những thửa ruộng, những nương rẫy tốt tươi, đã biến những gò sườn đồi thành những nương, ruộng, góp phần nâng cao đời sống. Trong quá trình phát triển ấy, không chỉ tạo thêm những nét bản sắc văn hóa của các dân tộc trong xã mà còn khẳng định thêm, vững chắc hơn tinh thần đoàn kết, gắn bó, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng như trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, làng bản. Tinh thần này càng được thể hiện một cách mạnh mẽ hơn từ khi có Đảng dẫn đường, chỉ lối. Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân xã Khuôn Lùng cũng như nhân dân cả nước sống dưới ách thống trị, bóc lột của thực dân, phong kiến, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Về kinh tế, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, song lạc hậu, năng suất thấp lại bị sưu cao, thuế nặng, nạn đói thường xuyên xảy ra. Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, nạn mê tín dị đoan còn nặng nề, ốm đau chỉ có cúng bái, không có thầy thuốc; các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp rất phổ biến, nhân dân hoàn toàn mù chữ,… Để dễ bề cai trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” gây mâu thuẫn mất đoàn kết giữa các dân tộc để các dân tộc chống lại nhau, quên mất thù chính là thực dân Pháp. Với chính sách cai trị hà khắc của chế độ thực dân phong kiến, đời sống nhân dân cả nước nói chung và nhân dân các dân tộc xã Khuôn Lùng nói riêng vô cùng đen tối, 9
  10. tưởng như không có đường ra. Từ khi có Đảng lãnh đạo, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Khuôn Lùng đã đứng lên hưởng ứng và đi theo Đảng làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước. Về tín ngưỡng tôn giáo ở mỗi thôn bản người dân tộc Tày chủ yếu là thờ cúng tổ tiên tại gia. Bên cạnh đó, là bản sắc văn hóa các dân tộc trong xã luôn được bảo tồn và phát huy, điển hình như lễ hội Đình Mường5 của dân tộc Tày cùng với các cuộc thi chọi trâu, chọi dê và các trò chơi dân gian, như: đẩy gậy, ném còn, đấu vật và các làn điệu dân ca, hát cọi, hát yếu,vv.... đã phản ánh rõ nét bản sắc văn hóa dân tộc phong phú của nhân dân các dân tộc Khuôn Lùng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Là một trong những điều kiện thuận lợi, tiềm năng, lợi thế của địa phương đối với phát triển du lịch, thương mại, dịch vụ trong những năm tới. Ngày nay, được sự quan tâm, đầu tư mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, cùng với sự cố gắng không ngừng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Khuôn Lùng, đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong xã ngày càng được nâng cao. Nhân dân đã được hưởng những phúc lợi xã hội, như: điện lưới quốc gia, hệ thống giao thông từ trung tâm xã đến huyện và từ xã đi các thôn bản, có trường học các cấp mầm non, tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế, điểm bưu điện văn hóa và trụ sở làm việc 5 Là Lễ hội truyền thống của dân tộc Tày trên địa bàn xã, được tổ chức thường xuyên vào ngày 17 tháng giêng âm lịch hàng năm. Tháng 11/2011, Lễ hội Đình Mường được UBND tỉnh, xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. 10
  11. của xã ngày càng được đầu tư, xây dựng khang trang; việc thực hiện các phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư đã được thực hiện và đạt được những kết quả tích cực, nếp sống văn hóa mới ngày càng được xây dựng vững chắc,vv… Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới hiện nay, phát huy những truyền thống đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ huyện Xín Mần, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Khuôn Lùng đã và đang phấn đấu nhằm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. 11
  12. Chương II NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ KHUÔN LÙNG TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀ CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ (1945 - 1975) 1. Nhân dân các dân tộc Khuôn Lùng tích cực tham gia cuộc vận động cách mạng, tiến tới xây dựng chính quyền và thành lập chi bộ Đảng xã (1945 - 1949) Trong những năm 1939 - 1945, tại tỉnh Hà Giang phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ và được mở rộng ở các vùng phong trào còn yếu và các vùng dân tộc thiểu số. Thời kỳ này, Khuôn Lùng là một trong những xã thuộc tiểu khu Yên Bình của huyện Bắc Quang, bị thực dân Pháp chiếm đóng từ rất sớm, nắm được địa thế của xã có vị trí chiến lược quan trọng, chúng đã xây dựng 01 đồn bốt kiên cố có khả năng quan sát được mục tiêu từ xa, dễ dàng khống chế, chia cắt mọi hoạt động thông thương, tiếp tế cũng như các hoạt động trong phong trào cách mạng của quần chúng; đồng thời, dễ dàng tiếp tế, chi viện cho các địa điểm khác nằm trong chiến lược của chúng, lực lượng lính khố xanh, khố đỏ thường xuyên được bổ sung để cai quản dân chúng. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, đời sống của nhân dân các dân tộc Khuôn Lùng vô cùng cực khổ, nhân dân phải chịu sưu cao, thuế nặng, các thứ thuế vô lý, như thuế thân, thuế muối,vv..., thanh niên bị bắt ép đi phu, 12
  13. đi lính phục vụ cho việc cai trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trước sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp, một số quần chúng có phản kháng nhưng với hình thức đơn giản, bột phát liền bị chúng đánh đập, bóc lột đã bỏ nhà đến địa phương khác hoặc trốn vào rừng ở. Đến cuối năm 1944, được sự giúp đỡ của Ban Việt Minh tổng Đường Thượng, trực tiếp là tổ đồng chí Lĩnh Thành chỉ huy cùng 02 đồng chí ở Thác Vệ6 đã bí mật về Nặm Lạn và thôn Trung Thành tổ chức tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, làm cho nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã hiểu biết về tội ác của bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai đối với đồng bào ta; khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức cách mạng cho đồng bào các dân tộc trong xã. Đó là tiền đề và cũng là hạt nhân để phong trào cách mạng phát triển ở địa phương. Đêm 09 tháng 03 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng đã nhận định: Sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật sẽ là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và phát động cao trào kháng Nhật trong phạm vi cả nước làm tiền đề chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi đủ điều kiện. Lúc này, trên địa bàn xã Khuôn Lùng, sau khi Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp ở Bắc Quang, Yên Bình chống đỡ yếu ớt, bị quân Nhật dồn về, từ đây chúng luồn rừng lên vùng Xín Mần và chạy sang Trung Quốc7, để lại bọn Khố xanh, Khố đỏ tiếp tục nắm giữ đồn bốt trên địa bàn xã. 6 Theo hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng của xã. 7 Theo hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng của xã. 13
  14. Ngày 14 tháng 6 năm 1945, nhân dân các xã Bằng Hành, Liên Hiệp, Kim Ngọc, Hữu Sản đã họp và thống nhất thành lập Ủy ban hành chính lâm thời các xã và thành lập đội tự vệ. Ngày 24 tháng 6 năm 1945, đại biểu Ủy ban hành chính các xã cùng nhân dân địa phương đã tổ chức họp mít tinh tại Thác Vệ để thành lập Ủy ban hành chính và Mặt trận Việt Minh của tổng Bằng Hành được thành lập, đồng thời chứng kiến đốt bằng, sắc, ấn triện của bọn địa chủ, cường hào. Ban Việt Minh đã tuyên bố xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến. Ủy ban đảm nhiệm việc tổ chức và lãnh đạo nhân dân sản xuất, bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng cuộc sống mới. Chính sự lớn mạnh nhanh chóng của phong trào cách mạng trong huyện đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và nhận thức của nhân dân các dân tộc trong xã Khuôn Lùng. Tháng 7 năm 1945, Ban Việt Minh họp và bàn kế hoạch xây dựng lực lượng cách mạng. Thời điểm này, tại xã Khuôn Lùng do tổ của đồng chí Nam Hải chỉ huy8; đến xã các đồng chí đã gặp những người dân ưu tú đã được giác ngộ cách mạng tại xã và nhanh chóng tập hợp lực lượng quần chúng, tuyên truyền, giải thích chương trình, điều lệ của mặt trận Việt Minh. Đồng thời bầu ra UBHC, ban Việt Minh xã và xây dựng đội tự vệ, tổ chức các đoàn thể cứu quốc xã. Ông Hoàng Văn Tản được chỉ định làm Chủ tịch UBHC9 lâm thời xã. 8 Theo hồi ký của các lão thành cách mạng. 9 Theo hồi ký của các lão thành cách mạng. 14
  15. Tháng 8 năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự toàn thắng của phe Đồng minh. Tình hình ấy là điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Ở trong nước, nhằm vào lúc phát xít Nhật và bọn tay sai đang hoang mang cực độ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, bằng chí căm thù sôi sục và tinh thần quyết thắng đã nổi dậy Tổng khởi nghĩa và đã giành được thắng lợi. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Những sự kiện trọng đại ấy đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn tỉnh. Quần chúng nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang càng thêm phấn khởi, tin tưởng và kiên quyết đưa cuộc đấu tranh đến toàn thắng. Ngày 29/8/1945, quân Nhật rút khỏi Hà Giang thì ngay chiều 30/8/1945, quân đội Tưởng kéo vào Bản Máy, Xín Mần, Khuôn Lùng… Đi đến đâu chúng đều cướp lương thực, thực phẩm, bắt nhiều người đi phục dịch gây nên lòng căm thù cao độ trong nhân dân các dân tộc trong xã. Ngày 4/11/1945, huyện lỵ Bắc Quang được giải phóng. Sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần binh sĩ địch, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Khuôn Lùng tước vũ khí, giải tán quân địch đóng tại đồn bốt Khuôn Lùng, góp phần giải phóng hoàn toàn huyện Bắc Quang. Ngay sau ngày giải phóng, UBHC lâm thời huyện Bắc Quang được thành lập và ra mắt đồng bào; tại thời điểm này, UBHC của xã cũng được 15
  16. kiện toàn, Ông Hoàng Văn Thức được chỉ định làm Chủ tịch UBHC xã10. Tiếp đó, ngày 8 tháng 12/1945, thị xã Hà Giang được giải phóng, ngày 25 tháng 12 năm 1945, nhân dân các dân tộc thị xã Hà Giang và Đại biểu các địa phương vui mừng, phấn khởi mít tinh chào mừng Ủy ban hành chính lâm thời của tỉnh do đồng chí Thanh Phong làm chủ tịch. Song song với việc thành lập UBHC lâm thời của Tỉnh, cùng ngày xứ ủy Bắc Kỳ ký quyết định thành lập Đảng bộ Tỉnh Hà Giang, đồng chí Hồng Quân được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời. Có thể nói, đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu mốc kết thúc giai đoạn đấu tranh giành chính quyền trong phạm vi toàn tỉnh. Ngày 6/1/1946, thi hành chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc xã Khuôn Lùng, vui mừng phấn khởi tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với cuộc bầu cử này, nhân dân các dân tộc trong xã đã thực sự được hưởng quyền dân chủ, tự mình góp phần xây dựng chính quyền nhân dân. Thể hiện ý thức giác ngộ chính trị, ý chí cách mạng và lòng tin tưởng tuyệt đối của nhân dân các dân tộc trong xã vào Đảng, vào cách mạng là một đòn giáng mạnh vào bọn tàn quân Tưởng, làm uy tín của chính quyền ta được nâng cao. Thắng lợi đó có tác dụng tăng cường hiệu lực của bộ máy chính quyền nhân dân trong xã ngày càng thêm vững mạnh. 10 Theo Hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng. 16
  17. Sau hiệp ước Hoa - Pháp (ký kết ngày 28/2/1946), tháng 3 năm 1946, Pháp đưa quân ra Bắc, để tranh thủ thời gian hoà hoãn xây dựng lực lượng. Trung ương Đảng và Chính phủ ta đã ký hiệp định sơ bộ vào ngày 6/3/1946 và bản tạm ước vào ngày 14/9/1946. Nhưng với bản chất phản động, hiếu chiến, thực dân pháp ngang nhiên vi phạm hiệp định và tạm ước, chúng tiếp tục mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, ngày 20/11/1946, chúng nổ súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn.... Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, cả nước ta đã bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tuy lúc này thực dân Pháp chưa đánh chiếm Khuôn Lùng, nhưng theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương của Trung ương Đảng, với tinh thần quyết tâm cùng cả nước đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, nhân dân các dân tộc Khuôn Lùng đã tích cực thi đua phát triển sản xuất, tích trữ lương thực để chuẩn bị cho kháng chiến. Đồng thời tích cực hưởng ứng phong trào bình dân học vụ nhằm giải quyết cơ bản vấn đề “giặc dốt” trong nhân dân. Củng cố đội dân quân tự vệ để sẵn sàng chiến đấu chống giặc xâm lược, bảo vệ nhân dân, vận động đông đảo nhân dân tham gia Mặt trận Việt Minh, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số. Ngày 20/02/1947, xét thấy đủ điều kiện, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định thành lập chi bộ cơ quan huyện Bắc Quang, do đồng chí Phương Lâm làm Bí thư. Ngày 17
  18. 15/5/1947, Huyện ủy Bắc Quang chính thức được thành lập, đồng chí Phạm Gia Tuân được Tỉnh ủy chỉ định làm Bí thư Huyện ủy. Sau khi củng cố tổ chức và cán bộ, tháng 7 năm 1947, Huyện ủy Bắc Quang đã cử đồng chí Nguyễn Văn Chinh đến Tiểu khu Yên Bình để gây dựng cơ sở cách mạng. Trong thời gian hoạt động, đồng chí đã tuyên truyền giác ngộ về vai trò lãnh đạo, chủ trương và hoạt động của Đảng cho các đồng chí cán bộ nòng cốt của các xã trong Tiểu khu Yên Bình; đồng thời giới thiệu một số quần chúng tích cực để tổ chức Đảng xem xét, kết nạp, trong đó bốn quần chúng ưu tú đầu tiên của xã Khuôn Lùng được kết nạp vào Đảng, gồm: Hoàng Văn Khuyên, Hoàng Văn Vỉ, Lèng Xuân Thu và Hoàng Thu. Đây là những quần chúng sớm được cách mạng giác ngộ, luôn đi tiên phong trong các phong trào cách mạng và tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối cách mạng của Đảng, vận động xây dựng lực lượng vũ trang, chủ yếu là lực lượng du kích tại chỗ. Cuối năm 1947, Pháp mở cuộc tiến công lên Việt Bắc, đồng thời chúng thực hiện âm mưu bao vây biên giới, dùng thổ phỉ để thực hiện chính sách chia rẽ các dân tộc. Tháng 9 năm 1947, lợi dụng sự lạc hậu của đồng bào Dao, tên Trảo Sành Phú ở thôn Lùng Chún trên địa bàn xã, một tay sai của Nhật trước đây, đã tự bắn súng xưng vua, dựng cờ trắng, tập hợp lực lượng đi cướp phá, chém giết rất dã man đồng bào các dân tộc trong vùng, trong xã và một số xã lân cận thuộc huyện Bắc Quang và lan rộng ra các xã thuộc huyện Hoàng Su Phì. Âm mưu xưng vua, nổi cờ trắng của Phú có từ cuối 18
  19. năm 1945. Sau hai năm chuẩn bị lực lượng, Phú đã tổ chức bộ máy của “cờ trắng” gồm có vua, các chiến sĩ, nàng tiên, thầy cúng. Phú dự định bắt liên lạc với Pháp, dựa vào Pháp để duy trì “cờ trắng”, tháng 7 năm 1947, chúng nổi lên đánh đơn vị của đồng chí Viên Phượng Hồ tại Nậm Dịch (Hoàng Su Phì) và làm lễ tế cờ. Đồng bào Dao bị mê hoặc, lôi kéo đi đốt phá, cướp bóc các làng dân tộc Tày. Đến tháng 9 năm 1947, loạn cờ trắng phát triển mạnh, chúng đã câu kết với tên Hạng Sào Chúng, một địa chủ phản động có thế lực ở Múng Tủng (Trung Quốc). Lực lượng của Phú có trên 1000 người, vũ khí trang bị do lấy được của Nhật và Hạng Sào Chúng cung cấp. Trong tháng 2 và 10/1947, phỉ cờ trắng đã đốt 261 nóc nhà, giết hại một cách dã man 69 người kể cả trẻ em và phụ nữ có thai. Lúc này, trên địa bàn xã, chúng đã khống chế toàn bộ các thôn khu vực phía Đông (thuộc xã Quảng Nguyên ngày nay), giết 2 người, cướp bóc nhiều trâu, bò và các tài sản khác của nhân dân. Loạn cờ trắng đã gây tổn hại nghiêm trọng đến tình đoàn kết giữa các dân tộc, đến việc thực hiện chính sách dân tộc, củng cố chính quyền cách mạng vừa mới giành được. Sai lầm của chính quyền xã là đã không nắm bắt, báo cáo kịp thời tình hình đó để có biện pháp xử lý, chủ quan cho rằng chúng không dám nổi loạn. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Hà Giang, Ủy ban hành chính xã đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan dùng biện pháp bao vây khoanh vùng, xác định đối tượng, lấy thuyết phục chính trị là chính, 19
  20. quân sự áp lực. Do phần lớn những người theo “cờ trắng” là đồng bào bị dụ dỗ, ép buộc, không phải là giặc nên tránh nổ súng vào hộ mà phải tổ chức các hội nghị đoàn kết dân tộc, giải thích rõ nguyên nhân, tác hại của vụ việc, tuyên truyền chính sách đoàn kết dân tộc của Chính phủ. Do có chủ trương biện pháp đúng, ta kiên trì thuyết phục, lại được nhân dân ủng hộ, lực lượng “cờ trắng” suy yếu dần. Đến tháng 11/1947, tướng “cờ trắng” Chào Sành Phú cùng 12 tên đầu sỏ ra hàng cách mạng; được giáo dục giác ngộ, Phú và lực lượng “cờ trắng” đã tự nguyện tham gia đánh Pháp, lập công chuộc tội. Đến cuối năm 1948 do nhu cầu phát triển tất yếu của cách mạng, tổ đảng Khuôn Lùng11 được thành lập để tiện thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Giữa năm 1949, công tác xây dựng Đảng tiếp tục được chú trọng, chất lượng đảng viên của Tổ đảng ngày càng được nâng lên, với sự phát triển đó, ngày 23/7/1949, Huyện ủy Bắc Quang đã ra quyết định thành lập chi bộ Đảng xã Khuôn Lùng, tại thời điểm này chi bộ Đảng Khuôn Lùng có 5 đảng viên. Đồng chí Hoàng Văn Vỉ được chỉ định làm Bí thư chi bộ. Sự kiện thành lập chi bộ xã Khuôn Lùng là một bước ngoặt lịch sử quan trọng, đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào cách mạng ở xã dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngay sau khi được thành lập, chi bộ đã nhanh chóng tập trung chỉ đạo kiện toàn bộ máy chính quyền, các đoàn thể và lực lượng dân quân du kích, phân công từng đồng chí đảng viên xuống các thôn bản 11 Tổ đảng gồm 5 đảng viên; Tổ trưởng là đồng chí Hoàng Văn Vỉ. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2